Phần 1: Phần mở đầu.
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới có ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế toàn cầu. Các vụ sáp nhập trong những năm gần đây đã hình thành nên các tập đoàn khổng lồ như Exon Mobile, City Corp và gần đây nhất là sự sáp nhập giữa 2 công ty khổng lồ trong lĩnh vực công nghệ thông tin là HP và Compaq chứng tỏ xu hướng phát triển của các tập đoàn. Là một thực thể kinh tế đặc biệt, khác với các doanh nghiệp đơn lẻ, các tập đoàn có những nét đặc tr
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cơ sở khoa học của mô hình Công ty mẹ - Công ty con, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưng riêng trong hoạt động quản lí. Các nét đặc trưng này được qui định bởi tính đặc thù trong cơ cấu tổ chức phức tạp của các tập đoàn và các mối quan hệ liên kết giữa các thành viên.
ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 3 BCH trung ương Đảng khoá IX đã chủ trương xây dựng một số tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh, đổi mới tổ chức các tổng công ty ( TCT) và Doanh nghiệp nhà nước ( DNNN) theo mô hình công ty mẹ - công ty con ( CTM _CTC)...
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã nêu những định hướng về cơ chế, chính sách và các giải pháp chủ yếu thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm ( 2001- 2005) , trong đó đã khẳng định một nhiệm vụ quan trọng là : “ Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lí Doanh nghiệp nhà nước ( DNNN)....” trong đó cần “ kiện toàn tổ chức , nâng cao hiệu quả của các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở các ngành chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, làm nòng cốt để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như bưu chính viễn thông, hàng không, dầu khí...”.
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển theo hướng nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước nên cần có các mô hình kinh tế phát triển đúng hướng và phù hợp. Đặc biệt là các tổng công ty thành lập theo mô hình 90-91 đã nảy sinh nhiều bất cập về quản lí , về trách nhiệm đồng vốn, tư cách pháp nhân... gây không ít hạn chế cho sự phát triển. Chính vì vậy các TCT của Việt Nam trong thời gian qua vẫn chưa phát huy được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân và trên trường quốc tế. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân để thúc đẩy quá trình chuyển sang mô hình CTM- CTC ở nước ta.
Phần 2: Bản chất và điều kiện hình thành của mô hình CTM-CTC.
1. Phân biệt các khái niệm.
Công ty mẹ là công ty có một hoặc nhiều công ty con trong đó công ty con bị công ty mẹ chi phối bằng việc nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết hoặc nắm giữ quyền chỉ định đa số thành viên hội đồng quản trị hay nắm giữ quyền biểu quyết đa số trong Hội đồng quản trị ( nói cách khác là nắm giữ số cổ phiếu không chế, trên 50%, trong thực tế thì tỉ lệ này chỉ cần ở khoảng 15- 25%). Những công ty dù có vốn đầu tư của công ty mẹ nhưng không bị công ty mẹ nắm quyền chi phối thì không phải là công ty con. Như vậy để trở thành công ty mẹ của công ty khác thì phải có đủ 2 điều kiện : Thứ nhất là có vốn đầu tư vào công ty đó , thứ hai là phải nắm quyền chi phối công ty đó.
Công ty mẹ và công ty con đều là DN độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, có số vốn và tài sản riêng. Công ty mẹ là một trong số các chủ sở hữu của công ty con. Mối quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con là mối quan hệ giữa chủ sở hữu với DN có vốn đầu tư của mình. Mối quan hệ này đã được xác định trong luật DN và trong điều lệ của công ty con. Ngoài mối quan hệ này thì những quan hệ khác như mua, nhượng bán, thuê.... đều là quan hệ giữa 2 pháp nhân đầy đủ, phải thể hiện qua hợp đồng kinh tế theo qui định của pháp luật.
Toàn bộ công ty mẹ và các công ty con gọi là một tập đoàn.
