Cơ sở lý thuyết ứng dụng phân tích Công ty, định giá cổ phiếu vào hoạt động đầu tư

LỜI MỞ ĐẦU Yếu tố đầu tiên và quan trọng của bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào là yếu tố vốn. Một nền kinh tế muốn phát triển không thể thiếu được hoạt động tích tụ và tập trung vốn. Thị trường chứng khoán ra đời là một kênh tích tụ và tập trung vốn vô cùng hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế. Thấy được vai trò của Thị trường chứng khoán, năm 1997, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ra đời với trách nhiệm là xây dựng và cho ra đời thị trường Chứng kh

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cơ sở lý thuyết ứng dụng phân tích Công ty, định giá cổ phiếu vào hoạt động đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oán Việt Nam. Chỉ ba năm sau, vào năm 2000, Uỷ ban đã đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh) và hoạt động, đánh dấu sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ sau khi được chính thức ra đời, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã dần phát triển, những dấu mốc được nhắc đến nhiều nhất là sự phát triển vượt bậc của thị trường trong hai năm 2006, 2007 và sự suy giảm liên tục của thị trường vào năm 2008. Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, sự suy giảm kinh tế trong và ngoài nước là những nguyên nhân thường được nhắc tới để giải thích cho sự suy giảm của thị trường. Tuy nhiên bên cạnh những nguyên nhân vĩ mô từ nền kinh tế, chúng ta không thể không nhắc tới một nguyên nhân đó là sự phát triển bong bóng của thị trường trong giai đoạn trước đó là năm 2006 và 2007. Nguyên nhân này có thể là do nhà đầu tư chỉ đầu tư theo tâm lý – kiếm lời nhanh từ Thị trường chứng khoán, hoặc do nhà đầu tư đã quá kỳ vọng vào thị trường, đánh giá quá cao công ty và sẵn sàng trả giá cao cho cổ phiếu. Hậu quả là năm 2008, bong bóng chứng khoán vỡ, tình hình kinh tế khó khăn, nhà đầu tư mất lòng tin vào thị trường, cổ phiếu của các công ty liên tục sụt giảm. Nhiều chuyên gia đã đưa ra nhận xét: thị giá của nhiều cổ phiếu đã xuống dưới giá trị thực, đây là thời điểm thích hợp để đầu tư vào thị trường. Tuy nhiên, thị trường vẫn chưa chứng kiến sự quay trở lại của các nhà đầu tư. Vậy liệu giá cổ phiếu hiện nay đã thực sự thấp hơn giá trị, liệu các nhà đầu tư có nhận ra được giá trị thực của cổ phiếu? Rõ ràng, nguyên nhân và hậu quả của những diễn biến trên Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua đều bắt nguồn từ việc thiếu đi sự phân tích công ty, định giá cổ phiếu để có quyết định đầu tư hợp lý, liên tục đầu tư khi thị giá của cổ phiếu vượt quá giá trị thực nhưng lại thờ ơ khi thị giá cổ phiếu giảm xuống dưới giá trị thực. Trước thực trạng đó, em đã quyết định chọn đề tài “cơ sở lý thuyết ứng dụng phân tích công ty, định giá cổ phiếu vào hoạt động đầu tư” để tìm hiểu và nghiên cứu cho đề án môn học Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Trần Đăng Khâm đã tận tình hướng dẫn và góp ý để em có thể hoàn thành được đề tài Tuy nhiên, do hạn còn hạn chế về kiến thức, đề án của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý‎ của các thầy cô để đề án hoàn thiện hơn Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG CHÍNH 1 Đầu tư chứng khoán 1.1 Khái niệm đầu tư chứng khoán Ta xem xét khái niệm đầu tư trong nền kinh tế: Kiếm tiền và chi tiêu dùng là những hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Tuy nhiên, rất hiếm khi mà số tiền một người kiếm được lại cân bằng với nhu cầu tiêu dùng của người đó: Đôi khi, số tiền bạn kiếm được sẽ nhiều hơn nhu cầu chi tiêu của bạn và lại có lúc mà nhu cầu chi tiêu lớn hơn khả năng đáp ứng của bạn. Sự mất cân bằng này sẽ dẫn tới việc hoặc là bạn phải vay tiền để chi tiêu hoặc bạn cần tiết kiệm tiền trong một thời gian dài để tự làm tăng thu nhập của bản thân. Khi mà thu nhập hiện tại vượt quá nhu cầu chi tiêu, mọi người thường có xu hướng tiết kiệm, có