Phần A: lời nói đầu
Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, cổ phần hóa đang là một vấn đề vô cùng bức xúc đối với nền kinh tế nước ta.
Chủ trương cải cách nền kinh tế từ bao cấp, tự túc sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, trong đó có mục tiêu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp quan trọng để cải tổ nền kinh tế. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại nghị quyết hội nghị lần thứ hai ban
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chấp hành TƯ khoá II (tháng 11 năm 1991) và tiếp tục được cụ thể hoá trong các kỳ đại hội sau. Từ đó cho đến nay, cùng với thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đát nước theo định hướng XHCN và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo điều hành sản xuất kinh doanh, chúng ta đã xác định được rằng cải cách doanh nghiệp nhà nước một cách triệt để là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn.
Phần B: Nội dung
I. Sự cần thiết cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
1. Thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Công ty cổ phần là một xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa, mà vốn của nó được hình thành từ sự góp vốn của nhiều người thông qua phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhận quyền sở hữu cổ phần đồng thời bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Người có cổ phần góp vào công ty gọi là cổ đông.
Trong thực tế của xã hội tư bản, những người sáng lập ra công ty cổ phần, những người thực hiện việc phát hành các cổ phiếu để bán, còn các cổ đông thì mua các cổ phiếu đó và hằng năm căn cứ vào cổ phiếu của mình mà lấy lãi(lợi tức cổ phần).
1.1. Khái niệm:
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội.
1.2. Sở hữu tư nhân và quá trình xã hội hoá sản xuất.
Sở hữu xét về bản chất, là quan hệ chiếm hữu của con người đối với tự nhiên thông qua lao động sản xuất. Không có lao động, hoạt động cơ bản nhất của con người thì không có một sự chiếm hữu nào cả, và do đó cũng không thể có sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường lao động của con người mang tính chất hai mặt, lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Do đó sở hữu tư nhân được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất của con người cũng mang tính chất hai mặt: Một mặt sở hữu mang tính chất xã hội phản ánh sự tìm kiếm và tăng thêm giá trị như là động lực mục đích của sở hữu, mặt khác sở hữu lại mang tính chất tư nhân, phản ánh sự chiếm hữu một giá trị sử dụng nhất định dưới dạng hàng hoá hay dịch vụ nhất định.
Có thể nói, nhờ có sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, tính chất hai mặt của sở hữu tư nhân mới được bộc lộ và ngày càng phát triển cùng với quá trình xã hội hoá nên sản xuất xã hội. Trong lịch sử quá trình này được thực hiện bởi hai nhân tố tác động chủ yếu, đó là trao đổi và tín dụng.
+ Thông qua trao đổi, quá trình vận động xã hội hoá sở hữu chuyển hoá theo xu hướng: tư liệu sản xuất ngày càng tách khỏi bản thân người lao động như là những người tư hữu nhỏ, và các tư liệu sản xuất ngày càng tập trung lại trong quá trình xã hội hoá với sự thống trị của Tư bản (lúc ban đầu là tư bản thương nghiệp, về sau là tư nông nghiệp và ngày nay là tư bản tài chính)
+ Thông qua sự phát triển của chế độ tín dụng (bao gồm tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng) Quá trình vận động xã hội hoá sở hữu được thực hiện theo xu hướng, một mặt nó làm cho các hình thức chiếm hữu tư nhân phụ thuộc lẫn nhau. Hình thái công ty cổ phần, hình thái này ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính, trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán. Các công ty cổ phần là người cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường chứng khoán. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường này tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở: trong hình thái kinh doanh này có hai loại hình chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Có thể nói rằng công ty cổ phần ra đời mang nhiều đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không thể đáp ứng được.
