Lời mở đầu
Sản xuất là hoạt động cơ bản của con người. Mọi xã hội muốn tồn tại và phát triển phải duy trì sản xuất. Nhưng trong những điều kiện, muốn cho sản xuất có hiệu quả và phát triển nhanh chóng thì sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm. Có thể nói, hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, nó đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư lớn và đang ngày càng trở nên cấp thiết hơn.
Tuy nhiên, tình hình huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước cho nền kinh tế Vi
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu Tiết kiệm là quốc sách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam đang còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên la do khả năng tích luỹ, tiết kiệm vốn trong nước đang còn nhiều yếu kém, tình hình sử dụng vốn đầu tư trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả chưa cao, tình trạng thất thoát lãng phí còn lớn và diễn ra khá phổ biến . . . Do đó với nền kinh tế nước ta hiện nay, vấn đề tiết kiệm đang càng trở nên rất cấp thiết.
Trong bài viết này, do khả năng nghiên cứu hạn chế nên chúng tôi đề cập đến các nguồn tiết kiệm trong nước. Trong đề tài này chúng tôi xin trình bày những vấn đề liên quan đến khẩu hiệu “ Tiết kiệm là quốc sách “.
Nội dung của bài viết bao gồm 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “
Chương 2: Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm ở
Việt Nam trong thời gian tới
Chương 1
Cơ sở lý luận của khẩu hiệu: “ tiết kiệm là quốc sách “
Khái niệm về tiết kiệm
Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đưa ra khái niệm khác nhau. Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tăng tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “
Sang đến thế kỷ 19, C.Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiêt kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Như vậy, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để táI sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học khác nhau, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta và đưa ra khái niệm về tiết kiệm: “ Tiết kiệm là một quy luật, một phương pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ tiết kiệm khi đất nước còn nghèo, mà ngay cả khi giàu có và càng giàu có càng phải thực hành tiết kiệm “. Bác luôn nhấn mạnh “ tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 vấn đề mấu chốt để xây dựng, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, để cải thiện đời sống nhân dân “. Tư tưởng quan điểm của Bác là “ làm ra nhiều, chi dùng nhiều. Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế của nước ta “. Tiết kiệm - theo Bác “ cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân! “
Như vậy, tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng vẫn đạt được mục tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định ( Pháp lệnh của UBTVQH số 02/1998/PL - UBTVQH10 )
Bản chất của tiết kiệm
Tiết kiệm trong mọi thời điểm rất dễ bị hiểu sai lệch, chúng ta cần phải tìm hiểu cặn kẽ và đúng đắn bản chất của tiết kiệm để trong quá trình thực hành và vận dụng trong thực tiễn có thể đúng hướng.
Tiết kiệm là với chi phí thấp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn “ không phải xem đồng tiền to bằng cái nống, gặp việc đáng làm không làm, đáng tiêu không tiêu. Tiết kiệm phải được thực hiện một cách toàn diện, hoàn chỉnh bao gồm cả tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu không biết tiết kiệm của riêng thì không thể tiết kiệm của công được. Nhưng nếu chỉ lo tiết kiệm của riêng mà phung phí của công là không đúng. Tiết kiệm không chỉ lao động và tiền mà cả thời giờ “, Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc thận trọng, khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng việc đáng làm vì ích nước, đồng bào thì tiêu bao nhiêu, tốn bao nhiêu chúng ta cũng sẵn sàng thực hiện “.