2. Bản chất của mô hình CTM- CTC.
Trong các hình thức xã hội trước chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện tư bản cho vay nặng lãi. Lợi tức của nó thường ở mức rất cao, chiếm toàn bộ sản phẩm thặng dư, nhiều khi cả một sản phẩm tất yếu của người đi vay. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay hoàn toàn khác với cho vay nặng lãi. Nó là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra. Trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp, có một số tư bản tiền tệ tạm thời chưa dùng đến như tiền quĩ khấu hao, tiền dự trữ mua nguyên liệu, lương... , đó là số tiền nhàn rỗi không sinh lợi. Trong việc săn đuổi lợi nhuận, nhà tư bản nào cũng muốn mỗi đồng tư bản của họ phảI sinh lợi, nên sẵn sàng hco vay số tiền nhàn rỗi của mình, làm xuất hiện tư bản cho vay. Hình thức vận động của tư bản cho vay là tín dụng tư bản chủ nghĩa. Có hai hình thức tín dụng là tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương nghiệp là tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh mua bán hàng hoá chịu với nhau. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản sản xuất kinh doanh. Khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng cho các nhà tư bản công, thương nghiệp vay tiền mặt để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ và làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng đóng vai trò trung tâm thanh toán qua nghiệp vụ nhận gửi và cho vay. Mỗi xí nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng đều mở tài khoản vãng lai, mọi khoản tiền vay hay gửi của xí nghiệp đều ghi ở tài khoản vãng lai đó. Nhìn chung, ngân hàng cùng với chế độ tín dụng đã đóng vai trò quan trọng trong xã hội tư bản. Nó là công cụ đắc lực trong việc huy động, tích tụ và tập trung vốn, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã hội hoá sản xuất. Nó phục vụ cho việc tự do di chuyển tư bản, do đó mà đIều hoà và phân phối lại vốn phù hợp với nhu cầu sản xuất, góp phần hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản.
Bước sang giai đoạn tư bản độc quyền, quá trình tích tụ sản xuất dẫn đến việc hình thành một số xí nghiệp khổng lồ bên cạnh những xí nghiệp nhỏ và vừa. Những xí nghiệp này cạnh tranh với nhau hoặc thôn tính nhau , hoặc thực hiện sự liên minh với nhau để thực hiện sự thống trị với các doanh nghiệp còn lại. Tổ chức như thế gọi là tổ chức độc quyền.
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tập trung tư bản trong công nghiệp thì trong ngân hàng cũng diễn ra quá trình các ngân hàng lớn thôn tính các ngân hàng nhỏ, hoặc hợp nhất lại thành những ngân hàng lớn hơn. Qui luật tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giông như trong công nghiệp. Do cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng, nên số lượng ngân hàng giảm xuống, nhưng qui mô của từng ngân hàng thì tăng lên rất nhiều. Tư bản trong ngân hàng được tích tụ và tập trung lại còn do sự tích tụ và tập trung tư bản trong công nghịêp thúc đẩy thêm. Khi các xí nghiệp công nghiệp lớn có nhiều tư bản bắt đầu chiếm địa vị thống trị thì những ngân hàng có qui mô nhỏ không thể đáp ứng được nhu cầu về tín dụng của các xí nghiệp đó, cho nên phải có những ngân hàng lớn hơn. Chính trong điều kiện đó, các ngân hàng lớn hơn lợi dụng ưu thế của nó, tìm cách thôn tính các ngân hàng nhỏ, hoặc thủ tiêu các ngân hàng nhỏ , hoặc biến các ngân hàng nhỏ đó trở thành các chi nhánh của nó. Quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn dẫn đến sự thoả hiệp giữa chúng với nhau và hình thành nên các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Chính sự xuất hiện này đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được hầu hết tư bản trong xã hội, nên đã trở thành người có quyền lực vạn năng, khống chế được mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản.
Các tổ chức độc quyền trong ngân hàng nhờ cho các tổ chức độc quyền trong công nghiệp vay những số tiền lớn, lại có chi nhánh khắp nơi, nên buộc các nhà tư bản công nghiệp phải có quan hệ chặt chẽ với tư bản ngân hàng về mọi nghiệp vụ tài chính của nó. Do đó tư bản ngân hàng còn biết được mọi hoạt động của tư bản công nghiệp, trên cơ sở đó, tư bản ngân hàng sử dụng tín dụng để khống chế mọi hoạt động của tư bản công nghiệp.
