Lời nói đầu
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước - một trong những chủ trương, chính sách lớn - được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước và Chủ nghĩa xã hội giai đoạn hiện nay. Trong hoàn cảnh nước ta xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì Cổ phần hoá là việc
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm cần thiết,có tính chất quyết định đối với sự sống còn của các doanh nghiệp Nhà nước; nó thực sự là động lực thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển không ngừng, làm thay đổi tổng quan nền kinh tế theo xu hướng nhanh và bền vững.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta bước đầu thực hiện đổi mới doanh nghiệp Nhà nước đem lại một số kết quả nhất định như giảm tỉ lệ doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, nâng quy mô vốn bình quân, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách,tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn; phát huy tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; đồng thời giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, do đặc điểm và thực trạng doanh nghiệp Nhà nước của ta nên quá trình tiến hành đổi mới cần phải thận trọng, lâu dài; vì phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp của nền kinh tế nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Ngoài ra, việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn trước mắt cần giải quyết nhằm tạo tiền đề cho những bước đi mới trong tương lai.
Đứng trước tình hình cụ thể quá trình cổ phần hoá đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần có những bước đi thích hợp nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Hơn lúc nào hết, phải coi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ trung tâm gắn liền với sự nghiệp phát triển toàn diện đất nước nhưng không xa rời các mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể khác; tạo sự liên kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhiệm vụ nhằm thay đổi căn bản tổng quan của đất nước, luôn hướng tới một tương lai tươi sáng, dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng văn minh và giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Nội dung
Cổ phần hoá là một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự nghiệp thúc đẩy và phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia; đó là một quá trình phức tạp và khó khăn trong cải cách khu vực kinh tế quốc doanh - mà đối tượng chủ yếu là bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Đó cũng là một quá trình không đơn điệu và mang màu sắc riêng biệt của mỗi quốc gia trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; do đó cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được xem xét cụ thể trên các phương diện:
I. Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một xu hướng tất yếu khách quan.
Đến lúc kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung (hay là sự xoá bỏ bao cấp của Nhà nước trong quản lí và phát triển nền kinh tế ) thì xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được xem như là một quy luật khách quan: Đó là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần trên cơ sở đường lối, chính sách của Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực Nhà nước phù hợp khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế mới vận động theo quy luật thị trường có điều tiết của Nhà nước. Chiến lược cổ phần hoá là chủ trương, chính sách được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm trong vận hành nền kinh tế thị trường;bởi lẽ,cổ phần hoá là có thể tự phát sinh trong nền kinh tế mới song không thể có hiệu quả, đúng nghĩa mà nó có được; Nếu không có sự can thiệp, điều chỉnh của Nhà nước bằng các chính sách,đặc biệt là hệ thống pháp luật thì mặc nhiên cổ phần hoá lại biến thành cái gì đó khác. Chính vì vậy, Nhà nước có một vai trò hết sức to lớn trong hoàn thiện kinh tế mới, phát triển khu vực kinh tế quốc doanh - vốn là sự sống còn của một quốc gia.