Trong thời điểm hiện nay, với chủ trương “ kích cầu “ của Nhà nước, tuy nhiên chúng ta phải xem xét và khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc khuyến khích tiêu dùng và thực hành tiết kiệm. Tiết kiệm và kích cầu là hai vấn đề gắn bó với nhau nhưng hoàn toàn khác nhau. Tiết kiệm không có nghĩa là chi ít mà chi đúng và chi có hiệu quả. Thực hành tiết kiệm đồng thời với việc không chấp nhận việc tiêu dùng xa hoa, lãng phí, cần tiêu 1 mà tiêu 3, cần tiêu 3 lại tiêu 7. Bản thân từng người lao động, từng doanh nghiệp được Nhà nước ta khuyến khích tiêu dùng để thúc đẩy sản xuất bởi tiêu dùng là một khâu trong vòng tròn khép kín: sản xuất - lưu thông - phân phối - tiêu dùng. Đây chính là bản chất của tiết kiệm. Chúng ta hiểu và biết kết hợp hai vấn đề “ kích cầu “ và tiết kiệm để phát triển sản xuất. Như vậy mới có thể phát triển kinh tế được.
Các nguồn tiết kiệm
Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước ( NSNN ) :
Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lượng đầu tư của chính phủ. Trong trường hợp bội chi ngân sách, Nhà nước sẽ phải đi vay hoặc xin viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. ở nước ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân sách chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh này sẽ được bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ yếu được hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ.
Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ) :
Để tiến hành đầu tư sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư bằng vốn huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh các nguồn vốn khác như vay trực tiếp từ dân cư, vay nước ngoài hoặc nhận từ NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi.
Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
Tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ):
Mặc dù là một khu vực kinh tế tương đối non trẻ so với khu vực Nhà nước, nhưng khu vực tư nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vươn lên mạnh mẽ và đầy hứa hẹn trong tương lai. Khu vực tư nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân, các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn.
Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư :
Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng cường huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này chính là tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những năm 1996 - 1997.
Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề: “ tiết kiệm là quốc sách “
- Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã hội của đất nước.
Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý.
Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm ( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một cách có hiệu quả.
Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm.
Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết đơn thuần bằng biện pháp kinh tế như tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết được vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn cũng như dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, người ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện pháp cần chứ chưa đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan tuy đã được đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng còn có những điều khác biến doanh nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển vọng lưu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán.
- Chilê và Singapore: Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu được áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tương tự để tạo ngân quỹ và đem đi đầu tư khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống nhân dân lúc đang làm việc cũng như khi về hưu.
Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở sinh sống cho không ít người lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hướng dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách lừa gạt hoặc ép buộc người tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu như các khó khăn kinh tế có thể giải quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng được tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần tượng của đông đảo công chúng. Nhưng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định. Tức là, sẽ phải có người mất việc làm, có người bị thiệt hại, mất mát địa vị trong doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát sinh nghiêm trọng khác.
Chương 2
Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua
Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
Tiết kiệm của NSNN
Như đã nói ở trên, vốn NSNN được huy động nhờ tiết kiệm chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách quốc gia. Tình hình hoạt động ngân sách có thể thấy rõ qua bảng sau:
Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Thực tính ( tỷ đồng )
Tổng nguồn thu và viện trợ
21
30.7
42.1
53.4
62.4
66.3
68.6
69.5
Thu từ thuế
5.5
11.4
16.8
23.4
28.1
28.1
32.1
33.9
Đóng góp của DNNN
11.9
15.3
20.6
21.9
25.9
27.6
27.3
27.3
Nguồn thu ngoài thuế khác
2.8
3
3.5
6.5
6.9
8
7.3
6.4
Viện trợ
0.8
1
1.2
1.6
1.5
2.6
1.9
1.9
Tổng chi
22.9
36.9
43.9
54.6
62.9
40.8
72.5
74.5
Chi thường xuyên
15.5
25.6
31.1
39.6
44.6
49.4
49.5
48.5
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại )
6.4
9.6
11.7
12.1
15.6
19.5
19.8
23
Trả lãi
1
1.7
1.1
2.9
2.7
1.9
2
2.5
Dự phòng
0
0
0
0
0
0
1.2
0.5
Cán cân chung ( cơ sở tiền mặt )
-1.9
-6.2
-1.8
-1.2
-0.5
-4.5
-3.9
-5
Tỷ lệ phần trăm trong GDP
Tổng nguồn thu và viện trợ
19
22.5
24.7
23.9
22.9
21.1
19
17.8
Thu từ thuế
5
8.3
9..9
10.5
10.3
9
8.9
8.7
Đóng góp của DNNN
10.8
11.2
12.1
9.8
9.5
8.8
7.5
7
Nguồn thu ngoài thuế khác
2.5
2.2
2.1
2.9
2.5
2.6
2
1.6
Viện trợ
0.8
0.7
0.7
0.7
0.6
0.8
0.5
0.5
Tổng chi
20.7
27.1
25.8
24.4
23.1
22.6
20.1
19.1
Chi thường xuyên
14
18.8
18.3
17.8
16.4
15.7
13.7
12.4
Chi đầu tư ( không kể cho vay lại )
5.8
7
6.9
5.4
5.7
6.2
5.5
5.9
Trả lãi
1
1.3
0.6
1.3
1
0.6
0.6
0.6
Dự phòng
0
0
0
0
0
0
0.3
0.1
Cán cân chung ( sơ sở tiền mặt )
-1.7
-4.6
-1.1
-0.5
-0.2
-1.4
-1.1
-1.3
Ghi chú: GDP ( nghìn tỷ đồng )
111
137
170
229
272
314
362
391
Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Số liệu của Tổng cục Thống kê.
Qua bảng trên, có thể thấy tỷ trọng thu ngân sách đã giảm liên tục từ kể từ năm 1999. Mặc dù so với kế hoạch mà chính phủ đặt ra thì con số đạt được nêu trên gần sát, nhưng việc đưa ra các con số kế hoạch thấp về mục tiêu thu ngân sách cũng kéo theo sự sụt giảm tương ứng trong các khoản chi. Tuy vậy, chi cho đầu tư vẫn được duy trì ở khoảng trên dưới 5.5% ngân sách hàng năm, trong đó tập trung chủ yếu vào chi cho hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp. Mức thâm hụt ngân sách vẫn dừng ở mức tương đối ổn định, khoảng dưới 1.5% GDP.
Tỷ trọng thu ngân sách giảm gần một phần tư so với năm 2000, theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chủ yếu bắt nguồn từ sự giảm sút nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu. Thu thuế doanh nghiệp giảm là do hoạt động kém hiệu quả của các DNNN, trong khi các DNTN tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong những năm kể từ năm 2001 trở lại đây. Còn doanh thu thuế nhập khẩu giảm là do sự chuyển hướng cơ cấu nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập hàng tiêu dùng, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu trong GDP cũng giảm dần trong những năm qua. Điều này cho thấy, để giữ vững nguồn thu cho ngân sách thì việc cải cách hệ thống thuế, nhất là thành công của thuế VAT sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong khi nguồn thu ngân sách giảm mạnh từ 23% GDP năm 2000 xuống dưới mức 18% năm 2003, chính phủ đã theo đuổi một chính sách thận trọng, không cho phép sự giảm sút nguồn thu ngân sách gây ra sự bất ổn định về ngân sách quốc gia, mà đã có sự cắt giảm chi tiêu một cách tương ứng. Tuy nhiên, phần lớn sự cắt giảm là các khoản chi cho dịch vụ kinh tế và chi hành chính. Còn chi đầu tư xây dựng cơ bản vẫn được duy trì và có sự gia tăng chút ít.