Trong thời kì đế quốc chủ nghĩa, khi các tổ chức độc quyền trong ngân hàng cho các tổ chức độc quyền trong công nghiệp vay và nhận tiền gửi từ các tổ chức này thì trong một thời gian dài, lợi ích của chúng gắn chặt với nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau và tìm cách xâm nhập lẫn nhau.
Dựa trên địa vị người chủ cho vay các ngân hàng phái đại diện của mình vào các cơ quan quản lí xí nghiệp của người vay tiền để kiểm tra sổ sách kế toán và theo dõi việc sử dụng tiền vay. Mặt khác, các tổ chức độc quyền ngân hàng còn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp. Cùng với quá trình này thì các tổ chức độc quyền công nghiệp tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua nhiều cổ phần của ngân hàng lớn, hoặc lập ngân hàng riêng của họ.
Chính trên cơ sở xâm nhập lẫn nhau như thế giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc quyền công nghiệp mà xuất hiện một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính. Lê-Nin nói : “ Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất tư bản của mấy ngân hàng độc quyền lớn với tư bản của những tập đoàn các nhà công nghiệp độc quyền.”
Sự phát triển của độc quyền và tư bản tài chính đưa đến sự hình thành một nhóm nhỏ những tên chủ ngân hàng và công nghiệp kếch sù, khống chế toàn bộ sinh hoạt kinh tế và chính trị trong một nước; đó là bọn đầu sỏ tài chính ( hay trùm tài chính). Bọn này nắm trong tay tất cả các ngành kinh tế quan trọng nhất.
Biểu hiện cụ thể quyền lực của tư bản tài chính là sự thống trị của bọn đầu sỏ tài chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thông qua “ chế độ tham dự” để thống trị các ngành kinh tế. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được các công ty cổ phần chủ yếu, gọi là công ty mẹ; công ty này lại mua cổ phần của các công ty khác và nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà thống trị được các công ty này, gọi là “công ty con”; các công ty con đến lượt nó lại chi phối các công ty khác ( công ty cháu)... cũng bằng cách như thế..... Nhờ có chế độ tham dự như vậy, một tên trùm tài chính có một số vốn nhất định có thể chi phối một số tư bản của những kẻ khác bằng số tư bản gấp nhiều lần.
Ngoài chế độ tham dự bọn đầu sỏ tài chính còn dùng nhiều biện pháp khác để vơ vét và chi phối tiền của của người khác như lập công ty mới, phát hành trái khoán, công trái.....
Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, chúng chi phối mọi mặt hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành nền chuyên chính của bọn đầu sỏ tài chính, phục vụ lợi ích của chúng, làm cho chủ nghĩa độc quyền nhà nước ra đời và phát triển.
Sự thống trị của tư bản tài chính dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc, thế lực của tư bản tài chính cũng ngày càng mạnh. Nếu trước kia, tư bản tài chính chỉ khống chế chủ yếu hai ngành công nghiệp và ngân hàng thì nay khống chế gần như tất cả các ngành kinh tế. Trước kia, thực hiện chế độ tham dự theo lối xâu chuỗi thì nay còn phát triển theo lối móc xích. Theo hình thức này, các công ty mẹ và các công ty con của tập đoàn tư bản tài chính đầu sỏ còn dầu tư, thâm nhập và khống chế các công ty con, công ty cháu của các tập đoàn tài chính khác . Cũng chính vì thế, các tập đoàn tư bản tài chính trước kia hình thành theo tính chất gia đình, thì nay còn hình thành theo từng vùng, từng địa phương. ở Mỹ, đã hình thành các tập đoàn tư bản tài chính như tập đoàn phố Uôn, Chi-Ca-Go....
Điều đáng chú ý hơn là bọn đầu sỏ tài chính tuy đã khống chế mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế song chúng vẫn hoạt động rất mạnh ở các sở giao dịch để đầu cơ chứng khoán.
Như vậy, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng mô hình công ty mẹ, công ty con , về bản chất được hình thành dựa trên “chế độ tham dự” dẫn đến xuất hiện sự chi phối của một số bọn đầu sỏ tài chính đối với các công ty có vốn đầu tư của chúng.
Chính nhờ cách thức này mà các tập đoàn kinh tế lớn đã xuất hiện, các hình thức chủ yếu là: Cartel, Syndicate, Trust, Consortium, Concern, tập đoàn xuyên quốc gia...