1.3. Cổ phần hoá, hình thức sở hữu doanh nghiệp đã chuyển đổi từ hữu Nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp
Mục tiêu nhất quán của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là đi huy động vốn tạo điều kiện để người lao động được làm chủ thực sự trong doanh nghiệp, tạo động lực bên trong, thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Qua cổ phần hoá, hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển tư hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và chính từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. Doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá sẽ trở thành công ty cổ phần, hoạt động theo luật doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo doanh nghiệp. Cổ phần hoá chính là biện pháp hiệu quả để sử dụng đồng vốn được tốt nhất.
a. Các bước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp. Mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp nhà nước vẫn là “tài sản chung” cho nên tình trạng về trách nhiệm lãng phí của cũng vẫn chưa được khắc phục. Khi doanh nghiệp nhà nước trở thành công ty cổ phần thì mặc nhiên điều này sẽ không tồn tại.
Huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp, một mặt vừa góp phần tháo gỡ được khó khăn cho ngân sách nhà nước không phải chu cấp cho doanh nghiệp; mặt khác, là tài sản doanh nghiệp nhà nước, nhờ cổ phần hoá thu hồi lại sẽ được đầu tư mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp. ở công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế họ rất đoàn kết gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh nghiệp nhằm củng cố tăng cường sức canh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra, quan tâm đến công việc của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao.
b. Những quy định chung cho doanh nghiệp cổ phần hoá.
* Các doanh nghiệp nhà nước(DNNN) mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, gồm 3 loại:
1. Loại DNNN hiện có chưa tiến hành cổ phần hóa gồm doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, doanh nghiệp nhà nước sản xuất sản phẩm cung ứng dịch vụ nhà nước độc quyền kinh doanh như: vật liệu nổ, hoá chất độc phóng xạ, in bạc và các chứng chỉ có giá, mạng trục thông quốc gia và quốc tế...
2. Loại DNNN hiện có Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi tiến hành gồm 13 loại.
3. Các loại doanh nghiệp nhà nước còn lại đều có thể thực hiện cổ phần hoá.
* Về vấn đề mua bán cổ phần: các tổ chức kinh tế xã hội, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, và được nhà nước bảo hộ quyền sở hữuvà mọi quyền lợi hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc bán cổ phần được công khai và thực hiện theo quy định của chính phủ.
Mọi pháp nhân không mua quá 10%, một cá nhân đước mua không quá 5%tổng số cổ phần của doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối và không quá 20%, không quá 10% của doanh nghiệp mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối.
* Các hình thức cổ phần hoá gồm:
Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hồi vốn.
Nắm một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Tách một bộ phận doanh nghiệp đủ điều kiện cổ phần hoá.
Bán toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp.
* Tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước sau khi trừ đi chi phí cổ phần hoá được sử dụng để đào tạo lại nhằm giải quyết việc làm mới cho người lao động, trợ cấp cho số lao động dôi dư, và bổ sung cho các doanh nghiệp ưu tiên củng cố.
* Bộ tài chính thống nhất quản lý mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu các doanh nghiệp cổ phần hoá, bảo đảm các cổ đông nhận được cổ phiếu chậm nhất là 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần hoá.
c. Sự chuyển đổi hình thức sở hữu - một số kinh nghiệm trên thế giới.
Sự tồn tại phổ biến và vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở hầu hết các nước trên thế giới là một thực tế rõ ràng. Nó được coi như là một công cụ kinh tế của Nhà nước cùng với các công cụ tài chính tiền tệ để thực hiện chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì sự tăng trưởng bền vững và thực hiện công bằng xã hội. Sự khác nhau chủ yếu là mức độ chiếm giữ và tỷ trọng của khu vực này tuỳ theo quan điểm của mỗi nước xác định phát triển nền kinh tế theo mô hình nào. ở nhóm các nước tư bản phát triển khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng thấp tương ứng với trình độ cao của kinh tế thị trường. ở nhóm các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung thì tỷ trọng kinh tế nhà nước chiếm hầu như tuyệt đối. Còn đối với nhóm nước đang phát triển thì sự lựa chọn hai mô hình phát triển của 2 nhóm nước trên sẽ quy định tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước ở mức độ cao thấp khác nhau.