rất nhiều cách để tiết kiệm. Có thể chỉ là giữ tiền bạc, của cải trong nhà và chờ đến khi mà nhu cầu tiêu dùng lớn hơn thu nhập thì sẽ sử dụng. Tuy nhiên, với cách này thì số tiền có được trong tương lại sẽ vẫn là số tiền mà họ đã tiết kiệm. Một khả năng hợp lý hơn là mọi người sẽ từ bỏ thu nhập hiện tại với mong muốn có được một khoản tiền lớn hơn đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Chính sự hi sinh tiêu dùng hiện tại để kỳ vọng vào khả năng chi tiêu nhiều hơn trong tương lai là lý do để tiết kiệm. Và việc mà mọi người làm với khoản tiền tiết kiệm đó để làm nó tăng lên qua thời gian là đầu tư. Như vậy, xét theo khía cạnh kinh tế đầu tư có thể được hiểu là “sự hi sinh nguồn lực hiện tại (như tiền bạc, của cải…) để thu về một lượng giá trị lớn hơn trong tương lai” Khoản chênh lệch này có thể bù đắp cho nhà đầu tư về: thời gian mà lượng giá trị được đem trao đổi, tỷ lệ lạm phát dự tính và rủi ro thanh toán (sự không chắc chắn được chi trả số tiền trong tương lai) Tài sản đầu tư có thể là tài sản thực – các tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy móc thiết bị… bên cạnh các tài sản thực, nhà đầu tư có thể bỏ tiền để nắm giữ các tài sản tài chính. Đầu tư vào tài sản tài chính không trực tiếp làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, song là hoạt động đầu tư rất quan trọng nhằm tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế, từ đó sẽ gián tiếp làm tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Chứng khoán là một công cụ của thị trường tài chính, vì vậy, “đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính” Các chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh…. 1.2 Phân loại đầu tư chứng khoán Có rất nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán. Căn cứ theo thời hạn đầu tư có thể chia thành đầu tư ngắn hạn, đầu tư trung hạn và đầu tư dài hạn. Căn cứ theo loại tài sản đầu tư có thể phân chia thành đầu tư cổ phiếu, đầu tư trái phiếu, đầu tư chứng khoán phái sinh và đầu tư các tài sản tài chính khác. Căn cứ theo mục đích đầu tư có thể phân loại thành: đầu tư ngân quỹ, đầu tư hưởng lợi, đầu tư phòng vệ và hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát. 1.2.1 Đầu tư ngân quỹ Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự trữ, các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn thường phải nắm giữ một lượng tiền khá lớn. Tuy nhiên, tiền không phải là tài sản sinh lời nên các đối tượng này thường có xu hướng tăng cường đầu tư vào các tài sản sinh lời và giảm dự trữ tiền mặt. Một số chứng khoán ngắn hạn có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền mặt như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, thương phiếu… là những tài sản tài chính thường được lựa chọn để phục vụ hoạt động đầu tư ngân quỹ. 1.2.2 Đầu tư hưởng lợi Khác với hoạt động đầu tư ngân quỹ với mục tiêu thanh toán, chi trả; Đầu tư hưởng lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận có thể bao gồm lợi tức từ tài sản đầu tư như cổ tức, hay trái tức, phần chênh lệch giá chứng khoán và các quyền lợi khác nếu có. Hoạt động đầu tư hưởng lợi lại có thể được phân chia thành: Thứ nhất, kinh doanh chênh lệch giá: Là hoạt động mua bán chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá chứng khoán hoăc lợi dụng sự chênh lệch giá tại các thị trường khác nhau. Ví dụ một cổ phiếu được niêm yết đồng thời trên thị trường chứng khoán New York và thị trường chứng khoán London, như vậy, có thể có cơ hội kinh doanh chênh lệch giá do tỷ giá giữa hai đồng tiền Đôla Mỹ và Bảng Anh. Một nhà đầu tư Mỹ có thể dùng Đôla để mua Bảng Anh, sau đó dùng Bảng Anh để mua cổ phiếu và bán ở Mỹ để thu về Đôla. Thứ hai, hoạt động đầu cơ: là hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm kiếm lợi tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Thứ ba, kinh doanh giảm giá: là hoạt động đầu tư hưởng lợi khi có hiện tượng giảm giá chứng khoán. Khi dự