3. Tính tất yếu của việc hình thành mô hình CTM- CTC.
Trước hết chúng ta cần nhận thấy rằng việc hình thành mô hình CTM- CTC là một điều tất yếu khách quan. Mô hình này đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển của thế giới. ( Thông qua việc xuất hiện các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới như Standard Oil... ) Việc tự do hoá các hoạt động thương mại, đầu tư liên doanh, liên kết, đặc biệt là sự thâm nhập lẫn nhau về đầu tư giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, cổ phần hay các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong quan hệ giữa các DN. Nước ta hiện nay đang tồn tại mô hình Tổng công ty nhà nước thành lập theo quyết định 90-91 Ttg của thủ tướng chính phủ, tuy nhiên mô hình này về cơ bản vẫn được duy trì như thời gian cách đây gần 10 năm. Và tất nhiên, mô hình mẹ, con chưa được hình thành nên các Tổng công ty chưa thành một thể thống nhất, chưa phát huy sức mạnh của TCT. Một số TCT tuy có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế đất nước, nhưng chưa có TCT nào trở thành tập đoàn kinh tế mạnh, tương xứng với tiềm lực và nguồn vật tư được nhà nước trang bị và đầu tư. Xét về địa vị pháp lí, TCT là đại diện pháp nhân cho những doanh nghiệp thành viên. Cơ chế tài chính giữa TCT Nhà nước và các doanh nghiệp thành viên là cơ chế trong đó TCT kiểm soát toàn bộ về tài chính của Dn thành viên. Mọi quyết định đầu tư sản xuất, kinh doanh tuy có sự phân cấp tương đối cho các DN thành viên nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở cấp TCT. DN thành viên phải giải trình , bảo vệ dự án do mình lập trước TCT. DO vậy, hiệu quả đầu tư thấp, vì nhiều cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh bị chậm trễ do các khâu trước hết là thủ tục quyết định đầu tư, sau đó là đầu tư, đấu thầu.... Đó còn chưa kể đến những dự án thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của các bộ, ngành trung ương, thủ tục còn phức tạp hơn nhiều do phải chịu nhiều cấp, nhiều khâu...
Trong cơ chế tài chính giữa các TCT Nhà nước với các DN thành viên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là về tính độc lập tương đối, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Nhiều khoản vốn vay của các DN thành viên sử dụng nhưng lại do TCT đứng ra vay, như vậy là TCT có trách nhiệm pháp lí đối với khoản vốn vay trong khi việc quản lí, sử dụng nguồn vốn vay này lại phụ thuộc vào điều kiện, khả năng phát huy cũng như việc bảo toàn và phát triển vốn của các DN thành viên. ở đây thiếu sự ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm pháp lí giữa các chủ thể này. Trong mối quan hệ giữa TCT với các DN thành viên cũng như trong các giao dịch khác giữa các thành viên của TCT thiếu sự gắn kết chặt chẽ, do đó đã không phát huy được sức mạnh tổng thể của các thành viên. Cơ chế tài chính này thể hiẹn chủ yếu qua các hoạt động sau:
- Nhà nước giao vốn cho TCT, rồi đến lượt TCT giao lại cho các thành viên.
- Trình duyệt phương án sử dụng vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, bao gồm các nguồn vốn thuộc chủ sở hữu, vốn khấu hao để lại và các nguồn vốn khác.
- Trình duyệt kế hoạch đầu tư, kế hoạch đấu thầu...
- Trình duyệt kế hoạch mua sắm, nhượng bán tài sản...
- Các DN thành viên trích nộp kinh phí cho TCT và báo cáo tài chính, kế toán, kiểm toán... cho TCT.
Với các hoạt động như trên, quan hệ giữa TCT Nhà nước và các DN thành viên thiếu sự gắn kết và mặt tích cực chỉ phát huy ở tầm TCT, trong khi hoạt động đầu tư, kinh doanh lại diễn ra ở các đơn vị thành viên là chủ yéu. Quá trình tích tụ và tập trung vốn của các DN thành viên và TCT kém hiệu quả do sự co kéo về khoản lợi nhuận để lại tái đầu tư. Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của các DN thành viên chưa được thực hiện đầy đủ.
