Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Tài liệu Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp: ... Ebook Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Tiêu đề Trang Lời nói đầu 3 Ch¦¥ng I : Lý luËn chung vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ N¦íc 4 I. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 4 1.1.Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước 4 1.2.Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – vai trò và thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 4 II. một số lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 7 2.1.Khái niệm và bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 7 2.1.1. Khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 7 2.1.2. Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 7 2.2. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 8 2.3. Tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 9 2.3.1. Cổ phần hoá với tăng trưởng kinh tế. 9 2.3.2. Cổ phần hoá với vần đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống tham nhũng 10 2.3.3. Tác động xã hội của cổ phần hóa. 10 2.3.4. Cổ phần hoá với sự phát triển của thị trường chứng khoán 11 2.4. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 11 Ch¦¥ng II: Thùc tr¹ng cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ N¦íc ë ViÖt Nam 12 I. Tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua 12 1.1. Giai đoạn thí điểm (từ năm 1992 – 1996). 12 1.2. Giai đoạn mở rộng (1996-2002). 13 1.3. Giai đoạn chủ động (bắt đầu từ tháng 6/2002 đến tháng 11/2004). 13 1.4. Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 12/2004 đến nay). 14 II. Những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 14 2.1.Những thành tựu mang tính chất định lượng. 14 2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá. 17 2.3.Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, huy động thêm vốn, tạo cho doanh nghiệp có chế quản lý năng động hiệu quả. 18 III. Những khó khăn của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 19 Ch¦¥ng III :C¸c gi¶i ph¸p nh»m thóc ®Èy qu¸ tr×nh cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ N¦íC 21 I.Nguyên nhân của những hạn chế. 25 II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 26 2.1.Giải pháp để nâng cao nhận thức và chỉ đạo thực hiện. 27 2.2.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến về cổ phần hoá. 29 2.3.Phải có quyết tâm cổ phần hoá. 30 2.4. Thực hiện cổ phần hoá từng bước vững chắc. 30 2.5.Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cổ phần hoá. 34 2.6.Xoá bỏ cổ phần hoá khép kin và lành mạnh hoá tình hình tài chính. 34 kÕt luËn 36 Tài liệu tham khảo 37 LỜI NÓI ĐẦU Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và nhà nước hiện nay. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp hữu hiệu được tiến hành phổ biến ở nhiều nền kinh tế trên thế giới. Ngay cả những quốc gia có nên kinh tế phát triển phương thức quản lý doanh nghiệp tiên tiến như : Anh, Pháp, Mỹ cũng áp dụng. Ở nước ta.cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một giải pháp quan trọng tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá dianh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc làm rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Ch­¬ng I : Lý luËn chung vÒ cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc I. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 1.1.Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nàh nước năm 2003. Điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 định nghĩa : “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa này của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều điểm mới phản ánh những thay đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách của nước ta đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các doanh nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây là doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập hoặc tổng công ty nhà nước thì hiện nay doanh nghiệp nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng về hình thức tồn tại của doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công, làm cho nó thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – vai trò và thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước ta đã khẳng định vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước mà trong đó doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng. Tồn tại với tư cách là nhân tố trọng yếu trong vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đang đối mặt với mâu thuẫn giữa thực trạng hoạt động với sứ mạng được giao phó. Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước trước đây được gọi là xí nghiệp quốc doanh đã phát triển với quy mô và số lượng lớn trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và được xác định là thành phần kinh tế chủ đạo. Doanh nghiệp nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố nền tảng kinh tế, xã hội của nước ta, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Doanh nghiệp nhà nước hiện đang được quan tâm đặc biệt vì vai trò và sứ mệnh của chúng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy thoát ra khỏi tư duy máy móc về một chủ nghĩa xã hội với hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và tuy đã khẳng định sự cẩn thiết của nền kinh tế đa thành phần, Đảng ta vẫn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với bộ phận chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước được xác định là thành phần chủ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cũng như doanh nghiệp nhà nước ở nhiều trên thế giới, doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề về hiệu quả. Ngay từ những năm 60,70 thế kỷ XX hiệu quả thấp trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh đã được đặt ra như là một vấn đề bức xúc. Tình trạng kém hiều quả trong sản xuất – kinh doanh của đơn vị kinh tế này kéo dài trong nhiều năm. Qua hơn 10 năm cải cách, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã có những bước phát triển tốt hơn ngay cả khi đối mặt với những thách thức của cơ chế mới được thể hiện ở các khía cạnh sau: Doanh nghiệp nhà nước vẫn chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, góp phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, giữ tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, thu nộp ngân sách, hợp tác đầu tư với nước ngoài, đảm bảo được các dịch vụ công ích, phục vụ tốt cho an ninh và quốc phòng của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước đang dần dần thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm được nâng cao, vốn được bảo toàn và phát triển. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tăng được khả năng cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, xem xét một cách toàn diện thì những thành tựu trên của doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể khắc phục được những tồn tại của chúng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự phát triển không bình thường về lượng cộng với những bất cập trong cơ chế quản lý đã dẫn doanh nghiệp nhà nước tới một số hạn chế sau đây: Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của ngân sách. Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ. Quy mô nhỏ bé của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở cả trong tiêu chí về sử dụng lao động. Số doanh nghiệp nhà nước có lao động dưới 500 người chiểm 80%. Do quy mô doanh nghiệp nha nước rất nhỏ nên khả năng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ rất hạn chế. Nhìn chung , doanh nghiệp nhà nước chưa đủ sức tự mình đầu tư để vươn tới những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Những hạn chế này dẫn đến tình trạng hàng hoá củ doanh nghiệp nhà nước giá cao hơn hàng hoá cùng loại, cùng chất lượng của các doanh nghiệp khác, của hàng nhập tới 20-30%. Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lý. Thứ tư, cơ cấu phân bố chưa hợp lý. Còn khá nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực mà ở đó chúng khó có thể cạnh tranh được như trong những dịch vụ thông thường. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy doanh nghiệp nhà nước được phân bố không hợp lý theo ngành, theo địa phương. Có những địa phương, ngành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, ngành công nghiệp, thương mại doanh nghiệp nhà nước tập trung với số lượng lớn trong lúc đó nhiều địa phương lại có rất ít các doanh nghiệp nhà nước. Một số địa phương, nhất là cấp huyện thành lập rất nhiều doanh nghiệp nhà nước không phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và bất chấp nhu cầu thực tế của địa phương. Thứ năm, cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả. Thứ sáu, như là hệ quả của những điểm yếu trên, doanh nghiệp nhà nước ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn vào các khu vực mậu dịch tự do hoặc các hiệp định thương mại song phương, đa phương, tính cạnh tranh thấp của doanh nghiệp nhà nước sẽ là một thách thức sống còn đối với nền kinh tế nước ta. II. một số lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 2.1.Khái niệm và bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 2.1.1. Khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua sơ đồ mô phỏng sau: Cải cách DNNN Bán DNNN Bán một phần Cải cách cơ chế quản lý DNNN Cho thuê DNNN Cổ phần hoá DNNN Cho thuê toàn bộ Bán toàn bộ Cho thuê một phần Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là việc biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người khác. Những người này trở thành sở hữu chủ của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới sự xuất hiện không chỉ của của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ phần hoá. 2.1.2. Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc cổ phần hoá được thực hiện thông qua việc chia vốn của một số doanh nghiệp nhà nước nhất định ra thành các cổ phần. Một phần cổ phần phát hành được bán cho tư nhân hoặc phân phát cho người lao động, một phần Nhà nước sở hữu. Như vậy, với cổ phần hoá thì một số doanh nghiệp nhà nước được biến thành sở hữu chung của người lao động, của doanh nhân và của Nhà nước. Rõ ràng doanh nghiệp nhà nước bị tư nhân hoá một phần, tức là phần giành cho doanh nhân và người lao động theo nghĩa là một phần tài sản của thành phần kinh tế công đã chuyển sang thành phần kinh tế tư. Thực tế này cũng cho thấy cổ phần hoá là tư nhân hoá từng phần các doanh nghiệp nhà nước. Cũng chính vì lý do này nên nhiều quốc gia khi tiến hành cải cách thành phần kinh tế công đều coi cổ phần hoá chỉ là một trong những phương thức thực hiện tư nhân hoá. Có quan điểm đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cổ phần hoá chỉ liên quan đến doanh nghiệp nhà nước.Tuy nhiên, giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá ở các nước đã tiến hành cải cách đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo mô hình tư nhân hoá vẫn có những điểm khác nhau cơ bản. Ngoài ra, với tư cách là sự kiện pháp lý của việc chuyển đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp, cổ phần hoá có thể áp dụng đối với bất cứ loại hình doanh nghiệp nào thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài đều có thể trở thành đối tượng của cổ phần hoá. Doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp 100% vốn của một nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn thông qua cổ phần hoá. 2.2. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. - Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có sự tham gia của đông đảo người lao động. Nhờ có sự tham gia của đông đảo các chủ sở hữu sẽ tăng cường được sự giám sát của các nhà đầu tư đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp, thay đổi được cung cách quản trị doanh nghiệp đảm bảo giải quýêt được hài hoà lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp của các nhà đầu tư và của người lao động. - Thông qua cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ huy dộng được nguồn vốn của cá nhân , của các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để doanh nghiệp có thể tái đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh . 2.3. Tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá có vai trò to lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nhất là ở những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3.1. Cổ phần hoá với tăng trưởng kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP tổng quát cho giai đoạn 2001- 2005 theo đó nền kinh tế tăng ở mức 7.5 đến 8% mỗi năm. Việc thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng này phụ thộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có yếu tố trong đó có yếu tố quyết định là hiệu quả của khu vực kinh tế công mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có tác động rất lớn đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng này. - Thứ nhất, kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy ở các nước có thành phần kinh tế công lớn thì tốc độ tăng trưởng không cao. Chính vì thế, đối với đất nước ta, muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao thì cần cơ cấu lại thành phần kinh tế này. Phân tích của các nhà kinh tế cho thấy ở Trung Quốc giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ cổ phần hoá tỷ lệ thuận với nhau rất rõ. Sở dĩ như vậy do là cổ phần hoá sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển. Những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh không hiệu quả phần lớn là do khâu quản lý yếu kém, bộ máy điều hành thiếu năng động sang tạo hoặc thi. - Thứ hai, việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước thuần tuý, tức là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách cho những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào những nhu cầu phát triển khác. - Thứ ba, thông qua cổ phần hoá, Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản nhà nước trước đây giao cho các doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả. - Thứ tư, cùng với việc giảm đầu mối doanh nghiệp nhà nước sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi về tín dụng của nhà nước. Đặc biệt nó sẽ làm giảm bớt áp lực vay vốn lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng nhà nước. - Thứ năm, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của hàng loạt các công ty cổ phẩn. Sự tồn tại của công ty cổ phần với cơ chế lưu chuyển cổ phần thông qua thị trường chứng khoán tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi không có hiệu quả hoặc nơi hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. 2.3.2. Cổ phần hoá với vần đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống tham nhũng. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước và những cơ quan quản lý chúng. Sự bao cấp của nhà nước đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin cho là mảnh đất tốt lành cho những hành dộng lãng phí, tham nhũng. Cổ phần hoá sẽ là một giải pháp tích cực để hạn chế tình trạng tham nhũng, nâng cao dân chủ và công bằng xã hội. Trong một doanh nghiệp cổ phần hoá, việc quản lý công ty sẽ được đảm nhiệm bởi một guồng máy do các cổ đông lập ra. Chính các cổ đông sẽ quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp, giám sát chặt chẽ, thường xuyên hoạt động sản xuất kinh doanh của nó. Vì lợi ích của chính bản thân mình, cổ đông sẽ phát hiện và tự mình thông qua nền dân chủ cổ phần xử lý kịp thời các hành vi mờ ám, gian lận hay tham ô của những người quản lý và các cổ đông lớn trong công ty. 2.3.3. Tác động xã hội của cổ phần hóa. Bất kỳ chính sách kinh tế nào cũng tác động đến các vấn đề xã hội. Cổ phần hoá tác động đến các vấn đề xã hội ở nhiều phương diện, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhiều đối tượng xã hội, làm phát sinh những mối quan hệ mới. Ảnh hưởng của cổ phần hoá có thể rất tích cực song cũng có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực nếu không được xử lý đúng. Một trong những mục tiêu của chính sách cổ phần hoá là thay đổi cơ cấu quản lý của doanh nghiệp cho hợp lý và hiệu quả hơn. Những thay đổi này chắc chắn sẽ kéo theo sự thay đổi trong việc bố trí, sử dụng lao động. Thêm vào đó, khi công nghệ, quy trình sản xuất và cơ chế quản lý lao động mới được áp dụng sau cổ phần hóa, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp sẽ giảm. Ngay cả khi nhu cầu lao động không giảm song do tính chất hiện đại của công nghệ lao động chưa qua đào tạo hay đào tạo không phù hợp với trình độ mới trong các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải được thay thế. Việc làm là vấn đề sống còn đối với người lao động, Vì vậy, đây thực sự là một thách thức không nhỏ trong quá trình cổ phần hoá . Tác động đáng lưu ý khác của cổ phần hoá là sự tiềm ẩn trong nó khả năng phân hoá xã hội và gia tăng khoảng cách giàu nghèo. 