báo giá chứng khoán giảm, nhà đầu tư sẽ bán chứng khoán để chờ giá hạ và mua lại. Phần chênh lệch giá sau khi trừ đi chi phí giao dịch sẽ là thu nhập của nhà kinh doanh giảm giá. Trường hợp đặc biệt của kinh doanh giảm giá là bán khống. Nhà đầu tư sẽ vay chứng khoán của một công ty chứng khoán và bán đi, chờ khi giá hạ họ sẽ mua lại để trả chứng khoán Thứ tư, tạo lập thị trường: là trường hợp nhà đầu tư, thường là công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại đảm nhận tạo thị trường cho các loại chứng khoán trên thị trường OTC. Các tổ chức này thường được cấp phép của ủy ban chứng khoán, thực hiện nắm giữ một lượng chứng khoán đủ lớn và thực hiện mua bán theo yêu cầu nhằm tăng tính thanh khoản cho chứng khoán. Họ có thể thu được lợi tức đầu tư từ cổ tức, trái tức, chênh lệch tăng giá chứng khoán, tiền hoa hồng khi thực hiện môi giới cho các nhà đầu tư…Hoạt động tạo lập thị trường có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán. 1.2.3 Đầu tư phòng vệ Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn, song rủi ro cao, do vậy các công cụ phòng vệ xuất hiện ngày càng nhiều nhằm giúp các nhà đầu tư phòng tránh rủi ro như: hợp đồng giao sau (Forwards), hợp đồng kỳ hạn (Futures), hợp đồng quyền chọn (Options)… các công cụ này được sử dụng cho cả nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá, nghiệp vụ đầu cơ và nghiệp vụ phòng vệ. 1.2.4 Đầu tư nắm quyền kiểm soát Cổ phiếu là loại chứng khoán cho phép chủ sở hữu có quyền kiểm soát công ty phát hành thông qua quyền tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông. Vì vậy, một số nhà đầu tư lớn, thường là các nhà đầu tư có tổ chức như là các doanh nghiệp hoặc các ngân hàng lớn thường thực hiện hoạt động đầu tư nắm quyền kiếm soát. Thông qua hoạt động đầu tư vốn, các tổ chức này thường tham gia Hội đồng quản trị nhằm thực hiện hoạt động quản lý, tạo mối liên kết về sở hữu trong tập đoàn. Một hình thái khác của đầu tư nắm quyền kiểm soát là hoạt động đầu tư mạo hiểm. Một số tổ chức đầu tư lớn thường tìm kiếm cơ hội đầu tư từ các công ty chưa phát triển, đặc biệt là yếu kém về công nghệ quản lý. Thông qua nắm quyền kiểm soát, các nhà đầu tư lớn thực hiện tái cấu trúc công ty, thay đổi quản lý, công nghệ từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện hình ảnh trong công chúng đầu tư, từ đó thực hiện bán cổ phiếu trên thị trường tập trung hoặc thị trường OTC khi cổ phiếu tăng giá 2 Ứng dụng phân tích công ty, định giá cổ phiếu cho đầu tư chứng khoán 2.1 Phân tích chứng khoán Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định đầu tư. Hiện nay, có ba phương pháp phân tích chứng khoán nhằm xem xét ra quyết định đầu tư, đó là Thứ nhất: Phân tích cơ bản, gồm có các bước: phân tích vĩ mô nền kinh tế, phân tích ngành, phân tích công ty và định giá cổ phiếu. Mục tiêu của phân tích cơ bản là nhằm xác định giá trị thực của chứng khoán, trên cơ sở đó, lựa chọn chứng khoán phù hợp dựa trên so sánh giữa giá trị thực với giá cả của chứng khoán trên thị trường Thứ hai: Phân tích kỹ thuật, ở phương pháp này, nhà đầu tư xem xét xu hướng biến động của giá chứng khoán trong quá khứ với nhiều công cụ khác nhau, chủ yếu là đồ thị, từ đó, tìm thời điểm mua bán chứng khoán thích hợp. Cuối cùng: Phân tích hành vi, phương thức này không quan tâm đến cả giá trị thực lẫn xu hướng biến động giá chứng khoán. Họ mua bán theo tâm lí nhà đầu tư: họ mua rẻ từ những “người chán” và sau đó bán cho những “người thích” nhằm mục tiêu mua rẻ bán đắt. Trong ba phương pháp trên thì phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật được áp dụng khá phổ biến. 2.2 Phân tích công ty, định giá cổ phiếu Như đã trình bày, phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định đầu tư. Trên thực tế, có rất nhiều cách thức đầu tư với mục tiêu khác nhau. Tuỳ từng mục tiêu đầu tư mà nhà đầu tư sẽ lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp. Ví dụ khi kinh