Ngoài ra, mô hình TCT hiện nay vẫn tồn tại 3 cấp quản lí, đó là Hội đồng quản trị ( HĐQT), Tổng giám đốc tổng công ty ( TGĐ) và Giám đốc các DN thành viên. Quan hệ kinh tế giữa 3 chủ thể này không rõ ràng, là kiểu quan hệ vừa gò bó, vừa lỏng lẻo do không xác định được dứt khoát , rõ ràng về trách nhiệm và thẩm quyền. Nhiều nhà hoạt độngthực tiễn cho rằng , TCT là số cộng giản đơn các DN thành viên, TCT không có quyền lực thực tế và có lúc không có trách nhiệm. Điều này thường thấy ở các ngành xây dựng, lắp máy, đường thuỷ, thương mại, các DN thành viên cạnh tranh gay gắt với nhau thay vì hợp lực, phấn đấu cho lợi ích chung của TCT.
Thành viên của TCT 90-91 nhất thiết phải là DN nhà nước, khi cổ phần hoá, giao bán, cho thuê các DN thành viên, đương nhiên các DN mới này sẽ ra khỏi phạm vi TCT, và do đó số DN không được quản lí theo một cơ chế thống nhất sẽ ngày càng nhiều.
Nguyên nhân của thực trạng này thì có nhiều, cả chủ quan lẫn khách quan, nhưng chủ yếu là : Thứ nhất, cho dù lí thuyết tổ chức đã chỉ ra rằng, cơ cấu tổ chức phải đi theo chiến lược, nhưng khi hoạch định sắp xếp lại hệ thống DNNN, Nhà nước chưa có chiến lược phát triển DN, chưa có mục tiêu rõ ràng trong việc sắp xếp. Từ đó , cách thức tiến hành rất nóng vội, chạy theo mốt, theo kế hoạch và nghị quyết là chủ yếu. Thứ hai, điều rất quan trọng là chúng ta chưa tìm ra được mô hình tổ chức các DN cho phù hợp, chưa chú ý đến những điều kiện, môi trường hoạt động cụ thể, chưa quan tâm đến tình trạng của từng DN như qui mô, lĩnh vực hoạt động....có nghĩa là chúng ta chỉ theo mô hình dập khuôn. Thứ ba, vào thời điểm thành lập mô hình TCT theo quyết định 90-91, khung pháp lí đang có hiệu lực chưa cho phép chúng ta thành lập mô hình công ty mẹ, con do chưa có cơ sở để chuyển các DNNN sang công ty cổ phần hay TNHH.
Qua các hiện thực vừa nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy vai trò mờ nhạt của TCT trong thời gian vừa qua. Điều này càng chứng tỏ sự cần thiết phải có một mô hình mới, cơ chế mới cho hoạt động kinh tế ở nước ta, đó là mô hình CTM- CTC.
Tuy nhiên, tự bản thân mô hình này cũng không thể phát huy tác dụng nếu chỉ dựa vào nhu cầu và sự cần thiết. Sự hình thành này cần có một số điều kiện cơ bản cần thiết nhất, đặc biệt là đối với nước ta, trong giai đoạn cần có một cơ chế mới, bước đột phá mới để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế.
4. Các điều kiện hình thành mô hình CTM- CTC.
a. Trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất kinh doanh.
Trong lịch sử, mô hình công ty mẹ, con ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển được hình thành cùng với quá trình chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền và gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc. Có nhiều nhân tố tác động đến quá trình này, đó là quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất, sự cạnh tranh gay gắt dẫn đến thúc đẩy quá trình liên kết mở rộng qui mô sản xuất, phạm vi kinh doanh của các nhà tư bản lớn.