Từ cuối những năm 70 đến nay, xu hướng phổ biến trên thế giới là đánh giá lại vai trò và hiệu quả kinh tế nhà nước khi gắn quan điểm tài chính như một tiêu chuẩn quan trọng nhất trong việc đo lường, kết quả hoạt động chung của các doanh nghiệp nhà nước. Do đó các nước đều chậm thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động thiếu hiệu quả do sự điều tiết trực của nhà nước dựa trên các quy định liên quan đến quyền sở hữu của mình. Các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào nhiều chủ thể cấp trên của doanh nghiệp vừa thiếu thống nhất, vừa không rõ ràng về trách nhiệm, gây trở ngại đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Sự hoạt động thiếu hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ nước ngoài kéo dài ngày càng ở nhiều nước do các khoản trợ cấp bù lỗ, cho vay với lãi suất ưu đãi đối với khu vực này ngày càng tăng. Đồng thời với quá trình sắp xếp và chấn chỉnh lại khu vực kinh tế nhà nước, sự thay đổi tư duy của các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia này về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã cho phép các nước đặt vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước như một bộ phận trong chiến lược tăng trưởng mới nhằm khai thác các động lực của khu vực của kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường.
Trong việc xác định các mục tiêu để tiến hành cổ phần hoá DNNN, các nước đều cho rằng nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và giảm thâm hụt ngân sách nhà nước là những mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Ngoài ra, tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà các mục tiêu cổ phần hóa được bổ sung thêm ít nhiều. ở nhóm các nước tư bản phát triển cần bổ sung thêm thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào những nghành, những lĩnh vực lâu nay Nhà nước độc quyền nhận xét thấy không còn cần thiết nữa. Nhà nước có điều kiện tập trung vào những nghành và lĩnh vực then chốt khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và tạo cơ sở cho sự tăng trưởng mới. Thực hiện phân phối có lợi cho các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, tạo sự ổn địnhvề mặt xã hội.
ở nhóm các nước đang phát triển nhìn chung đều đề cập đến các mục tiêu trên và còn bổ sung thêm một số mục tiêu có tính đặc thù sau: giảm gánh nặng nợ nước ngoài. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để đổi mới công nghệ và quản lý nâng cao chất lượng hàng hoá và các dịch vụ trong nước. Xây dựng và phát triển thị trường tài chính trong nước.
ở nhóm các nước Đông Âu và SNG còn bổ sung thêm 2 mục tiêu có tính đặc thù sau: giảm nhanh tỷ trọng gần như tuyệt đối của khu vực kinh tế nhà nước đang gây tình trạng trì trệ và khủng hoảng trong nền kinh tế. Tạo ra hệ thống kinh tế thị trường, tăng nhanh khu vực kinh tế tư nhân để dân chủ hoá các hoạt động kinh tế.
Các phương pháp cổ phần hoá được thực hiện phổ biến ở các nước gồm 3 hình thức: 1) bán cổ phần cho công chúng; 2) bán cổ phần cho tư nhân; 3)những người quản lý và công nhân mua lại doanh nghiệp. Nói chung các phương pháp này thường được kết hợp với nhau và tuỳ điều kiện của mỗi nước mà phương pháp nào được lựa chọn sử dụng nhiều hơn.
Nhìn chung từ việc xem xét kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên thế giới có thể rút ra một số vấn đề có tính chất chung cho quá trình tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá. Sự triển khai có tính chất toàn cầu, quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sự điều tiết của nhà nước và của thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua.