doanh chênh lệch giá, nắm giữ chứng khoán trong ngắn hạn, hoặc chỉ lợi dụng chênh lệch giá chứng khoán ở các thị trường khác nhau, vì vậy, chỉ phân tích cơ hội chênh lệch giá. Trong khi đó, nhà đầu cơ chứng khoán kiếm lời nhờ việc nắm giữ chứng khoán trong dài hạn, do vậy, cần phân tích đánh giá giá trị của chứng khoán và đầu tư vào các cổ phiếu đang bị đánh giá tháp hơn giá trị. Trong đề án này, em tập trung tìm hiểu cách thức phân tích công ty, định giá cổ phiếu nhằm xác định giá trị của cổ phiếu, từ đó lựa chọn cổ phiếu cho mục tiêu đầu cơ – hay đầu tư dài hạn. Phân tích công ty và định giá cổ phiếu là bước cuối cùng trong cách phân tích từ trên xuống dưới của phân tích cơ bản (phân tích vĩ mô nền kinh tế, phân tích ngành, phân tích công ty) Bước phân tích vĩ mô nền kinh tế nhằm mục tiêu chọn ra cách phân bổ tài sản tối ưu giữa cổ phiếu, trái phiếu, tiền, các tài sản khác… Bước phân tích ngành nhằm mục tiêu: dựa trên những phân tích vĩ mô đã thực hiện, sẽ xác định những ngành có triển vọng phát triển. Bước phân tích công ty, định giá cổ phiếu có mục tiêu chọn ra những công ty có triển vọng và những cổ phiếu đang bị đánh giá thấp. 2.1.1 Sự cần thiết của kết hợp phân tích công ty và định giá cổ phiếu Một điều cần khẳng định khi tiến hành phân tích công ty, định giá cổ phiếu là “cổ phiếu một công ty tăng trưởng không nhất thiết phải là cổ phiếu tăng trưởng” Nhiều quan sát cho thấy: Công ty tăng trưởng là những công ty có mức tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận lớn hơn mức trung bình. Cách định nghĩa này gặp phải hạn chế bởi nhiều công ty có kết quả hoạt động tốt do phương thức tiến hành kế toán hoặc nhiều công ty có sự lớn mạnh dựa vào liên doanh liên kết. Các nhà tài chính đưa ra khái niệm: một công ty tăng trưởng là một công ty với đội ngũ quản lý có năng lực và có cơ hội thực hiện đầu tư để có được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của công ty. Ví dụ, một công ty tăng trưởng có cơ cấu vốn ở mức chi phí vốn trung bình là 10%, công ty có đội ngũ quản lý có năng lực, đồng thời có cơ hội đầu tư vào các dự án với tỷ suất sinh lợi từ 15% - 20%. Kết quả của những cơ hội đầu tư này là doanh số bán hàng và thu nhập của công ty sẽ lớn hơn của công ty khác có cùng rủi ro và so với cả nền kinh tế nói chung. Thêm vào đó, một công ty tăng trưởng với cơ hội đầu tư trên mức trung bình thường có xu hướng giữ lại một phần lớn thu nhập để đầu tư vào các dự án có chất lượng cao (do vậy, tỷ lệ chi trả cổ tức thường thấp) Cổ phiếu tăng trưởng không nhất thiết phải là cổ phần trong những công ty tăng trưởng. Một cổ phiếu tăng trưởng là một cổ phiếu có tỷ suất thu nhập cao hơn những cổ phiếu khác trên thị trường với cùng độ rủi ro. Cổ phiếu đạt được thu nhập cao là vì ở một số thời điểm, thị trường đánh giá nó có giá trị kém hơn các cổ phiếu khác. Mặc dù thị trường luôn đánh giá giá cổ phiếu một cách nhanh chóng để phản ứng lại những thông tin mới, nhưng những thông tin có sẵn thường không đầy đủ và hoàn hảo. Do vậy, sự không đầy đủ và hoàn hảo của thông tin là nguyên nhân dẫn đến cổ phiếu bị định giá thấp hoặc bị định giá thấp vào một thời điểm nào đó. Nếu cổ phiếu ở dưới giá trị, giá của nó cuối cùng sẽ tăng lên để phản ánh đúng giá trị gốc của nó khi xuất hiện các thông tin chính xác. Trong suốt giai đoạn cổ phiếu được đánh giá lại giá trị này, thu nhập thực tế sẽ vượt quá thu nhập kỳ vọng để bù đắp rủi ro của cổ phiếu, và nó sẽ được coi như là một cổ phiếu tăng trưởng. Cổ phiếu tăng trưởng trong tương lai có thể là cổ phiếu của bất kỳ công ty nào, chỉ cần là nó đang bị thị trường định giá dưới giá trị thật. Như vậy, phân tích công ty và lựa chọn cổ phiếu có sự khác biệt. Nếu nhà đầu tư chỉ phân tích công ty mà không định giá cổ phiếu, sẽ có xu hướng lựa chọn cổ phiếu của những công ty tốt, tuy nhiên cổ phiếu của những công ty này có thể đã bị định giá quá cao so với giá trị thực. Trong khi đó, cổ phiếu