Như vậy, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn đến dẫn đến xuất hiện mô hình CTM- CTC. Ngược lại, sự ra đời của mô hình này lại đẫn đến tập trung tư bản nhiều hơn, trên cả góc độ của cả tập đoàn, từng ngành hay chỉ một doanh nghiệp riêng lẻ. Lấy ví dụ đối với nước ta, tỷ trọng ngành của ngành dầu khí ngày càng lên cao trong đó sự đóng góp của Tổng công ty dầu khí là chủ yếu. Nhưng không phải nhận xét này lúc nào cũng đúng trong mọi trường hợp , có trường hợp sự tích tụ của cả ngành lớn nhưng điều ngược lại lại xảy ra đối với từng doanh nghiệp thành viên. Ví dụ như ngành trồng cây lương thực đạt tới 26 triệu tấn một năm thì sản xuất vẫn diễn ra ở qui mô hộ là chủ yếu. Như vậy, xét riêng ở trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất chúng ta có thể khẳng định rằng không phải Tổng công ty nào của nước ta cũng có thể chuyển sang mô hình công ty mẹ, con được mà còn phụ thuộc vào vốn, cơ sở hạ tầng... Các điều kiện cho phép chuyển đổi mô hình TCT sang mô hình mẹ, con là hoàn tàn khác nhau ở các ngành khác nhau. Vì vậy, việc tiến hành quá trình này một cách rộng rãi trong tất cả các ngành là không hợp lí và có thể gặp thất bại. Các ngành có trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất cao ở cả ngành và DN thành viên đều là những ngành giữ vị trí trọng yếu trong nền kinh tế, bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường và có triển vọng phát triển tốt như các ngành Điện, Hàng không, Bưu chính viễn thông... Như vậy rõ ràng là trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất là điều kiện quan trọng cần tính đến khi chuyển đổi TCT sang mô hình CTM - CTC. Do trình độ tập trung sản xuất trong các ngành không đồng nhất nên cần cân nhắc kĩ lưỡng trước khi chọn ngành để chuyển sang mô hình mới. Hiện nay Chính phủ đang cho phép một số TCT thực hiện thí điểm chuyển sang mô hình CTM - CTC, như TCT Hàng Hải VIệt Nam, TCT Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Khi thực hiện chuyển đổi cũng cần so sánh giữa trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất của nước ta với trình độ đó của các nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Điều kiện về sự phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước.
Trong lịch sử phát triển của mình, các tập đoàn kinh doanh đều được hình thành dựa trên sự phát triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Các quan hệ kinh tế được hình thành và mở rộng từ sự phát triển của phân công và hiệp tác sản xuất, nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất từ nhu cầu tăng thêm sức mạnh trong cạnh tranh trên thị trường, từ sự bất lực của một chủ thể riêng biệt trong việc tự giải quyết các vấn đề kinh tế - kĩ thuật phát sinh hoặc trong nắm bắt các cơ hội kinh doanh... Các quan hệ liên kết ấy được hình thành và tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có trách nhiệm và cùng phân chia lợi ích. Các chủ thể tham gia quan hệ liên kết kinh tế phải là các chủ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này không chỉ thuần tuý là quan hệ về sản xuất, mà rộng hơn còn là quan hệ về quyền lợi. Quan hệ liên kết giữa các chủ thể kinh tế có thể thực hiện qua hợp đồng, và cũng có thể thực hiện qua việc thoả thuận hình thành một tổ chức hay một loại hình kinh doanh mới. Chính một số tập đoàn kinh doanh đã được hình thành theo con đường thứ hai này. Như vậy, sự phát triển của các quan hệ liên kết được coi là một trong những điều kiện quan trọng khác để hình thành mô hình CTM - CTC, mà trong đó các đơn vị thành viên ( các công ty con) có sự gắn bó chặt chẽ với nhau về lợi ích và có trách nhiệm với nhau. Nhờ sự liên kết trong cùng một tổ chức theo kiểu này mà khả năng cạnh tranh của các chủ thể trên thị trường được nâng cao. Như vậy có thể khẳng định rằng sức ép của cạnh tranh càng lên cao thì yêu cầu mở rộng và thắt chặt quan hệ để thống nhất hành động trong cùng một tổ chức càng lớn.