1.4 Công ty cổ phần- mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường.
Công ty cổ phần là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Về lý thuyết, chúng ta thấy rằng, hình thái doanh nghiệp được thiết lập dựa trên hình thái cổ phần hoá. Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn bên kia là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn. Các cổ phiếu và trái phiếu được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần, cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các nguồn vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của công ty và của công chúng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính phủ đã có hàng loạt biện pháp cần thiết để tăng cường hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Ngay từ năm 1987 với nghị định số 217/HĐBT; Chính phủ đã tạo bước đột phá, giao quyền tự chủ cho các DNNN. Riêng cổ phần hoá được triển khai thí điểm theo quyết định202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Kết quả khẳng định cổ phần hoá là một biện pháp tích cực nhằm cải tổ lại khu vực các doanh nghiệp nhà nước.Các Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Nghị định sửa đổi 25/CP ngày 26/3/1997 đã cụ thể hoá quyết tâm của chính phủ về công tác cổ phần hoá. Triển khai nội dung các Nghị định của chính phủ, Bộ tài chính đã có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể như trong thông tư 47/TC-TCT ngày 17-8-1996. Thông tư 50/TC-TCDN ngày 30-8-1996 hướng dẫn những vấn đề tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phiếu trong việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Thực hiện chính sách nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các DNNN Đảng và Chính phủ đã coi cổ phần hoá là một trong những biện pháp tích cực nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thúc đẩy các thành phần kinh té phát triển. Làm nòng cốt cổ phần hoá sẽ góp phần: giải quyết tốt vấn đề sở hữu công cộng cụ thể hoá quyền sở hữu của người lao động, tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia làm chủ doanh nghiệp một cách thiết thực.
Tăng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của các DNNN giúp các doanh nghiệp có sức và có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, ứng dụngcông nghệ hiện đại. Góp phần đắc lực và đạt hiệu quả cao, để thực hiện thành công chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Huy động tối đa sức dân vào công cuộc xây dựng đất nước. Bằng biện pháp kinh tế, tiết kiệm trong dân cư CPH đã huy động một cách tự nguyện và tối đa cho chương trình kinh tế.
Tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, chứng khoán ở Việt Nam.
Thực tế, quá trình cổ phần hoá thời gian qua đã làm tăng hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đây là vấn đề mấu chốt quyết định đến khả năng nâng cao mức thu nhập của người lao động; đồng thời theo đó một vấn đề được coi là hóc búa nhất trong cơ cấu lại DNNN - vấn đề thất nghiệp - cũng được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp nhà nước không những không sa thải công nhân khi cổ phần hoá, ngược lại trên thực tế còn tuyển thêm nhiều lao động mới, vì hiệu quả kinh tế tăng lên, thị trường mở rộng...
Về phía Nhà nước, cái lợi vừa mang tính chiến lược vừa cụ thể, ngân sách nhà nước bớt được các khoản chi bao cấp, số thu ngân sách tăng do doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Mặt khác thông qua cơ chế hoạt động của doanh nghiệp CPH, Nhà nước tạo ra được một cách quản lý mới, có tính tập thể và hiệu quả cao. Thông qua Hội đồng quản trị, từ nay người lao động cũng được tham gia vào quá trình quản lý và phân phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước .
2.1. Sự hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước .
Điểm lại tình hình chung của khu vực DNNN còn khá nhiều điều khó lý giải trong công tác quản lý: theo luật doanh nghiệp nhà nước, toàn bộ tài sản, tiền vốn của khu vực DNNN là thuộc sở hữu toàn dân, đại diện là thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố được uỷ quyền. Người đại diện chủ sở hữu không quản lý và sử dụng tài sản, mà giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp – người làm thuê cho nhà nước lại trực tiếp quản lý sử dụng tài sản. Do đó tài sản thất thoát không thể bắt giám đốc, tổng giám đốc bồi thường được, vì danh ngôn chính luận họ chỉ hưởng lương lấy đâu nguồn bồi thường, tiền vốn bị thua lỗ, bị chộp giật, giải pháp khoanh nợ thực tế không thể thực hiện được, cá nhân không mất gì thì “ đục nước béo cò”. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, chúng ta đã đẻ ra hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước mà tổ chức bộ máy cán bộ, nhân viên lười biếng, hiệu quả kém, khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp này không trụ được, sống dở, chết dở.