Năm 2002 - 2003 cũng là giai đoạn chính phủ mở rộng hình thức đầu tư tín dụng Nhà nước - một loại ưu đãi tài chính của chính phủ đối với các dự án đầu tư. Mặc dù loại tài trợ này hoạt động trên nguyên tắc tự bù đắp nhưng ngân sách vẫn phải trợ cấp phần chênh lệch giữa lãi suất huy động của tổ chức cho vay và lãi suất cho vay ưu đãi mà các tổ chức này áp dụng theo địa chỉ mà Nhà nước hướng dẫn. Nếu những năm trước 1998, tỷ trọng vốn đầu tư bằng hình thức tín dụng Nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội đều chỉ giữ ở mức khiêm tốn dưới 10% thì từ năm 1998 đến nay, tỷ trọng này đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2002, nguồn đầu tư này đã chiếm đến hơn 15% tổng vốn đầu tư xã hội. Vì thế, việc tăng mạnh các loại hình cho vay này sẽ áp đặt một gánh nặng đáng kể lên ngân sách trong những năm tiếp theo.
Tóm lại, có thể nêu một số điểm chính như sau về thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư qua NSNN:
Vốn đầu tư từ NSNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đầu tư vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhưng khả năng thu hồi vốn thấp khiến các nhà đầu tư tư nhân không thấy hấp ( như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ). Trong những năm qua đã có sự chuyển hướng mạnh về định hướng đầu tư công cộng. Nhờ đó, đã có tác động tích cực đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và cơ cấu kinh tế.
Công tác thu chi ngân sách chưa thật vững chắc, khiến cho nguồn đầu tư từ tiết kiệm ngân sách cũng chưa bền vững. Việc chống buôn lậu, chống thất thu thuế cho Nhà nước cũng chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Ngân sách thường xuyên căng thẳng, vốn đầu tư quốc gia chưa được quản lý chặt chẽ, vẫn còn nhiều sơ hở, gây thất thoát lãng phí.
Tích luỹ của các DNNN
Như đã nói ở trên, nguồn vốn đầu tư của các DNNN chủ yếu dựa vào phần lợi nhuận để lại, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh ( tái đầu tư ) của các doanh nghiệp. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh còn nhiều, tài sản của thành phần kinh tế này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia. Hoạt động kinh doanh của chúng vẫn nhận được nhiều sự ưu đãi của chính phủ về cấp phát vốn, cho vay ưu đãi, ưu đãi về thuế . . . Đáng tiếc, hoạt động của các doanh nghiệp này lại rất kém hiệu quả, do đó tiết kiệm của các doanh nghiệp này để bổ sung vào nguồn vốn đầu tư toàn xã hội chưa tương xứng với tầm vóc của chúng.
Tình hình tài chính của các DNNN yếu kém
Loại doanh nghiệp
Yếu kém
Không hiệu quả
Số lượng DNNN
711
1989
Số lao động ( nghìn người )
183
583
Tổng nợ ( nghìn tỷ đồng )
19.5
42.5
Nợ ngân hàng ( nghìn tỷ đồng )
14
29
Vốn Nhà nước ( nghìn tỷ đồng )
10.2
52.5
Lợi nhuận trước thuế ( nghìn tỷ đồng )
-0.25
5
Nguồn: Bộ Tài chính và Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp Trung ương
Từ bảng trên có thể thấy, các DNNN “ yếu kém nhất “ và “ hoạt động không có hiệu quả “ được phân loại trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận và nợ, lần lượt có mức nợ gần 20 nghìn tỷ và 43 nghìn tỷ đồng ( tương ứng với khoảng 1400 và 3000 triệu đôla ) vào cuối năm 2001.
Sự kém cỏi trong hoạt động của các DNNN nói chung đã làm giảm sức mạnh của nền kinh tế xét về ba khía cạnh. Thứ nhất, nó gây ra sự phân bổ sai, không hiệu quả các nguồn lực vốn còn rất khan hiếm của xã hội. Nếu khu vực tư nhân nói chung hoạt động hiệu quả hơn các DNNN thì việc nâng đỡ các DNNN này bằng ngân sách quốc gia đã làm lãng phí nguồn lực xã hội mà đáng lẽ phải hướng sang phục vụ các DNTN. Thứ hai, nếu các ngân hàng quốc doanh bị ép phải tiếp tục cho các DNNN thua lỗ này vay thì sẽ làm tăng lượng vốn khê đọng, và nguy hiểm hơn có thể làm mất khả năng chi trả của các ngân hàng. Thứ ba, những vấn đề nêu trên nếu không được giải quyết triệt để thì sẽ ngày càng làm tăng thêm chi phí cho các cuộc cải cách ngân hàng và DNNN. Theo ước tính, nếu không có các chính sách thích hợp, chi phí cho việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ( xoá các khoản nợ không có khả năng thanh toán của các DNNN và tái cấp vốn cho các ngân hàng ) có thể sẽ tăng thêm hàng năm 1-2% GDP, trong khi mức dự kiến hiện nay đã vào khoảng 8 - 10% GDP.
