Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Tài liệu Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU Từ sau Đại hôị Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nhà nước đã đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nền kinh tế thị trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước khủng hoảng. làm thế nào để cấu trúc lại kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của nó theo tinh thần các Nghị quyết Đại h Ebook Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2300 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội VI và VII của Đảng. Một trong những biện pháp chiến lược để giải quyết những vấn đề này là tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhằm đa dạng hóa sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường, đây cũng là giải pháp có tính phổ biến để cải cách khu vực kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới.Chính vì thế em chọn chủ đề: "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam" I. THỰC CHẤT CỦA CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN Hầu hết các tài liệu của các học giả nước ngoài khi xem xét vấn đề cổ phần hóa DNNNđều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn – đó là quá trình tư nhân hóa Có hai cách hiểu: Theo nghĩa rộng : tư nhân hóa là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ ngân sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trường vai trò điều tiết đáng kể qua tự do hóa giá cả …đều có thể coi là các biện pháp tư nhân hóa Theo nghĩa hẹp: thường dùng để chỉ quá trình giảm bớt quyền sở hữu nhà nước hoặc sự kiểm soát của chính phủ trong một xí nghiệp. việc giảm bớt quyền sở hữu và quyền kiểm soát của chính phủ có thể thông qua nhiều biện pháp và hình thức khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là biện pháp cổ phần hóa Xét về mặt hình thức,cổ phần hóa là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho các cán bộ quản lí và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc các công ty cổ phần . Xét về mặt thực chất, cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại. Cổ phần hóa là quá trình chuyển doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là nhà nước sang doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Sơ đồ kết cấu cổ phần trong Công ty cổ phần: Công ty đầu tư tài sản nhà nước CP Nhà nước CP cá CP Nhân nước ngoài CP CP Cty A của Cty B CP Cá nhân (Công ty mẹ) CP NN CP tập thể CP Cá nhân (Công ty con) Tài sản riêng của Cty B Tài sản riêng của Cty A CP CP của Tập thể Cty A CP Nước CP Ngoài Cá nhân CP Cty CP B Cá Nhân CP Tập thể (Công ty C) (Cty cháu) II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM 1. Cơ sở lí luận Sự hình thành nền kinh tế hàng hóa dựa trên hai điều kiện: sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội. nền kinh tế hàng hóa phát triển đòi hỏi phải có sự phát triển của sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội.kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kinh tế hàng hóa với sự ra đời của hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và công ty cổ phần. các hình thức kinh tế này, trước hết là sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng hóa nhưng đều có chung một cội nguồn ở sự xuất hiện xã hội hóa sở hữu tư nhân. 1.1. Xã hội hóa sở hữu thông qua trao đổi Thông qua trao đổi quá trình vận động lịch sử của sở hữu chuyển hóa theo xu hướng: - Một mặt tư liệu sản xuất ngày càng tách ra khỏi bản thân người lao độngdo sản phẩm trao đổi ngày càng biến thành những giá trị trao đổi không ngừng thoát khỏi sự chi phối trực tiếp của người lao động như là người sở hữu - Mặt khác thông qua trao đổi các tư liệu sản xuất ngày càng tập trung lại như một quá trình xã hội hóa, chịu sự thống trị của tư bản, lúc đầu là tư bản thương nghiệp , về sau là tư bản công nghiệp và ngày nay là tư bản tài chính 1.2. Xã hội hóa sở hữu thông qua tín dụng Thông qua sự phát triển của chế độ tín dụng quá trình xã hội hóa sở hữu được vận động theo xu hướng: - Nó làm cho các hình thái chiếm hữu tư nhân