Tuy nhiên, việc tiến hành cổ phần hoá đòi hỏi phải rất thận trọng, phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể chứ không áp đặt một mô hình nào đó cho tất cả quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước.Do vậy, nghiên cứu về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến yêu cầu cổ phần hoá:
Thứ nhất, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế quốc doanh so với kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân - mà nguyên nhân chính là các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ ; sở dĩ, các
doanh nghiệp Nhà nước ở trong tình trạng như vậy là do phụ thuộc quá mức vào ngân sách Nhà nước. Phải kể đến là sự bao cấp quá mức của Nhà nước (bao cấp tất cả mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh ) dẫn đến hậu quả là doanh nghiệp không chủ động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình; một phần là do hậu qủa hình thức tổ chức quản lí cồng kềnh, quan liêu,cửa quyền - mà điển hình là sự hách dịch, cơ hội, tham ô, tham nhũng tài sản chung. Bởi vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước càng trở lên phức tạp và khó khăn hơn bao hết: thứ nhất phải kể đến vấn đề nhận thức, nhận thức thế nào cho đúng các vấn đề cơ bản: thế nào là doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp Nhà nước trong suy nghĩ của mỗi ngành mỗi cấp, mỗi người dân; và cổ phần hoá được diễn ra như thế nào,doanh nghiệp nào cần cổ phần hoá, doanh nghiệp nào không, ai lãnh đạo công việc này là tốt, cổ phần hoá bao nhiêu phần trăm thì phù hợp. Thứ đến, là làm thế nào để xử lí các vấn đề nghiệp vụ như xác định giá trị doanh nghiệp,hạch toán doanh nghiệp, giải quyết vấn đề lao động,và nhiều vấn đề khác một cách cụ thể, chính xác có hiệu quả.
Thứ hai, tự thân các doanh nghiệp Nhà nước không tự mình chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không lấy mục tiêu làm ăn có lãi để phát triển doanh nghiệp; do sự ỉ lại vào Nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều đầu tư trên quy mô lớn nhưng lại kém năng động trong hoạt kinh doanh thương mại - mà rào cản lớn nhất là sự phân phối không hợp lí của các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh.
Cải cách các doanh nghiệp Nhà nước khi chúng làm ăn kém hiệu quả,thua lỗ là một cầu cấp thiết đặt ra trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa -mà con đường đúng đắn là cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Chỉ có cổ phần hoá mới tạo điều kiện vực được các doanh nghiệp Nhà nước đứng vững trong cơ chế thị trường và tiến tới làm ăn có hiệu quả. Với các doanh nghiệp Nhà nước thì cổ phần hoá lại là một điều kiện biến đổi,nới rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra môi trường thuận lợi kích thích người lao động tích cực hơn trong sản xuất - bởi giờ đây họ có một phần tài sản trong doanh nghiệp và muốn số vốn đó gia tăng thêm - đem lại thu nhập cao hơn cho người lao động và doanh nghiệp ngày một phát triển không ngừng.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp tích cực nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển góp phần:
+ Giải quyết vấn đề sở hữu công cộng, cụ thể hoá quyền sở hữu người lao động và quần chúng lao động có điều kiện tham gia làm chủ doanh nghiệp. Trong quá trình cổ phần hoá các tài sản thuộc về Nhà nước, tài nguyên cùng với tài sản sở hữu công cộng khác được tách bạch một cách rõ ràng và được quy định cụ thể hơn tới việc sở hữu, sử dụng các tài sản đó. Mặt khác, người lao động được tự do hơn trong việc thực hiện bán sức lao động của mình; đồng thời những người sử dụng lao động đó phải đem lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp và toàn bộ thành viên hoạt động trong doanh nghiệp. Không những thế, mà cổ phần hoá tạo điều kiện mở ra cơ hội cho nhân dân có thể tham gia kinh doanh, tổ chức và làm chủ doanh nghiệp bằng chính vốn, khả năng của mình.
+ Tăng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, giúp các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến và công nghệ hiện đại. Cổ phần hoá đem lại cho doanh nghiệp vô vàn cơ hội phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh và thực sự độc lập trong việc quyết định chiến lược phát triển.
+ Đạt hiệu quả cao trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế và huy động được tối đa sức dân vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc làm này đồng nghĩa với việc sử dụng đúng mức, có hiệu quả cao đối với những tiềm năng sẵn có trong tự nhiên, kinh tế, xã hội … nhằm đạt được sự phát triển không ngừng về mọi mặt.