của một công ty có kết quả hoạt động kinh doanh không tốt bằng, song giá thị trường của cổ phiếu lại thấp hơn giá trị thực của nó. Việc đầu tư này sẽ giúp cho nhà đầu tư kiếm được thu nhập từ tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Do vậy, việc kết hợp giữa phân tích công ty và định giá lựa chọn cổ phiếu là vô cùng quan trọng để có thể đưa ra được quyết định đầu tư tối ưu. 2.1.2 Phân tích công ty Trong phân tích công ty, cần tiến hành kết hợp giữa phân tích định tính và phân tích định lượng. Bởi không thể nói một công ty có bộ máy quản trị hiệu quả, có chiến lược kinh doanh hợp lý khi mà công ty có kết quả kinh doanh thấp, hay một công ty hiện có kết quả kinh doanh tốt, nhưng không có khả năng cạnh tranh trong ngành thì công ty đó không thể tiếp tục có sự tăng trưởng trong tương lai. 2.1.2.1 Phân tích định tính Phân tích khả năng cạnh tranh của công ty trong ngành theo mô hình của Porter kết hợp phân tích cơ bản theo mô hình SWOT (để thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của công ty) là hai phương pháp phân tích định tính để có thể mang lại những hiểu biết tương đối đầy đủ về khả năng phát triển và cạnh tranh của công ty. 2.1.2.1.1 Phân tích khả năng cạnh tranh của công ty theo mô hình Porter Trước tiên, để thấy được sự cạnh tranh trong ngành, ta tiến hành phân tích 5 nhân tố có thể ảnh hưởng đến cầu trúc cạnh tranh và lợi nhuận tiềm ẩn của ngành. Đó là các yếu tố: Sự cạnh tranh hiện tại (current rivalry), sự đe doạ ra nhập ngành của đối thủ tiềm ẩn (threat of new entrants), nguy cơ từ sản phẩm thay thế (potential substitutes), áp lực từ phía nhà cung cấp – như khả năng đặt giá… (bargaining power of suppliers), áp lực từ phía người mua – khả năng mặc cả của người mua (bargaining power of buyers). Sau khi xác định được cấu trúc cạnh tranh trong ngành, ta nên cố gắng xác định khả năng cạnh tranh riêng của mỗi công ty và đánh giá những chiến lược cạnh tranh đó trong từng thời kỳ. Chiến lược cạnh tranh của một công ty có thể là ở thế phòng thủ (defensive) hoặc thế tấn công (offensive) Một chiến lược cạnh tranh phòng thủ là chiến lược mà vị thế và năng lực của công ty có thể mang lại lượng của cải (tài sản) lớn nhất để tránh được những ảnh hưởng của sự cạnh tranh trong nội bộ ngành. Ví dụ, chiến lược cạnh tranh có thể bao gồm đầu tư vào tài sản cố định và công nghệ để làm giảm chi phí sản xuất hay tạo ra thương hiệu mạnh bằng việc gia tăng chi phí cho quảng cáo Chiến lược cạnh tranh tấn công là chiến lược mà công ty nỗ lực sử dụng những lợi thế, điểm mạnh của nó để gây ảnh hưởng cạnh tranh trong ngành. Ví dụ, Wal – Mart đã sử dụng sức mạnh là người mua của mình để có được mức giá có lợi từ phía nhà cung cấp. Yếu tố thuận lợi về giá cả đầu vào, cùng với việc kết hợp một hệ thống giao hàng tới tận kho tạo điều kiên để Wal – Mart trở nên lớn mạnh hơn so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành và trở thành tập đoàn bán lẻ hàng đầu tại Mỹ. Như vậy, nhà đầu tư cần phải biết được những chiến lược cạnh tranh có thể có và xác định được chiến lược cạnh tranh của từng công ty, đánh giá xem liệu chiến lược cạnh tranh của công ty đó có phù hợp với ngành không và cuối cùng, dự đoán mức độ thành công của công ty khi công ty thực hiện chiến lược cạnh tranh của nó. Tiếp theo, ta sẽ xem xét vị thế và chiến lược cạnh tranh của công ty. Sự phân tích nhằm chỉ ra liệu công ty có đang tận dụng được lợi thế của ngành và các điều kiện kinh tế vĩ mô để đối phó với sự cạnh tranh hay không. Potter đưa ra hai chiến lược cạnh tranh: đó là “chiến lược chi phí thấp” và “chiến lược sự khác biệt”. Hai chiến lược cạnh tranh này chỉ ra bằng cách nào một công ty có thể đối phó với sự cạnh tranh trong ngành Chiến lược chi phí thấp: Một công ty theo đuổi chiến lược chi phí thấp sẽ trở thành nhà sản xuất với chi phí thấp. Lợi thế về chi phí khác nhau tuỳ theo ngành, và có thể bao gồm giảm chi phí sản xuất, quyền sở hữu về