Tại nước ta hiện nay trong quá trình chuyển sang cơ chế quản lí mới, các DN thuộc các thành phần kinh tế phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường. Bên cạnh xu hướng tiêu cực là các DN muốn độc lập, tự chủ theo kiểu tách riêng, thì hiện nay đang diễn ra xu hướng tích cực, đó là quá trình liên kết chặt chẽ với nhau để tồn tại và phát triển kinh doanh. Những quan hệ liên kết tích cực ấy phát triển khá đa dạng và mang lại nhiều kết quả khá tốt. Ví dụ như quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến nguyên liệu trong ngành chế biến mía đường, trong công nghiệp chế biến nông, thuỷ sản.... Các quan hệ này không chỉ diễn ra ở các DN cùng ngành mà còn được phát huy ở nhiều chủ thể trong các lĩnh vực hoát động khác nhau. Trong nhiều trường hợp các quan hệ liên kết ấy đã dẫn đến viêc thành lập những tổ chức mới trên cơ sở tập trung các đơn vị có liên quan và các Liên hiệp xí nghiệp, TCT và hiệp hội...
Trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để cho rằng các loại hình tổ chức nêu trên là điều kiện tiền đề về mặt tổ chức để chuyển sang mô hình công ty mẹ, con. Thông qua TCT, trình độ tích tụ và tập trung sản xuất được nâng cao, khả năng tổ chức phân công và hiệp tác để đạt hiẹu quả kinh tế cao hơn, thuận lợi hơn, và có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm hữu ích về tổ chức thiết lập và điều hành những đối tượng có qui mô lớn hơn.
Chúng ta xác định tự nguyện chính là nguyên tắc để thiết lập mô hình công ty mẹ, công ty con thì cần lưu ý rằng đó không phải là con đường duy nhất. Thực tế lịch sử của sự hình thành một số tập đoàn kinh doanh ở các nước khác cho thấy bên cạnh con đường các chủ thể độc lập tự nguyện gia nhập tập đoàn hoặc đầu tư thâm nhập theo chế độ tham dự, còn có con đường “ cưỡng bức” , nghĩa là DN có thế lực mạnh thôn tính hoặc sử dụng áp lực kinh tế bắt DN khác phải phụ thuộc. Bởi vậy, trong điều kiện của mình chúng ta không nên tuyệt đối hoá nguyên tắc tự nguyện, mà nếu thấy các quan hệ kinh tế đã phát triển hoặc có xu hướng phát triển tốt thì vì mục tiêu của toàn xã hội và lợi ích của từng chủ thể riêng lẻ, có thể dùng những biện pháp tổ chức hành chính ( cùng biện pháp kinh tế) để lôi kéo các chủ thể liên quan tham gia vào loại hình mới.
Trong thực tế nước ta, quan hệ kinh tế giữa TCT với các DN thành viên, hay giữa các DN thành viên với nhau chưa thực sự rõ ràng. Chưa có sự phân công hợp lí giữa các DN thành viên, dẫn tới viêc thay vì hợp tác cùng có lợi thì các DN này lại cạnh tranh mạnh mẽ, như đã nói ở phần trên. Và chính nguyên nhân này dẫn tới việc hoạt động không hiệu quả của mô hình TCT ở nước ta trong những năm qua.
c. Các điều kiện về môi trường kinh doanh.
Bất kì một loại hình tổ chức nào muốn ra đời, tồn tại và phát triển cũng cần phải có môi trường thích hợp và bản thân tổ chức ấy phải có khả năng thích ứng với môi trường mà nó tồn tại. Trong một số trường hợp, các đối tượng có thể tự điều chỉnh để tồn tại và phát triển trong môi trường chưa hoàn toàn phù hợp với chúng. Như vậy, các đối tượng luôn luôn được đặt trong quá trình hai mặt, một mặt vừa đòi hỏi môi trường thích hợp cho sự ra đời và phát triển của mình , mặt khác lại có khả năng thích nghi với môi trường xung quanh.
Môi trường thích hợp để thành lập và bảo đảm hiệu quả hoạt động của mô hình Công ty mẹ, công ty con bao gồm:
- Môi trường pháp lý : Gồm hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy, trong đó đặc biệt quan trọng là các luật về kinh doanh, luật chống độc quyền và các quy chế khung về tổ chức và hoạt động của các loại hình kinh doanh.