Nếu chúng ta vẫn cố gắng duy trì hình thức DNNN thì không những kéo lùi sự phát triển của nền kinh tế mà còn gây ra hậu quả nghiêm trọng đến tình hình chính trị, quốc kế dân sinh ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân làm tụt lùi sự phát triển của xã hội, bởi vì duy trì một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hình thức chủ yếu là các DNNN. Sự kém năng động sáng tạo, sự bảo thủ của đa số các chủ doanh nghiệp nhà nước là căn bệnh kinh niên khó chữa trị.
Phần lớn các DNNN độc lập không là thành viên của các tổng công ty hiện nay kinh doanh chưa hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận thấp sản suất kinh doanh chủ yếu là đủ (hoặc thiếu). Số đóng góp được cho ngân sách nhà nước không đáng là bao. Thậm chí có những doanh nghiệp thuộc nghành du lịch- khách sạn là nghành dễ thu lợi nhuận nhất cũng chỉ đạt mức 0.25%(Trong khi đó khách sạn du lịch tỷ suất lợi nhuận trên thường phải đạt xấp xỉ 10%). Các nghành khác cũng ở trong tình trạng tương tự. VD: như nghành thương mại, cácDNNN thuộc khu vực này chưa lấy xuất khẩu làm trọng mà chủ yếu vẫn chỉ loanh quanh, luẩn quẩn, buôn bán lòng vòng thu lợi nhuận nhờ chênh lệch giá, chia lãi thu được trong nội bộ sao cho “trong ấm ngoài êm” là được. Doanh nghiệp có hướng ra xuất khẩu thì cũng không tìm ra loại hàng gì để xuất khẩu cho có lợi bởi ngoài rất nhiều nghị quyết và quy chế làm việc nội bộ của doanh nghiệp thì họ cũng chả có gì khác.
Những tình hình trên đây là có thực ở từng loại hình DNNN khác nhau. Rõ ràng nếu xác định vai trò chủ đạo của khối doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế hiện nay thì không nên và không thể là tất cả các doanh nghiệp nhà nước hiện có. Nhà nước cần tập trung sức lực để chuyển đổi một số hình thức doanh nghiệp sao cho phù hợp với cơ chế mới - cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Và trong đó có một nội dung rất quan trọng đó chính là sự cần thiết phải chuyển đổi hình thái doanh nghiệp nhà nước sang hình thái công ty cổ phần.
2.2 Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là nột yêu cầu bức thiết.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì tập trung tiến hành công tác sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh số lượng doanh nghiệp nhà nước nâng quy mô vốn bình quân, giảm bớt được sự tài trợ của ngân sách, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bước đầu đã phát huy được quyền chủ động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, do dặc điểm và thực trạng doanh nghiệp nhà nước của nhà nước ta, việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn còn phải tiến hành một cách thận trọng, lâu dài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phức tạp trong cả lĩnh vực kinh tế và trong lĩnh vực đời sống xã hội, mới đạt được kết quả mong muốn .
Hiện nay bên cạnh các chủ quan xuất phát từ nội bộ nền kinh tế thì biến động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang tiếp tục lan rộng và theo chiều sâu cũng sẽ đồng thời ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn dịnh, vững chắc không những chỉ cho những năm trước mắt mà cho cả tương lai lâu dài.
Nghị quyết hội nghị TW4(khoá 8 đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước, phấn đấu đưa chúng thực sự trở thành lực lượng chỉ đạo dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm nòng cốt để thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới có hiệu quả.Tiếp theo Chính phủ đã có chỉ thị 20/TTg ngày 21-4-1998, trong đó đề ra chương trình kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hợp lý, mạnh, được quản lý tốt.
Cổ phần hoá là một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới sắp xếp DNNN.
II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua.
1.Tiến trình cổ phần hoá.