công nghệ, và được ưu đãi trong tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào. Để tận dụng được lợi thế từ chi phí thấp, công ty nên giữ mức giá gần với mức trung bình của ngành. Bởi, nếu một công ty giảm giá sản phẩm quá nhiều, nó có thể ăn mòn tỷ lệ lợi nhuận mà nhờ tận dụng lợi thế về chi phí thấp mang lại. Trong suốt thập kỷ trước, Wal – Mart được biết đến là tập đoàn có chi phí đầu vào thấp, đó là nhờ khối lượng hàng hoá đặt mua lớn và các giao dịch mua hàng có chi phí thấp hơn. Như là một kết quả, công ty phải trả chi phí thấp nhờ đó có được lợi nhuận biên và lợi nhuận trên vốn đầu tư cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược sự khác biệt: với chiến lược sự khác biệt, một công ty tìm cách làm cho công ty mình trở thành duy nhất trong ngành mà trong phạm vi nhất định nhân tố duy nhất này là quan trọng đối với người mua. Một lần nữa, các yếu tố tạo nên sự khác biệt là khác nhau đối với mỗi ngành. Một công ty có thể tạo ra sự khác biệt dựa trên hệ thống phân phối của nó (như bán hàng ngay tại kho, đặt hàng qua email, hay giao hàng ngay tại công trình…) hoặc một vài cách tiếp cận thị trường riêng biệt. Một công ty với chiến lược tạo ra sự khác biệt sẽ có tỷ lệ sinh lời cao hơn mức trung bình với điều kiện mức giá cao hơn của công ty nhờ có sự khác biệt phải lớn hơn chi phí để trở nên duy nhất. Do vậy, khi phân tích công ty dựa trên chiến lược tạo ra dự khác biệt, nhà đầu tư cần xác định xem liệu nhân tố khác biệt này có phải là duy nhất thực sự hay không, liệu công ty có thể chứng tỏ được sự khác biệt không, và về chi phí, liệu mức giá cao hơn nhờ tận dụng lợi thế riêng biệt có lớn hơn chi phí tạo lợi thế hay không. 2.1.2.1.2 Phân tích cơ bản công ty theo SWOT Một cách phân tích khác để có thể nắm được vị thế và chiến lược của công ty là phân tích SWOT Phân tích SWOT gồm những xem xét về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của công ty. Phân tích này có thể cho thấy liệu các chiến lược của công ty có khai thác được lợi thế cạnh tranh của bản thân công ty và tránh được các điểm yếu của nó hay không. Điểm mạnh và điểm yếu bao gồm xác định những khả năng vốn có và những thiếu sót còn tồn tại trong nội tại công ty. Cơ hội và thách thức những điều kiện bên ngoài, như áp lực cạnh tranh, sự ra đời của công nghệ mới, chính sách của chính phủ và tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Những điểm mạnh của một công ty có thể mang lại lợi thế so sánh trên thị trường. Điểm mạnh của công ty có thể bao gồm: dịch vụ khách hàng tốt, sản phẩm chất lượng cao, thương hiệu mạnh, sự trung thành của khách hàng, hoạt động nghiên cứu và triển khai, vị thế người dẫn dắt thị trường hoặc tiềm lực tài chính mạnh… Những điểm yếu của công ty lại là những lợi thế tiềm ẩn mà đối thủ cạnh tranh của công ty có thể tận dụng. Một khi những điểm yếu được chỉ ra, công ty có thể lựa chọn những chiến lược để làm giảm bớt hoặc làm mất đi những điểm yếu. Ví dụ, một công ty chỉ là một nhà sản xuất trong nước nhưng trong một thị trường toàn cầu, tận dụng quá trình toàn cầu hoá, nó có thể đầu tư để xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hay một công ty không có tiềm lực về tài chính có thể hình thành sự liên kết với những công ty có tiềm lực mạnh về tài chính… Cơ hội, hay nhân tố môi trường kinh doanh có thể là yếu tố thuận lợi với công ty, nó bao gồm sự tăng trưởng của thị trường đối với sản phẩm của công ty (thị trường trong và ngoài nước), sự giảm áp lực cạnh tranh, những thuận lợi về tỷ giá…. Thách thức là nhân tố bên ngoài có thể cản trở công ty đạt được những mục tiêu của nó. Ví dụ, thách thức có thể gồm sự suy giảm kinh tế trong nước (sự suy thoái kinh tế nước ngoài đối với doanh nghiệp xuất khẩu), chính sách của chính phủ, sự gia tăng của đối thủ cạnh tranh trong ngành, đe doạ từ phía người mua và người bán về khả năng tăng sức mạnh đàm phán giá, công nghệ mới… Bằng việc phát hiện và hiểu