2.3.4. Cổ phần hoá với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán và cổ phần hoá có mối liên hệ lẫn nhau không thể phủ nhận. Cổ phần hoá có tác động rất lớn đối với thị trường chứng khoán thông qua việc làm xuất hiện thêm một số lượng công ty cổ phần có tiềm lực do thừa kế vốn, công nghệ, lao động từ các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc đẩy nhanh cổ phần hoá sẽ gắn chặt với việc phát triển thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tốt sẽ làm cho thị trường chứng khoán phát triển sôi động. Ngoài ra, sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá vào thị trường chứng khoán buộc chúng phải thực hiện chế độ tài chính kế toán minh bạch, công khai, phải công bố với các cổ đông và công chúng về tình hình sản xuất- kinh doanh, lợi nhuận và kế hoạch phát triển công ty. Những đòi hỏi này buộc những người quản lý công ty phải điều hành tốt hơn, chú trọng đến sẹ phát triển sản xuất kinh doanh nhiều hơn. Kết quả, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá sẽ tót hơn nhiều và đó là một trong những lực hút các doanh nghiệp nhà nước vào quỹ đạo cổ phần hoá. 2.4. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Đối với nước ta, do đặc trưng của nền kinh tế, do chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ phần hoá được coi là giải pháp cơ bản của sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Điều này được lý giải bởi sự hoá thân đầy đủ của cổ phần hoá vào trong những yêu cầu, những đặc trưng của sự phát triển đất nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. - Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư phát triển sàn xuất. - Cổ phần hoá tạo cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Thông qua cổ phần hoá, bộ máy và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp thích nghi, năng động và sát với thị trường hơn, phần nào làm tăng trách nhiệm của người lao động đối với doanh nghiệp, động lực lao động mới được tạo ra. - Cổ phần hoá là con đường dẫn tới hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hoá đểu hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Tóm lại, cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho doanh nghiệp, cho người lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. Thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Ch­¬ng II: Thùc tr¹ng cæ phÇn ho¸ doanh nghiÖp nhµ n­íc ë ViÖt Nam I. Tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua Tiến trình cổ phần hoá 15 năm qua có thể chia làm 4 giai đoạn. Đó là giai đoạn : thí điểm, giai đoạn mở rộng, giai đoạn chủ động và giai đoạn đẩy mạnh. 1.1. Giai đoạn thí điểm (từ năm 1992 – 1996). Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được bắt đầu từ tháng 11/ 1991 khi hội nghị TW2 khoá 7 của Đảng đưa vào chủ trương cổ phần hoá. Giai đoạn này gắn với nghị định 28 của Chính phủ. Giai đoạn thí điểm từ 1992-1996, nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chất tự nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu tư trong nước, trong đó ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Chính vì vậy, mới chỉ có 5 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá trên tổng số khoảng 16 doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này. 1.2. Giai đoạn mở rộng (1996-2002). Giai đoạn này gắn với nghị định 44 của Chính phủ. Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến năm 2002 với nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hoá được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này. Đặc trưng của giai đoạn này là việc mở rộng nhiều hình thức cổ phần hoá mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước vẫn phải trực tiếp tham gia rất nhiều công đoạn và tổ chức điều hành. Đó là việc mở rộng thêm diện bán cổ phẩn cho người Việt Nam định cư tại nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài tại Việt Nam; mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; có thể bán 100% vốn nhà nước tại doanh nghiệp…Kết quả là giai đoạn này với một cơ chế cổ phần hoá ngày càng được hoàn thiện, sự hưởng ứng đối với tiến trình sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp ngày càng tăng lên, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 868 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Giai đoạn chủ động (bắt đầu từ tháng 6/2002 đến tháng 11/2004). Giai đoạn này gắn với cơ sở pháp lý quan trọng là nghị định số 64/2002/NĐ-CP của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ, ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp cấp dưới như trước đây. Trong giai đoạn này, Nhà nước cũng giao thêm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hoá cho Bộ trưởng các Bộ, chủ tịch UBND các tỉnh (trừ trường hợp giảm trên 500 triệu đồng vốn nhà nước phải có ý kiến của Bộ tài chính). bắt đầu áp dụng biện pháp nhằm công khai, minh bạch hoá quá trình cổ phần hoá như cho phép thuê các tổ chức trung gian xác định giá trị doanh nghiệp; dành tối thiểu 30% số cổ phần (sau khi trừ số lượng cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động) để bán cho các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp… Mặc dù, về số lượng, giai đoạn này chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 1435 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước nhưng theo đaónh giá các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thực sự quy mô vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hoá còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của doanh nghiệp vừa làm giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; việc giải quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần háo cũng chưa được hài hoà… 1.4. Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 12/2004 đến nay). Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.Trong giai đoạn này đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hoá như : Bảo Minh, Vinamilk, Vĩnh Sơn… và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hoá và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao động dôi dư cũng được tiến hành sông song với việc bổ sung các quy định để nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ phần hoá như định giá qua các định chế trung gian, tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thực hiện bán cổ phần lần đàu thông qua đấu giá công khai, theo nguyên tắc thị trường… Trong giai đoạn này, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 1054 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước, II. Những thành tựu đạt được từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Sau 15 năm triển khai và tập trung thực hiện 5 năm vừa qua, công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả trên nhiều mặt được thể hiện như sau: 2.1.Những thành tựu mang tính chất định lượng. Qua kết quả báo cáo của các địa phương, bộ , ngành, tổng công ty thì đến 30/6/2006 cả nước đã sắp xếp được 4760 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hoá 3365 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; giao bán, khoán kinh doanh và cho thue 310 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 450 doanh nghiệp…Kết quả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua từng năm như sau: Năm Số doanh nghiệp được cổ phần hoá 1990-1992 không có 1993 2 đơn vị 1994 1 đơn vị 1995 3 đơn vị 1996 5 đơn vị 1997 7 đơn vị 1998 100 đơn vị 1999 250 đơn vị 2000 212 đơn vị 2001 204 đơn vị 2002 164 đơn vị 2003 532 đơn vị 2004 753 đơn vị 2005 754 đơn vị 1/2006-6/2006 378 đơn vị Tổng cộng 3365 đơn vị Qua những con số trên đây ta thấy rõ tiến trình cổ phần hóa đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu tiên (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm doanh nghiệp) và cho đến 3 năm gần đay tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43.4%) , tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%), còn lại là bán toàn bộ vốn nhà nước tại doanh nghiệp (15.5%) và giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15.1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65.5%, thương mại dịch vụ chiếm 28.7% và ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 5.8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chiếm 65.7%, bộ ngành trung ương chiếm 25.8%, tổng công ty 91 chiếm 8.5%. Nhìn lại quá trình qua có thể nhận thấy chúng ta đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm khoảng 24% tổng số doanh nghiệp khi chưa tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hoá (khoảng 12000 doanh nghiệp vào thời điểm trước năm 1995) Có trên 10% vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá (khoảng 30000 tỷ đồng) Hầu hết các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, yếu, hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy có thêm điều kiện để củng cố các doanh nghiệp nhà nước khác. Trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 30% số các doanh nghiệp (trên 800 doanh nghiệp) được hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh mà không còn sự chi phối trực tiếp nào của nhà nước (nhà nước không nắm giữ một cổ phần nào, toàn bộ thuộc về tập thể người lao động) Việc sắp xếp lại và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành. Đặc biệt, năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khấm khá, quy mô vốn lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như : Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, Công ty giấy Tân Mai, Công ty Kinh Đô, Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện Sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định trị giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. ngay trong ngày đầu tiên bán đáu giá Vinamilk, bán hết hơn 1.66 triệu cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4.89lần mệnh giá. Tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của Công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong số 7 nhà đầu tư, tổ chức mua được cổ phần Vinamilk có 5 quỹ đầu tư nước ngoài và 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà đầu tư mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78.4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt nam chỉ chiếm 21.6%, và số vốn thu hút đượctừ các tổ chức đầu tư mới lên tới trên 450 tỷ đồng. Sau 3 năm chuẩn bị Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một doanh nghiệp nhà nước lớn thành công ty cổ phần đại chúng . Theo kết quả điều tra của Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tại 559 doanh nghiệp cổ phần hoá, kết quả cho thấy: 87,53 % số doanh nghiệp khẳng định kế quả hoạt động kinh doanh tốt hơn nhiều so với trước ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0608.doc