phụ thuộc trong những mối liên hệ mắt xích, chằng chịt lẫn nhau và dần dần hòa nhập vào nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội. sự hòa nhập này đạt đến trạng thái điến hình ở thị trường chứng khoán và công ty cổ phần - Nó làm cho các hình thái chiếm hữu được tập trung lại trên quy mô xã hội. việc mở rộng quy mô kinh doanh không còn phụ thuộc vào sự tích tụ của từng người sở hữu riêng lẻ nữa mà bằng tín dụng có thể tập trung tư bản xã hội và mở rộng quy mô kinh doanh lên nhiều lần 2. Cơ sỏ thực tiễn Vai trò tích cực của nhà nước khắc phục được hai yếu điểm của kinh tế thị trường tự do là cạnh tranh vô chính phủ và bất bình đẳng về xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa đã đi đén ảo tướng về khả năng sức mạnh của nhà nước trong phát triển kinh tế, do đó lạm dụng quá mức sự can thiệp của khu vực kinh tế nhà nước . khi sự can thiệp đã vượt quá giới hạn hợp lí của sự phát triển nền kinh tế thị trường, thì đến lượt nó lại kìm hãm sự tăng trưởng và làm cho nền kinh tế thị trường của nhiều nước rơi vào sự trì trệ kéo dài. 2.1. Tình trạng họat động thiếu hiệu quả của các DNNN - Hệ thống kế hoạch hóa và tài chính cứng nhắc không có tính chất kích ứng với cơ chế thị trường vì được quản lí theo hệ thống hành chính từ trên xuống với nhiều cấp trung gian. Nguồn tài chính được sử dụng hoàn toàn theo kế hoạch được duyệt từ đầu năm, không có sự chuyển đổi linh hoạt nhằm sử dụng hợp lí nguồn vốn và cũng không được chuyển sang cho năm sau. Điều này làm cho các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp không có động cơ tiết kiệm vì vậy không hợp lí hóa được sản xuất và giá thành luôn phải cộng với nhiều chi phí so với các doanh nghiệp tư nhân. - Tính tự chủ trong quản lí và các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước bị hạn chế vì nhiều cơ chế liên quan đến quyền sở hữu nhà nước, do đó gây ra những yếu tố làm ảnh hưởng đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. - Tình trạng độc quyền của dnnn trên thị trường được pháp luât của nhà nước củng cố và đánh mất những động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này, đưa đến tình trạng xã hội buộc phải chấp nhận tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra với chất lượng ít được cải tiến nhưng giá cả ngày càng tăng không hợp lí và nếu không tăng giá thì nhà nước phải chịu những gánh nặng trợ cấp ngày càng lớn - Các dnnn được thành lập từ các nguồn vốn của nhà nước , không được phép phá sản và được che chắn bằng các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc được sử dụng các nguồn vốn nội bộ với lãi xuất thấp hoặc được ưu tiên tiếp cận với các nguồn tài chính nước ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nước không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân. - Động cơ hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chỉ nhằm cố gắng tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên trước những sản phẩm và dịch vụ đối với người tiêu dùng 2.2. Thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các nước phải tiến hành cổ phần hóa vì các khoản trợ cấp ngày càng lớn cho khu vực kinh tế quôc doanh để đảm bảo nhà nước kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc trang trải các chi phí về giá vốn được duy trì thấp để ổn định sản xuất ở một số ngành. Ngoài các khoản trợ cấp trực tiếp còn có những khoản gián tiếp bị che giấu như ưu tiên vốn và ngoại thương để nhập khẩu cho các dnnn với giá cả không phản ánh được mức khan hiếm của chúng. Kết quả tài chính nghèo nàn của các dnnn làm tăng sự phụ thuộc của chúng vào ngân sách nhà nước ở nhiều nước nhất là những nước đang phát triển. khi mà trên thực tế các nguồn tài chính có thể được chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách ngày càng suy giảm và làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của các dnnn và điều này đã làm cho việc đánh giá lại vai trò của khu vực kinh tế này ngày càng trở nên cấp bách. 2.3. Sự thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết nhà nước trong nền kinh tế thị trường đây