+ Thúc đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính chứng khoán; song song với việc hình thành các công ty cổ phần là quá trình hình thành thị trường cổ phiếu, thị trường cổ phiếu phát triển tuy có rủi ro cho doanh nghiệp nhưng lại là tất yếu, động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Thị trường chứng khoán mở ra một cơ hội kinh doanh, tăng thu nhập nguồn vốn cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Tiền thu được do bán cổ phần của Nhà nước quay trở lại mở rộng sản xuất kinh doanh, làm tăng thu ngân sách chứ không đồng nghĩa với tư nhân hoá.
Trên cơ sở những điều kiện thực tế của doanh nghiệp Nhà nước thì cổ phần hoá là một xu hướng khách quan tất yếu diễn ra. Cổ phần hoá đối với doanh nghiệp Nhà nước không được xem nhẹ trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước hiện nay, lại càng không thể thiếu trong chuyển đổi nền kinh tế đất nước và định hướng Xã hội chủ nghĩa cuả Việt Nam.
2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Liên Xô và Trung Quốc.
21. Những nét chính về thực tiễn cổ phần hoá.
211. Quá trình cổ phần hoá diễn ra ở Liên Xô.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ được diễn ra trong những điều kiện cụ thể tương đối giống nhau: họ tiến hành
tư nhân hoá khi chưa có một bài bản sẵn sàng, một kinh nghiệm mong muốn.
Họ đã tự nghiên cứu, đề xuất, vừa làm vừa điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và đặc điểm của mình. Trong tất cả các cách tiến hành tư nhân hoá đó, Liên Xô được coi là một điển hình mang nhiều đặc điểm nổi bật:
- Về kinh tế: Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều có quy mô lớn và chiếm vị trí độc quyền nên việc chuyển hoá sở hữu không chỉ gặp nhiều thuận lợi mà còn gặp những khó khăn: Thuận lợi vì ít đơn vị chuyển đổi sẽ đỡ tốn nhân lực và trí tuệ trong quá trình xử lý các vấn đề phát sinh trong và sau khi chuyển sang hình thức sở hữu khác. Còn khó khăn thể hiện ở chỗ đối với các doanh nghiệp Nhà nước lớn cần phải thu hút một số vốn lớn hơn, huy động nhiều hơn số người tham gia mua cổ phiếu, điều hành, phối hợp hoạt động khó khăn hơn. Hiện tượng độc quyền không bị xoá bỏ mà chỉ chuyển từ trạng thái độc quyền Nhà nước sang độc quyền tư nhân, không tạo ra động lực cạnh tranh trong phát triển kinh tế.
- Về tâm lí xã hội: Tâm lý của đại bộ phận dân chúng luôn trong tình trạng an phận, không ham hố, không liều lĩnh làm giàu. Nếp sống trì trệ và khả năng tài chính hạn chế do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế bao cấp. Nhiều người sẽ không tham gia vào việc mua cổ phiếu hay mua tài sản của doanh nghiệp: do đó động lực thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá không được mạnh mẽ.