Như vậy, tình hình hoạt động bi quan của đa số các DNNN cho thấy không thể dự kiến gì nhiều về nguồn vốn do các DNNN này tự đầu tư trong thời gian tới so với những gì họ đã làm được trong những năm qua, nếu không muốn nói là tình hình còn có thể xấu hơn nữa. Cải cách mạnh khu vực này theo hướng sắp xếp lại DNNN, xúc tiến cổ phần hoá, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả là hướng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách quốc gia, đồng thời từng bước tạo điều kiện để các doanh nghiệp có được tích luỹ thực sự từ lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh hiệu quả của chính họ.
Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
Tích luỹ của các DNTN
Tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 vào khoảng 51%, trong đó riêng khu vực tư nhân trong nước ( không kể khu vực tư nhân nước ngoài ) là 41% ( xem bảng dưới ). Trong giai đoạn 1999 - 2002, tuy gặp nhiều trở ngại nhưng khu vực tư nhân Việt Nam vẫn tăng trưởng 9% một năm, chỉ kém khu vực Nhà nước có 1%.
Tỷ trọng của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 ( % )
Tổng GDP
GDP của ngành chế tạo
Khu vực Nhà nước
Các doanh nghiệp Nhà nước
49
54
Khu vực tư nhân
Khu vực đầu tư nước ngoài
10
18
Khu vực đầu tư trong nước
41
28
trong đó:
Các doanh nghiệp gia đình
34
18
DNTN vừa và nhỏ
7
10
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2003.
Khu vực tư nhân đang tạo ra gần một nửa GDP trong các ngành chế tạo, trong đó khu vực tư nhân vẫn chiếm ưu thế, và tỷ trọng này còn tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp gia đình và DNTN vừa và nhỏ chiếm 28% GDP của ngành công nghiệp chế tạo.
Tiếp tục những cải cách trong việc khuyến khích đầu tư tư nhân từ những năm trước, năm 1999, chính phủ đã tiến hành các biện pháp như:
. Cho phép các công ty tư nhân Việt Nam góp quyền sử dụng đất của mình dưới dạng vốn sở hữu trong các liên doanh, khi họ đã trả đầy đủ tiền thuê đất.
. Thành lập Diễn đàn Khu vực Tư nhân và gặp gỡ hàng quý để trao đổi các vấn đề liên quan đến quyền lợi của khu vực tư nhân trong nước và ngoài nước.
. Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng chiến lược 5 năm phát triển khu vực tư nhân.
. Công bố danh sách các khuyến khích mới dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.
. Thông qua Luật Doanh nghiệp, bãi bỏ sự hạn chế có tính chất phân biệt về quyền thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh của bất kỳ một pháp nhân hoặc thể nhân nào, đơn giản hoá đáng kể các quy định thủ tục về đăng ký, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp cổ phần hoá.
. Công bố cụ thể về chương trình hành động về khu vực tư nhân theo Kế hoạch Myazawa. Chương trình này không chỉ đề cập đến các vấn đề giảm bớt khó khăn trong quá trình lập DNTN và tạo sân chơi bình đẳng, mà còn nêu lên các định chế tín dụng và các cơ quan hỗ trợ cho khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, các doanh nhân đều cho rằng, chính sách mới còn chưa được tự do hoá đầy đủ và qua trình thực hiện các chính sách hiện hành còn rất chậm chạp. Một số điểm cụ thể về những trở ngại này là:
. Về sự tham gia của khu vực tư nhân. Luật Doanh nghiệp vẫn chưa củng cố thêm tính chất tự do hoá.