được những cơ hội và thách thức, một nhà đầu tư có thể xem xét xem về cách mà công ty có thể tận dụng được các cơ hội và hạn chế được những thách thức. Như vậy, việc phân tích định tính công ty có thể cho nhà đầu tư một cái nhìn khái quát về công ty, đặc biệt là về khả năng cạnh tranh, chiến lược tiếp cận thị trường và khả năng phát triển trong tương lai của công ty. 2.1.2.2 Phân tích định lượng – Phân tích tài chính công ty 2.1.2.2.1 Phân tích các chỉ tiêu tài chính Sau khi có được những nhận định khái quát về công ty, phân tích các chỉ tiêu tài chính công ty sẽ giúp các nhà phân tích có cái nhìn cụ thể hơn về công ty, về khả năng tài chính cũng như tiềm năng phát triển chung của công ty, từ đó có thể đánh giá toàn diện công ty. Mỗi đối tượng khác nhau sẽ quan tâm đến nội dung tài chính khác nhau. Đối với nhà đầu tư khi xem xét đầu tư vào cổ phiếu của công ty sẽ xem xét đến tất cả các chỉ tiêu tài chính của công ty bởi khi trở thành cổ đông, nhà đầu tư sẽ vừa là chủ sở hữu vừa là người đầu tư vì thế họ quan tâm đến cả sự an toàn, khả năng sinh lợi và phát triển của công ty. Trong phân tích tài chính, phương pháp phân tích thường được sử dụng là kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp so sánh, một số chỉ tiêu tài chính có sử dụng phương pháp tách Dupont để đánh giá sự tác động của từng yếu tố cấu thành chỉ tiêu. Kết hợp phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh là việc hình thành các tỷ lệ tài chính trong quá trình phân tích và thực hiện so sánh các tỷ lệ này với một tỷ lệ tuyệt đối (có thể có), so sánh giữa thực hiện với kế hoạch, so sánh giữa hiện tại và quá khứ, so sánh giữa các công ty với nhau và so sánh với mức trung bình ngành. Các tỷ lệ tài chính được chia thành 4 nhóm chính: Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, Nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động, Nhóm tỷ lệ về cơ cấu tài sản và cơ cấu tài chính, Nhóm tỷ lệ về mức độ sử dụng chi phí, khả năng tạo lợi nhuận và phân phối lợi nhuận. Thứ nhất, nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán 1 Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn: Là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn với các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này cho biết mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải thanh toán trong 1 năm, do vậy, công ty phải dùng những tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền để thanh toán. Hệ số thanh toán ngắn hạn = Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn/Tổng nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán ngắn hạn càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng tốt, song khả năng sinh lời của tài sản càng kém do doanh nghiệp phải đánh đổi giữa khả năng thanh toán với khả năng sinh lời nhằm tránh rủi ro phá sản doanh nghiệp. Khi tiến hành phân tích so sánh: Nếu hệ số này >= 1 chứng tỏ sự bình thường trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và không cần phải đi vay mượn thêm Nếu hệ số này <1 thì công ty tạm thời rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán Tuy nhiên trên thực tế, việc đánh giá hệ số thanh toán ngắn hạn là cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố cụ thể cần xem xét như: loại hình kinh doanh, cơ cấu tài sản lưu động… Vì vậy, khi phân tích cần so sánh với tỷ lệ trung bình ngành cũng như toàn bộ thị trường để có kết luận chính xác. 2 Hệ số thanh toán nhanh: Thể hiện khả năng huy động về tiền mặt và các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đáp ứng cho việc thanh toán ngắn hạn. So với hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn thì trong công thức xác định hệ số khả năng thanh toán nhanh không tính đến các khoản tồn kho, vì đó không phải là loại tài sản có khả năng dùng để thanh toán cao (đặc biệt khi đó là hàng hóa khó bán) Hệ số thanh toán nhanh = (tiền + đầu tư ngắn hạn + các khoản phải thu)/ Tổng Nợ ngắn hạn Nếu hệ số này quá nhỏ thì công ty sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ, nếu hệ số này quá lớn lại phản ánh lượng tiền tồn quỹ nhiều làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. 