1.1. Từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương có từ sau QĐ 217- HĐBT(11/1987); sau đó là QĐ 202/CT ngày 8/6/1992của chủ tịch HĐBT(nay là Thủ tướng chính phủ ). Tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần; và quyết định 203/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT quy định danh sách 8 DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. Chỉ thị 84 TTg ngày 4/3/1993 của thủ tướng Chính phủ xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN giai đoạn khởi đầu của cổ phần hoá chỉ có rất ít các DNNN tiến hành cổ phần hoá. Các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá đều là những đơn vị có quy mô nhỏ, ít vốn (nhiều nhất trên 18 tỷ đồng Việt Nam, ít nhất khoảng 351 triệu đồng). Kinh doanh trong những lĩnh vực không quan trọng. Số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá quá ít, chưa đại diện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực khác nhau, các cấp quản lý khác nhau, các vùng khác nhau.
Mặc dù kết quả đạt được sau khi cổ phần hoá đêu tốt, hầu như không có doanh nghiệp nào sau khi cổ phần hoá lại hoạt động kém hơn trước. Từ khi có chỉ thị 202/HĐBT(năm 1992) cho đến năm 1998 mới có 14 doanh nghiệp cổ phần hóa.Như vậy bình quân mỗi năm mới được gần 3 doanh nghiệp cổ phần hoá, Theo năm thì năm 1993có 2 doanh nghiệp được cổ phần hoá, năm 1994 có 1 doanh nghiệp, năm 1995 có 3 doanh nghiệp và năm1996 : 5 doanh nghiệp và 6 tháng đầu năm 1997 có 3 doanh nghiệp .
Giả sử trong 2 năm 1997-1998 chúng ta thực hiện cổ phần hoá được khoảng 150 doanh nghiệp thì nhà nước mới chỉ chiếm 4% số DNNN hiện có. Thực hiện các Nghị quyết đại hội lần thứ VI,VII,VIII của Đảng và các nghị quyết của ban chấp hành Trung Ương, Bộ chính trị, Đảng ,Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp nhà nước 1990-1993; 1994-1997 và từ giữa năm 1998 cho đến nay. Trong đó quá trình đổi mới sắp xếp chủ yếu là đợt 3, được triển khai theo các nội dung được ghi trong các nghị quyết đại hội VIII của Đảng.
1.2. Sự hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp có 100% vốn là cổ phần.
Theo đánh giá của ban chỉ đạo cổ phần hóa DNNN các công ty cổ phần đều đạt kết quả tốt, cụ thể là doanh thu của các công ty này tăng 55,9% năm, nộp ngân sách tăng 98%, lợi nhuận tăng 46,8%, thu nhập tăng 20%, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 14%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn 76%, và vốn tăng 45%. Đời sống của người lao động được cải thiện. Trách nhiệm của người quản lý được nâng cao người lao động gắn bó chặt chẽ hơn với công việc. Đáng chú ý nhất là các DNNN ở Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành cổ phần hoá. Sau khi cổ phần hóa được 3 năm vốn tăng 5 lần, doanh thu tăng 7 lần, lợi nhuận sau thuế tăng 4 lần, nộp ngân sách nhà nước tăng hơn 6 lần.Thu nhập bình quân của người lao động tăng từ 800.000đ lên 2 triệu đồng /tháng. Thực tế hoạt động của công ty cổ phần cho thấy vai trò của nhà nước được giữ vững vì nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế và có người trong ban chấp hành công ty, các tổ chức Đảng và các đoàn thể của công ty vẫn phát huy được vai trò lãnh đạo của mình đối việc xây dựng và thực hiện các phương châm sản xuất kinh doanh, thực hiện được các hoạt động giám sát việc chấp hành chế độ, chính sách và luật pháp của nhà nước, chăm lo cải thiện đời sống người lao động.