. Về khuôn khổ pháp lý của khu vực tư nhân. Vẫn chưa có một hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất dành cho toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân.
. Chính sách đất đai. Vẫn có sự phân biệt về quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đối với đất thuê và các bất động sản khác sẽ không được chuyển nhượng nếu không được sự đồng ý của chính phủ trong từng trường hợp. Chưa có một hệ thống pháp lý thống nhất về đăng ký đất đai. Do đó, dễ gây ra sự tranh chấp về đất đai và gây khó khăn cho tổ chức tín dụng khi muốn xác định chủ sở hữu đích thực có quyền sử dụng đất.
. Khả năng tiếp cận yếu đối với các nguồn nhập khẩu và mạng lưới xuất khẩu. Về xuất khẩu, thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu còn rất rườm rà. Về nhập khẩu, các công ty bị hạn chế quyền nhập khẩu các mặt hàng không đăng ký trong giấy phép, và để xin được các giấy phép kinh doanh mới có liệt kê mặt hàng nhập khẩu thích hợp thì rất khó khăn. Thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu cũng tốn thời gian và chi phí không kém, nhiều mặt hàng nhập khẩu vẫn chịu hạn chế của các hàng rào phi thuế quan.
. Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng còn hạn chế. Một nguyên nhân chính là các DNTN gặp rất nhiều khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu thế chấp.
. Các tổ chức hỗ trợ thị trường kém. Do đó, DNTN thiếu những kênh quan trọng để trao đổi, thu thập thông tin. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cũng còn hạn chế, do đó chưa tranh thủ được kinh nghiệm và trình độ thực hiện các công việc chuyên môn của những chuyên gia giỏi.
Tất cả những trở ngại trên đây đang từng bước được chính phủ Việt Nam tích cực tìm cách tháo gỡ. Mặc dù đây không phải là công việc một sớm một chiều, nhưng với triển vọng ngày một thuận lợi của khu vực tư nhân, có thể dự kiến tỷ trọng vốn đầu tư của DNTN trong tổng vốn đầu tư xã hội trong những năm tới sẽ gia tăng mạnh mẽ.
Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
ở nước ta, người dân có tiền thường đưa vào những cách sử dụng chủ yếu sau:
Mua ngoại tệ, vàng cất trữ. Cách làm này thường được áp dụng khi có sự biến động cao về tỷ giá hoặc tỷ lệ lạm phát.
Đầu tư kinh doanh, kể cả việc mua đất đai, xây dựng khách sạn. . . Đây là hiện tượng phổ biến trong các năm 1989 - 1996. Theo một thống kê của các chuyên gia tài chính, đến cuối năm 1996, vốn của dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh là 4.350 tỷ đồng.
Mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, ngân hàng thương mại cổ phần hay các công ty tài chính cổ phần. Hình thức này hiện nay chưa phổ biến, do số lượng các công ty cổ phần ở nước ta còn ít, thị trường chứng khoán chưa thành lập. Phổ biến nhất là việc các cán bộ công nhân viên chức trong các DNNN đứng ra mua cổ phần khi các doanh nghiệp này được cổ phần hoá.
Mua trái phiếu Kho bạc Nhà nước. Hình thức này mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1992 đến nay. Do lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng cùng kỳ hạn, lại là cách đảm bảo nhất nên hình thức trái phiếu Kho bạc đã hấp dẫn được rất nhiều tầng lớp dân cư trong những năm qua.
Gửi tiền tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là hình thức được người dân lựa chọn nhiều nhất và cũng là kênh thu hút được khối lượng tiền nhàn rỗi của dân cư lớn nhất.