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới, nhằm hướng tới việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác lập pháp đã được chú ý tăng cường. Một số bộ luật quan trọng đã được nghiên cứu và ban hành như Luật đầu tư, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật DNNN, Luật thuế doanh thu, lợi tức và thuế tiêu thụ đặc biệt... nhằm tạo nên khuôn khổ môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Nhưng hệ thống luật ấy chưa thực sự đồng bộ và còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục bổ sung. Để khắc phục tình trạng chưa đầy đủ luật, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và Chính phủ đã ban hành một số pháp lệnh và văn bản pháp quy khác làm cơ sở để tổ chức và giám sát các hoạt động kinh tế. Tuy có nhiều cố gắng, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm. Nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng thì tình trạng trên đây là khó tránh khỏi. Bởi lẽ, xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là một quá trình lâu dài. Trong khi đó, chúng ta mới trong bước đầu của quá trình thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đang tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ ràng là chúng ta đã có một số bộ luật quan trọng làm cơ sở cho thiết lập và vận hành TCT theo mô hình CTM - CTC. Trong thực tế, không thể chờ đợi có đầy đủ và đồng bộ các luật lệ cần thiết mới cho ra đời mô hình tổ chức này. Có thể nói rằng sự hình thành mô hình công ty mẹ, con sẽ là nhân tố thúc đẩy việc hình thành các luật lệ liên quan. Chính vì vậy sẽ đảm bảo được yêu cầu hệ thống pháp luật được hình thành “ dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài nhưng không sao chép, rập khuôn” - Trích Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8.
- Môi trường kinh tế bao gồm sự phát triển của thị trường và các quan hệ kinh tế trên thị trường, sự phát triển của các quan hệ cạnh tranh và liên kết kinh tế giữa các chủ thể, sự khẳng định các quan hệ sở hữu tồn tại hợp pháp, sự phát triển của các quan hệ phân công, hiệp tác...
Trong những năm qua nhờ có quá trình đổi mới chúng ta đã có những điều kiện về kinh tế thuận lợi cho việc hình thành và tổ chức hoạt động TCT theo mô hình CTM - CTC. Đó là :
+ Việc xây dựng và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này đã và đang thực hiện bằng một loạt việc làm cụ thể trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí : Xác định rõ vai trò của quản lí nhà nước về kinh tế, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh và nâng cao tính trách nhiệm của các DN, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các DN tồn tại trong môi trường cạnh tranh và liên kết...
+ Sự tăng trưởng với nhịp độ cao và liên tục của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và trong nhiều ngành kinh tế. Những ngành, lĩnh vực hoạt động và vùng lãnh thổ trọng điểm xác định ngày càng rõ hơn và được ưu tiên phát triển mạnh, tạo sức mạnh lôi kéo các ngành, lĩnh vực và vung lãnh thổ khác.
+ Các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng và bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan ( từ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài , đến việc tham gia ngày càng rộng rãi vào các quan hệ kinh tế mang tính chất đa phương hoặc song phương). Những kết quả này vừa là nội dung vừa là kết quả của việc xây dựng nền kinh tế mở, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế...
Nói như vậy không có nghĩa về môi trường kinh tế chúng ta đã có tất cả những điều kiện thuận lợi để thành lập và tổ chức hoạt động TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Xét cả điều kiện bên trong và bên ngoài, chúng ta cũng còn tồn tại một số vướng mắc, khó khăn như kinh tế thị trường còn ở trình độ sơ khai, các thị trường chưa được hình thành đồng bộ, trình đọ phát triển kinh tế còn thấp kém nhiều so với khu vực và trên thế giới...
- Môi trường xã hội : Là sự đồng hướng trong nhìn nhận và đánh giá của xã hội với loại hình tổ chức mới xuất hiện, sự ổn định về mặt chính trị - xã hội...
Điều kiện về môi trường xã hội có sự ảnh hưởng đến sự hình thành và tổ chức hoạt động của mô hình CTM - CTC ở nước ta. Chúng được thể hiện tập trung vào một số khía cạnh sau đây :
+ Còn có những nhận thức và ý kiến khác nhau về việc chuyển sang mô hình CTM - CTC ở nước ta. Từ đó có sự nghi ngờ, thậm chí phản bác việc thành lập loại hình tổ chức kinh doanh này.
+ Nhiều DN muốn tồn tại độc lập, không muốn khép mình vào một tổ chức nào, cho vậy mới bảo tồn được quyền chủ động kinh doa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35443.doc