là nguyên nhân về nhận thức. dựa trên thực tiễn đã thay đổi về tình hình phát triển kinh tế theo hướng trì trệ và hiệu quả thấp ở hầu hết các nước. vấn đề đa dạng hóa sở hửu được đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đến chỗ tôn trọng nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường . đây cũng là một bước phát triển mới về nhận thức đối với nền kinh tế thị trường hỗn hợp, trong đó vai trò của nhà nước được coi như là một biến số của sự phát triển kinh tế, nó chỉ có tác dụng thúc đẩy khi sự can thiệp và điều tiết ở mức độ hợp lí dựa trên sự tôn trọng các quy luật thị trường. III. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA - Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa. . Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, doanh nghiệp thuộc các ngành  công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66,0% ; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,4%. Phân theo chủ sở hữu, doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 61,7%; thuộc các Bộ, ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Phân theo quy mô vốn, doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5tỷ đồng chiếm 54,0%; từ 5-10tỷ đồng chiếm 23,0%; trên 10tỷ đồng chiếm 23,0%.  Đơn vị có nhiều doanh nghiệp được cổ phần hóa là các Bộ; Bộ Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giáo thong vận tải; thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; các tỉnh: Khánh Hòa, Nam Định; Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa; các tổng công ty: Bưu chính viễn thông, Hóa chất. Tuy nhiên, có nhiều đơn vị triển khai cổ phần hóa chậm như các Tổng công ty: Công nghiệp tàu thủy, Xi măng, Dầu khí; các tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Lai Châu. Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra. - Cơ cấu vốn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp. Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%).  Nhìn chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước. - Cơ cấu cổ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN TỒN TẠI CỦA QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA 1. Kết quả đạt dược Số doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá đã tăng đáng kể: nếu như từ 6/1992 đến 31/12/1995 chỉ có 5 doanh nghiệp cổ phần hoá ( 4 doanh nghiệp ở TP-HCM ) thì đến năm 2000 đã có 582 doanh nghiệp cổ phần hoá , đến 30/6/2006 là 3365 doanh nghiệp và đến 31/12/2006 cả nước đã cổ phần hoá được 3782 doanh nghiệp, chỉ tính riêng năm 2005 thực hiện cơ chế cổ phần hoá theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có 967 đơn vị được phê duyệt phương uán cổ phần hoá. Thông qua cổ phần hoá đã huy động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tổng hợp các doanh nghiệp cổ phần hóa của cả nước: Năm Số DN cổ phần hóa Tổng số 6/1992- 1995 5 5 1996 6 11 1997 4 15 1998 105 120 1999 250 370 2000 212 582 2001 204 786 2002 164 950 2003 532 1482 2004 753 2.235 2005 754 2.989 2006 793 3.782 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - DNCPH có quy mô vốn lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hoá trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hoá chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hoá đã đạt 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước. - Việc điều chỉnh mệnh giá cổ phần; quy định số lượng cổ phần tối thiểu phải đấu giá bán công khai; xoá bỏ cơ chế bán cổ phần theo mệnh giá chuyển sang phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu tại các tổ chức tài chính trung gian (đặc biệt là tại hai Trung tâm giao dịch chứng khoán) đã góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong quá trình cổ phần hoá DNNN, khắc phục cơ bản tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn cổ phần hoá với việc phát triển thị trường chứng khoán, giảm áp lực cho công tác định giá, giảm tổn thất cho Nhà nước. Thông qua đấu giá, hầu hết các doanh nghiệp đều bán được cổ phần cao hơn mệnh giá. Với việc bán cổ phần ra bên ngoài, DNCPH đã chủ động lựa chọn được nhà đầu tư