3 Hệ số thanh toán tức thời: Nếu xét về tính thời điểm thì đây là hệ số đo lường khả năng thanh toán của công ty một cách hữu hiệu, nó cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền và chứng khoán dễ bán (đầu tư ngắn hạn) của doanh nghiệp Hệ số thanh toán tức thời = (tiền + đầu tư ngắn hạn)/Tổng nợ ngắn hạn Thứ hai, nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động 1 Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán/ Hàng tồn kho bình quân Chỉ số này càng cao càng được đánh giá tốt vì số tiền đầu tư cho hàng tồn kho thấp mà vẫn đạt được hiệu quả cao, tránh được tình trạn ứ đọng vốn. Tuy nhiên nếu chỉ số này quá cao cũng có nghĩa là công ty đang bị thiếu các đơn đặt hàng, hoặc công ty đang thiếu nguyên liệu. Ngược lại, nếu chỉ số này thấp, phản ánh hàng tồn kho dự trữ nhiều, sản phẩm không tiêu thụ được do hàng hoá lỗi thời, chất lượng kém… Một điều quan trọng là phải đánh giá hàng tồn kho theo từng ngành. Đối với những công ty bán lẻ hàng nông sản, thực phẩm hay hoa quả thì vòng quay hàng tồn kho thường cao bởi họ phải đối mặt với những sản phẩm dễ hỏng, trong khi đó, các công ty kinh doanh thiết bị có thể có vòng quay tồn kho thấp hơn. Vì vậy, cần so sánh chỉ tiêu này với trung bình ngành để có những đánh giá phù hợp Từ vòng quay hàng tồn kho có thể tính được số ngày trung bình thực hiện một vòng quay hàng tồn kho Số ngày một vòng quay hàng tồn kho = 360/Số vòng quay hàng tồn kho 2 Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển các khoản phải thu ra tiền mặt Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần/ Các khoản phải thu bình quân Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh, vốn của doanh nghiệp không bị chiếm dụng và không phải đầu tư nhiều vào việc thu hồi các khoản phải thu. Nếu vòng quay nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn. Nhìn chung, vòng quay cao thường tốt hơn bởi vì đó là bằng chứng cho thấy hiệu quả của việc chuyển các khoản phải thu thành tiền; tuy nhiên hệ số này quá cao thì chứng tỏ chính sách tín dụng, thu hồi các khoản phải thu của công ty quá chặt chẽ. Vì vậy, khi phân tích cần so sánh chỉ tiêu này với mức trung bình ngành. Từ vòng quay các khoản phải thu có thể tính được kỳ thu tiền bình quân Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày của một vòng quay các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = 360/vòng quay khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân cao nghĩa là doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thanh toán, khả năng thu hồi vốn chậm. Khi xem xét chỉ tiêu này, cần phải tìm hiểu chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Nếu kỳ thu tiền bình quân tăng dần hoặc cao hơn nhiều so với mức trung bình ngành chứng tỏ chính sách tín dụng của công ty là quá dễ dãi và các khoản phải thu là không đảm bảo tính thanh khoản. Nếu chính sách tín dụng quá khắt khe (được phản ánh qua việc thời gian thu hồi các khoản phải thu bình quân được rút ngắn lại hoặc thấp hơn so với trung bình ngành) thì công ty có thể sẽ bị mất nhiều khách hàng quan trọng Kỳ thu tiền bình quân cũng cần được so sánh với chính sách tín dụng ban đầu của công ty. Nếu ban đầu quy định là sẽ thu hồi các khoản phải thu trong 30 ngày nhưng kỳ thu tiền bình quân là 60 ngày thì có nghĩa là công ty đã không nỗ lực thu hồi các khoản phải thu. Ở đây, còn một yếu tố nữa cần xem xét, đó là sức mạnh của công ty trong phạm vi ngành. Với những công ty có sức mạnh tài chính thì họ hoàn toàn có thể cho phép thời hạn thu hồi các khoản phải thu dài hơn so với những công ty không có tiềm lực tài chính mạnh. 3 Hiệu suất sử dụng TSCĐ và hiệu suất s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6105.doc
Tài liệu liên quan