Những thành tích mà các công ty cổ phần trong những năm qua là to lớn và đóng vai trò quan trọng, góp phần khẳng định một chủ trương,chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Theo các con số thống kê năm 1998 cho thấy:tính từ năm 1992 đến hết tháng 5/1998 đã có 29 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá thuộc các nghành công nghiệp, nông nghiệp xây dựng, giao thông vận tải, dịch vụ với tổng số vốn điều lệ ban đầu là 281 tỷ đồng và gần 6000 lao động. Trong đó có 12 doanh nghiệp đã hoạt động theo luật công ty từ một năm trở lên. Các doanh nghiệp này sau khi cổ phần hoá đã hoạt động hiệu quả hơn trước. Vốn điều lệ (kể cả vốn của nhà nước) tăng bình quân 19,6% năm, doanh thu tăng bình quân 46% năm,lợi nhuận tăng bình quân 44% năm. Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%năm, tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu gồm vốn tích luỹ)là 44%. Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30% năm.Thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3% năm. Ngoài ra người lao động có cổ phần trong công ty còn được chia lợi tức trên góp vốn cổ phần từ lợi nhuận sau thuế 22-24% năm(Nếu gửi tiết kiệm thì lãi suất tối đa cũng chỉ được 12% năm).
Tóm lại, thực tế ở các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông(trong đó có cổ đông nhà nước và người lao động) vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa tăng giá trị góp vốn tại công ty. Ngoài việc tăng trưởng được góp vốn, được chia cổ tức, các khoản nộp ngân sách nhà nước cũng tăng nhanh. Kết quả này đã khích lệ một số nghành, địa phương, tổng công ty nhà nước tích cực hơn trong việc triển khai cổ phần hoá.
1.3 Tổng kết quả đạt được và mở rộng quy mô cổ phần hóa.
Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đến ngày 15/8/2000 cả nước cổ phần hoá được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỷ đồng(tăng 12% so với trước khi cổ phần) bằng 1,6% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lương công nhân viên của các doanh nghiệp cổ phần hoá đều tăng so với trước. Cùng với quá trình cổ phần hóa Đảng và Chính phủ chủ trương để một số doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới với tổng số vốn nhà nước là 868,8 tỷ đồng chiếm 46% vốn điều lệ, kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy 267 công ty(96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại( 3.6 %) hoà vốn.
Qua các số liệu tổng kết cho thấy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá là một bài học quý báu. Nhà nước cần triệt để hơn nữa trong việc thực hiện cổ phần hoá DNNN. Chúng ta xét thấy rằng sở hữu nhà nước trong những nghành, những doanh nghiệp không cần có sự can thiệp của Nhà nước thì có thể tiến hành cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần để nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và nhà nước có điều kiện thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Chúng ta cần phải xác định một số quan điểm cơ bản để có thể thực hiện chương trình mở rộng quy mô cổ phần hoá.
Một là, việc thực hiện những doanh nghiệp cổ phần hoá phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Chương trình này phải đưa ra được 3 nhóm doanh nghiệp nhà nước với những giải pháp đổi mới khác nhau: 1) Nhóm các doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì 100% vốn của nhà nước. 2) Nhóm các doanh nghiệp được cổ phần hoá dưới nhiều hình thức. 3) Nhóm các doanh nghiệp phải được xử lý theo Luật phá sản.
Hai là, việc lựa chọn doanh nghiệp nào để cổ phần hoá là thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu, chứ không tuỳ thuộc ý kiến giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp.
Ba là, dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh củ doanh nghiệp để xác định các mục tiêu cổ phần hoá cụ thể, phù hợp với từng loại doanh nghiệp như: loại cần huy động thêm vốn, loại cần thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác, loại nên để cho người lao động và quản lý làm chủ.
Bốn là, mọi tài sản của doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi tập thể. Là người chủ sở hữu, Nhà nước có trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, thì lẽ đương nhiên Nhà nước cũng có trách nhiệm với phần “vốn tự có” của doanh nghiệp. Tuy nhiên._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33681.doc