chiến lược cho mình và tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp vốn quản lý doanh nghiệp. - Doanh nghiệp cổ phần hoá có thể huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu và là nguồn cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán, còn thị trường chứng khoán là kênh cung cấp vốn cho doanh nghiệp nên tình hình tài chính doanh nghiệp được lành mạnh hoá so với trước khi cổ phần hoá, có điều kiện tập trung vốn, hiện đại hoá công nghệ thiết bị và có khả năng phát triển sản xuất.Việc đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao gắn với việc thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tạo đà cho thị trường chứng khoán phát triển. Tính đến nay tổng số doanh nghiệp đã niêm yết, đăng ký giao dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán là 57, trong đó có tới 49 doanh nghiệp được hình thành từ quá trình cổ phần hoá DNNN với tổng số vốn điều lệ đăng ký giao dịch, niêm yết trên 9.100 tỷ đồng. - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã mang lại lợi ích thiết thực cho ngườin lao động, nhà đầu tư, nhà nước và cả doanh nghiệp. kết quả các cuộc điều tra cho thấy 92,5% doanh nghiệp cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả , mức lợi nhuận trước thuế tăng 2,3 lần, mức độ nộp ngân sách tăng bình quân 26,5%/DN, phần vốn nhà nước không những được bảo tồn mà còn tăng 2,5 lần, năng suất lao động tăng 64%, lao động tăng do mở rộng sản xuất. đối với nhà đầu tư vừa tăng được giá trị góp vốn 2-3 lần , vừa được hưởng cổ tức cao hơn nhiều so với lãi xuất ngân hàng.Quyền lợi người laođộng trong DNCPH được đảm bảo:thu nhập của người lao động tăng 35%.Cán bộ công nhân viên trong đơn vị cổ phần được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 40% so với giá đấu bình quân thành công. Trong số 967 đơn vị đã cổ phần hoá, theo phương án được duyệt thì người lao động được mua ưu đãi giảm giá tới 260 triệu cổ phần. Lao động dôi dư ở các đơn vị cổ phần được hưởng chính sách trợ cấp theo quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 41), được hỗ trợ đào tạo nghề mới cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Riêng năm 2005 có trên 85.500 lao động dôi dư do sắp xếp lại được hưởng chính sách này, bình quân mỗi lao động dôi dư được hỗ trợ 32 triệu đồng/người. Nhờ có chính sách hợp lý, quyền lợi người lao động được đảm bảo, góp phần quyết định trong việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, ổn định xã hội. - Thời gian thực hiện cổ phần hoá nhanh hơn trước. Nếu như trước đây, thời gian thực hiện cổ phần hoá bình quân một đơn vị vào khoảng 437 ngày thì sau khi có Nghị định 187 đã rút được xuống còn khoảng 260 ngày (giảm 40%). Thời gian cổ phần hoá được rút ngắn một phần là do các doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá bắt buộc phải chủ động xử lý những tồn tại về tài chính trước khi thực hiện cổ phần hoá; mặt khác, việc xác định giá trị doanh nghiệp, bán cổ phần thông qua các định chế tài chính trung gian đã góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, đảm bảo tính khách quan trong quá trình định giá và bán cổ phần, qua đó cũng phần nào rút ngắn thời gian thực hiện công việc này; Thêm vào đó, các quyết định liên quan đến quá trình cổ phần hoá đã được xem xét, trình duyệt với thời gian nhanh hơn. - Doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ hoạt động theo luật doanh nghiệp hiện hành nên tránh được tình trạng các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp cụ thể và quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại không cơ quan nào chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. 