Hùn vốn kinh doanh hoặc cho nhau vay trên thị trường phi chính thức dưới nhiều hình thức như chơi bụi, chơi họ . . .
Giữ tiền mặt trong nhà cho tiện việc chi tiêu sử dụng. Khác với các nước khác, hình thức này cũng tương đối phổ biến ở nước ta, nhất là khi tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế còn rất cao như hiện nay.
Cơ cấu sử dụng nguồn tiết kiệm của dân cư được thể hiện rõ nét thông qua kết quả Điều tra Mức sống Dân cư vừa được Tổng cục Thống kê kết hợp với Ngân hàng Thế giới thực hiện trong năm 2001 - 2002, như bảng dưới đây.
Tiền tiết kiệm, theo hình thức tiết kiệm của khu vực thành thị - nông thôn
( Đơn vị: phần trăm )
Chung
Khu vực
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
100
100
100
Sổ tiết kiệm ngân hàng quốc doanh
14.2
17.8
9.31
Sổ tiết kiệm các ngân hàng khác,
4.29
7.1
0.46
HTX tín dụng, tín phiếu, kỳ phiếu
Đôla Mỹ và ngoại tệ khác
2.26
3.83
0.13
Cổ phiếu, cổ phần, góp họ
3.2
3.09
3.35
Tiền mặt
26.27
23.71
29.76
Vàng, bạc, kim loại quý và đá quý khác
28.82
26.35
32.17
Đồ trang sức
18.65
15.84
22.46
Thóc gạo, sản phẩm cây trồng khác
0.22
0.06
0.44
Các hình thức khác
2.09
2.22
1.92
Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư lần II, năm 2001 - 2002.
Qua bảng trên, có thể thấy hình thức tiết kiệm phổ biến nhất hiện nay là tích trữ vàng bạc, đá quý chiếm 28.82% các hình thức tiết kiệm. Sau đó là hình thức giữ tiền mặt chiếm 26.27%, hình thức thứ ba là đồ trang sức chiếm 18.65%. Nếu tính gộp các hình thức này, cộng với hình thức giữ ngoại tệ mạnh thì có đến 76% nguồn tiết kiệm của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực dân cư, và không được huy động vào phục vụ sản xuất. Còn nếu giả định lượng tiền mặt mà cá nhân giữ sẽ được huy động vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ thì tỷ lệ vốn “ nằm chết “ trong dân cũng vào khoảng 50% tổng tiết kiệm dân cư. Những con số này tuy mới chỉ là sơ bộ, nhưng nó cũng tương xứng với ước tính của nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng có đến 60% tiết kiệm của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực này.
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng mới chỉ huy động được 18.5% tiết kiệm của dân cư. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của vốn huy động qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính giai đoạn 1996 - 2001 là 37,1%, trong đó huy động bằng nội tệ tăng 50.9%, bằng ngoại tệ tăng 22.95%. Tuy nhiên, trong năm 2003, xu hướng này đã đảo ngược. Vốn huy động bằng ngoại tệ đã tăng nhanh hơn vốn huy động bằng nội tệ. Tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, tốc độ tăng vốn huy động bằng ngoại tệ đã gấp từ 1.5 đến 2 lần tốc độ tăng vốn huy động bằng nội tệ. Nguyên nhân chính là do tỷ giá trong năm qua đã ổn định. Tỷ trọng vốn tín dụng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 chiếm 8.3%, năm 2000 là 10.6%, năm 2001 là 9.9% và năm 2002 là 10.5%.
2.3. Đánh giá chung và nguyên nhân
Về mặt được
Hoạt động huy động vốn có nhiều tiến bộ, lượng vốn huy động được trong dân cư ngày càng tăng với mạng lưới các kênh huy động ngày càng mở rộng. Trong vòng một thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có bước phát triển khá, bao gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh ( Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Đầu tư Phát triển ), giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra còn có nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngoài quố._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24373.doc