2. Những khó khăn tồn tại - Từ tháng 6/1992 đến nay, tuy đã cổ phần hóa được 3782 DNNN nhưng so với mục tiêu kế hoạch đề ra vẫn còn chậm. Số doanh nghiệp còn lại là 2176 doanh nghiệp, Nhà nước vẫn nắm giữ gần 90% tổng số vốn điều lệ, khoảng 270000 tỷ đồng. Kết quả sản xuất kinh doanh của số DNNN này đã không tương xứng với các nguồn lực mà DNNN đang nắm giữ, theo kết quả kiểm toán năm 2006 tại các tổng công ty Nhà nước của kiểm toán Nhà nước cho thấy còn khá nhiều DNNN kinh doanh kém hiệu quả thậm chí thua lỗ kéo dài, có 6/21 tổng công ty được kiểm toán trong năm 2005 với số tiền trên 351 tỷ đồng và lỗ lũy kế đến 31/12/2005 là 985 tỷ đồng. Vì vậy, có thể coi đây là một thách thức lớn, nếu càng chậm cổ phần hóa càng gây thiệt hại cho nền kinh tế và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước khó được đảm bảo. - Hiện nay, tại các tổng công ty 90, 91, các Tổng công ty mẹ-công ty con, các tập đoàn kinh tế Nhà nước được chuyển đổi đều nắm giữ 100% vốn điều lệ. Rất nhiều doanh nghiệp trong số này không nhất thiết để Nhà nước nắm giữ 100% hay 51% vốn điều lệ. Việc Nhà nước vẫn nắm giữ 46,5% vốn điều lệ tại các công ty cổ phần đã phần nào hạn chế sự tham gia tiến trình cổ phần hóa của các nhà đầu tư chiến lược và của các doanh nghiệp nước ngoài, là cơ hội cho các doanh nghiệp cổ phần hóa tiếp tục dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước, chưa tự thân vận động sản xuất kinh doanh bình đẳng trước pháp luật. - Vấn đề xác định DNNN trước khi cổ phần hóa còn bất cập, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của hội đồng thẩm tra xác đinh giá trị doanh nghiệp, xác định nhiều lần với nhiều kết quả khác nhau làm cho doanh nghiệp cổ phần hóa gặp không ít khó khăn, mất nhiều thời gian, thậm chí còn cản trở tiến trình cổ phần hóa. Việc xác định quyền sử dụng đất chưa đúng như giá trị thực có thể làm thất thoát vốn của Nhà nước, chưa xác định đúng giá trị thương hiệu cũng như lợi thế thương mại…là những vấn đề rất quan trọng trong tiến trình cổ phần hóa. Biện pháp kê biên tài sản hiện hữu như hiện nay hoàn toàn không phản ánh đúng giá trị thực và giá trị vô hình của doanh nghiệp. Một số DNNN chưa có đủ giấy tờ pháp lý về nhà xưởng và quyền sưu dụng đất nên khó khăn khi chuyển đổi thành công ty cổ phần. - Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn hoạt động theo phương thức DNNN từ phương án kinh doanh đến phân chia lợi nhuận, có đến 80% doanh nghiệp vẫn giữ nguyên bộ máy cán bộ quản lý cũ như tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng. Việc làm này dễ dẫn đến khả năng sáng tạo trong sản xuất kinh doanh bị giảm xút, tạo điều kiện duy trì cung cách quản lý kém năng động, kém hiệu quả của DNNN. Nhìn chung từ tư duy kinh tế đến trình độ quản lý và phương pháp điều hành ít có sự thay đổi, chưa được tổ hoạt động theo luật doanh nghiệp nên ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Chưa tạo được môI trường cạnh tranh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp, doanh nghieep cổ phần hóa chưa thích nghi được với môI trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, còn lo ngại khi mất đI tên hiệu DNNN sẽ không còn được ưu tiên giao đất không được vay tín dụng ngân hàng theo hình thức tín chấp, không còn được khoanh nợ giãn nợ như lúc còn là doanh nghiệp Nhà nước. - Có dấu hiệu các nhà đầu tư liên kết bỏ giá hoặc “thông thầu” trong hoạt động đấu giá mua cổ phần gây tổn thất cho Nhà nước làm ảnh hưởng tới tiến trình cổ phần hóa, việc lựa chọn hình thức giao đất (phảI tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa) với việc khai đất (với chi phí được xác định ở mức thấp, chưa sát thị trường) dẫn tới các doanh nghiệp cổ phần hóa lựa chọn hình thức thuê đất, chưa khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm và sử dụng quỹ đất được giao, còn có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài chưa tạo điều kiện để thu hút và gắn kết giữa hoạt đồng đầu tư của nhà đầu tư chiến lược với sự phát triển của doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa có quy định cho phép các nhà đầu tư có tiềm năng được quyên mua lô lớn để được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa. - Chậm ban hành các văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho tiến trình cổ phần hóa, văn bản ban hành thiếu đồng bộ, thay đổi bổ sung nhiều lần gây khó khăn vướng mắc trong thực hiện cổ phần hóa. Quy mô cổ phần hóa còn phức tạp, thủ tục rườm rà thiếu cụ thể. Hình thức đấu giá cổ phiếu chưa được công khai, minh bạch, thông tin thiếu trung thực, làm cho các nhà đầu tư nản lòng, không có lợi cho cổ phần hóa và dễ nảy sinh tiêu cực trong đấu giá cổ phiếu lần đầu. V. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp mà nhà nước không cần giữ 100% vốn và lập công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết - Đối với những DNNN hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, cơ quan đại diện chủ sở hữu căn cứ vào lĩnh vực, mặt hàng đang sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà xây dựng mức cổ phần hóa cụ thể cho từng loại hình: DNNN có cổ phần chi phối , DNNN có cổ phần đặc biệt. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh và gắn bó người lao động với doanh nghiệp, đồng thời dành một tỉ lệ thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp để thu hút vốn và kinh nghiệm quản lí của các cổ đông ngoài doanh nghiệp. - Cần có quy định để khắc phục tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãI cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, có chính sách cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa giữ được cổ phần ưu đãI sau khi mua một thời gian nhất định. Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, bán cổ phiếu để nâng cao tính khách quan, chính xác và tránh phiền hà, tiêu cực. Số tiền thu được từ bán cổ phần để đầu tư phát triển DNNN - Về hình thức doanh nghiệp cổ phần hóa : căn cứ vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp và yêu cầu sản xuất kinh doanh mà lựa chọn hình thức : giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn, bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp , tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hóa. Chỉ đạo chặt chẽ và khuyến khích DNNN đẩy mạnh việc đầu tư một phần vốn để lập công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết . 2. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa DNNN - Các doanh nghiệp cổ phần hóa cần thay đổi nhận thức để có cách nhìn mới về hoạt động kinh doanh trong cơ chế không còn bảo hộ nhà nước và cũng nên có một quan niệm mới về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nhẳm đảm bảo lợi ích toàn cục. Nghiêm túc thực thi luật doanh nghiệp, vì đây là một luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, là một sân chơI bình đẳng cho các doanh nghiệp, không có sự phân biệt đối. Nếu thực thi đúng theo đúng luật doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện nhanh chóng để xóa bỏ cơ chế Bộ ngành, địa phương chủ quản , chấp nhận sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường. MôI trường cạnh tranh sẽ giúp cảI thiện hoạt động của doanh nghiệp cổ phần hóa loại bỏ hẳn tư duy quản lí kiểu DNNN. - Trong giai đoạn tới các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa sẽ được mở rộng ra nhiều lĩnh vực, ngành nghề , lại tập trung vào các doanh nghiệp, tổng công ty, tập đoàn có số vốn đầu tư lớn , chiếm tỉ trọng cao, đang đóng góp ngân sách, sử dụng nhiều lao động và có ảnh hưởng lớn đến xã hội và nền kinh tế của đất nước.Do đó, cơ chế cổ phần hóa cần tiếp tục hoàn thiện , tăng cường chỉ đạo, điều hành , kiểm tra, kiểnm soát để đề phòng và hạn chế tối đa những lệch lạc phát sinh trong quá trình cổ phần hóa theo hướng : nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và ban chỉ đạo cổ phần hóa trong việc tổ chức triển khai cổ phần hóa đúng với quy định của Nhà nước - Xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là vấn đề cốt lõi để tiến trình cổ phần hóa diễn ra đúng kế hoạch .Vì vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp cần được tính đúng , tính đủ và có dựa vào các yếu tố thị trường để các tài sản doanh nghiệp được tính đúng giá trị thực . Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp phảI là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà giá trị cổ phiếu được công khai giao dịch trên sàn chứng khoản trên cơ sở thuận mua vừa bán. Việc xác định gía trị lợi thế thương mại , giá trị thương hiệu là vấn đề nóng trong cổ phần hóa DNNN bởi vì trong nền kinh tế thị trường yếu tố thương hiệu, vị trí địa lí ngày càng đóng vai trò quyết định, những yếu tố vô hình này là những tài sản không nhỏ cần được tính vào giá trị doanh nghiệp để đảm bảo cho giá trị của nhà nước không bị thiệt hại. Về phương pháp định giá tài sản doanh nghiệp, nên mở rộng các phương pháp: giá trị thị trường hợp lí của tổng tài sản thuần dựa trên kết quả đánh giá độc lập, phương pháp giá trị của các doanh nghiệp tương tự , kết hợp các phương pháp. Việc mở rộng các phương pháp sẽ giáp các doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn phương pháp phù hợp và có điều kiện kiểm tra mức độ hợp lí của việc định giá - Việc nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối tại 33% doanh nghiệp cổ phần hóa trong thời gian tới là không còn thích hợp vì dễ tạo tâm lí cho các doanh nghệp cổ phần hóa duy trì cung cách quản lí cũ, cản trở phần nào hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh, hạn chế sự tham gia cổ đông của các nhà đầu tư bên ngoài và các nhà đầu tư chiến lược để có thể tăng tốc độ phát triển nhanh của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Vấn đề là doanh nghiệp được cổ phần hóa nếu chọn được người lãnh đạo giỏi, có năng lực, có phương án kinh doanh hiệu quả thì nhà nước chỉ cần nắm giữ 20-30% cổ phần cũng chi phối được doanh nghiệp - Xuất phát từ nhu cầu thực tế về đội ngũ quản trị cao cấp có kinh nghiệm quản lí, điều hành doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong môI trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường, nhà nước nên có chủ trương cho phép hội đồng quản trị các doanh nghiệp, tổng công ty, tập đoàn cổ phần hóa được quyết định lựa chọn nhân sự cấp cao, quyết định mức tiền lương, tiền thưởng theo doanh thu và lợi nhuận đối với việc thuê tổng giám đốc giỏi và các giám đốc chuyên nghiệp (CEO) để điều hành các doanh nghiệp trở thành các tổng công ty và tập doàn kinh tế vững mạnh. - Việc phát hành cổ phiếu lần đâu ra công chúng (IPO- Initial Public Offering) của doanh nghiệp cổ phần hóa trong năm2007 cần có một lộ trình cụ thể , phù hợp với kế hoạch của từng tổng công ty, tập đoàn cổ phần hóa. Dĩ nhiên, việc xây dựng lộ trình theo giá bán cổ phiếu có lợi cho nhà nước là một yếu tố nhưng không phảI là mục tiêu hàng đầu của cổ phần hóa bởi vì nều chờ giá tốt thì sẽ làm chậm tiến trình cổ phần hóa, càng thiệt hại cho nền kinh tế . Hơn nữa nếu xét về khía cạnh cổ phần hóa thì gía IPO cao gây khó khăn cho người lao động sở hữu cổ phiếu theo tiêu chuẩn, còn ngược lại thì người lao động sẽ có cơ hội sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp với giá hợp lí và việc các doanh nghiệp cổ phần hóa tiến hành IPO sẽ làm cho giá của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán mang giá trị thật hơn. - Đối với 71 công ty và tập đoàn kinh tế, nhà nước đã có chủ trương tiến hành cổ phần hóa thí điểm 3 đơn vị là: ngân hàng ngoại thương, ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Vinaconex và đến năm 2007 sẽ cổ phần hóa 26 tổng công ty. Vì vậy, để hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa và kế hoạch đại hội cổ đông, chính phủ nên có quyết định giao cho Bộ, ngành trung ương và ủy ban nhân dân địa phương thành lập ban chỉ đạo cổ phần hóa từng tổng công ty, tập đoàn, được thuê tư vấn cổ phần hóa nước ngoài, được xây dựng lộ trình IPO cổ phiếu và kêu gọi nhà đầu tư chiến lược - Kết hợp cổ phần hóa với đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp và tăng cường hiệu lực của các cơ quan quản li, nhà nước nên thực hiện cảI cách một cách triệt để hành chính đI đôI với việc tăng cường các biện pháp cảI cách tiền lương và các chế độ gắn với hiệu quả công việc của cán bộ viên chức hành chính nhà nước để họ yên tâm thi hành công vụ một cách vô tư, khách quan và có trách nhiệm cao. Điều gì thuận lợi và khó khăn trong quá trình cổ phần hóa Nguồn: Viện Quản lý và Nghiên cứu Kinh tế Trung ương * Số dương biểu thị tỷ lệ cho rằng các yếu tố này hỗ trợ quá trình cổ phần hoá. Số âm biểu thị tỷ lệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10008.doc