- Về môi trường kinh doanh: Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ không coi trọng đúng mức quan hệ thị trường, nay phải chuyển sang một cơ chế khác thì có rất nhiều vấn đề mới đặt ra. Cộng với tỏ chức, quản lý doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá chậm được đổi mới; do bộ máy quản lý còn quá cồng kềnh và nặng nề chưa linh hoạt trong cơ chế mới. Những doanh nghiệp được cổ phần hoá nếu hoạt động trong môi trường không thuận lợi như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn và trở ngại.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Liên Xô cũng được chuẩn bị những tiền đề hết sức cận thận, cụ thể: Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước có những đường lối, chính sách tiến hành cổ phần hoá chi tiết tới từng đối tượng ( doanh nghiệp nào tiến hành trước, doanh nghiệp nào tiến hành sau… );
cổ phần hoá được tiến hành trong khuôn khổ của các ngành luật cụ thể. Các công đoạn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Liên Xô cũng được xác định rõ ràng : từ hình thức phương pháp và thời hạn tiến hành cổ phần hoá, việc giải quyết vấn đề vốn, tài sản, lao động sau khi được cổ phần cũng được chú trọng. Về tâm lý của quần chúng nhân dân trong xã hội, Nhà nước tiến hành theo dõi, xem xét và thuyết phục đối với họ: Nhà nước không chỉ dùng hình thức tuyên truyền đối với dân chúng mà còn dùng chính thực tế thành công của những đơn vị thí điểm đi đầu trong quá trình cổ phần hoá. Đối với môi trường kinh doanh: Nhà nước cải tạo hệ thống tổ chức quản lý của mình nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để cho các doanh nghiệp và người dân tự do trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động mua bán cổ phiếu trên cơ sở mở rộng hơn thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, do mang những đặc điểm kể trên nên quá trình đổi mới ở Liên Xô trước những năm 1990 đã diễn ra ngoài sự mong muốn: Quá trình tư nhân hoá được diễn ra với quy mô to lớn - đồng thời nhiều doanh nghiệp - dẫn tới sự ồ ạt không kiểm soát được của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp được tư nhân hoá phần lớn đã trở thành các công ty độc quyền và dần bị lũng đoạn bởi giai cấp tư sản. Hậu quả dẫn đến Nhà nước Xã hội chủ nghĩa bị mất quyền lãnh đạo, trật tự kinh tế - xã hội trước đó bị đảo lộn hoàn toàn. Sự sụp đổ của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô dần kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các nước Xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu.
212. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc.
Quá trình cổ phần hoá ( tư nhân hoá ) ở Trung Quốc được bắt đầu vào những năm đầu của thập kỉ 80. Quá trình này bắt nguồn từ những nhận thức phía giới lãnh đạo Trung Quốc về tình trạng kém hiệu quả đến mức báo động của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước; cùng với sự mênh mông của chương trình 4 hiện đại hoá Trung Hoa. Điểm quan trọng mà Trung Quốc nhận thấy là mọi giải pháp đổi mới không được động chạm tới lợi ích chính trị, không phương hại đến tình hình chính trị xã hội của Trung Quốc, cho nên quá trình cải cách các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện theo hai nội dung sau:
* Cải cách cơ chế quản lý các doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở giữ lại nguyên trạng chủ sở hữu Nhà nước mà hình thức phổ biến là thực hiện chế độ hợp đồng và chế độ cho thuê. Hợp đồng được kí giữa một bên là Nhà nước và một bên là các xí nghiệp,người quản lý xí nghiệp, có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là cách làm đạt hiệu quả cao, người ta có thể lựa chọn được những người có đủ năng lực, dám làm, dám chịu trước công việc mình làm và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh phát triển hơn.
Đối với chế độ cho thuê, Nhà nước thực hiện chế độ này đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn bằng cách thuê chuyên gia về quản lý doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác định hay cho thuê phần tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước trong một thời gian được ấn định. Bằng cách làm này, Trung Quốc đã đạt được mục tiêu cải cách phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ hơn mà lại không mất đi vai trò chủ sở hữu của mình.
* Cải cách sở hữu: cải cách chế độ sở hữu diễn ra ở Trung Quốc những năm
gần đây hết sức phức tạp và phong phú nhưng phát triển trên chiều hướng đi lên và thành công lớn trong chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc được diễn ra mang 3 hình thức chủ yếu:
- Thứ nhất: thành lập các công ty cổ phần, trong đó cổ đông gồm cả Nhà nước, tập thể và tư nhân; nhưng Nhà nước vẫn giữ lượng cổ phần khống chế đối với các doanh nghiệp lớn và trung bình.
- Thứ hai: các doanh nghiệp tư nhân được phát triển ở mức độ nhất định, ở một số ngành xác định chứ không theo kiểu các nước công nghiệp phát triển, sự phát triển này đáp ứng nhu cầu thúc đẩy sản xuất hàng hoá, kích thích thị trường, tạo ra công ăn việc làm, nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của người dân.
- Thứ ba: Trung Quốc chủ trương phát triển các doanh nghiệp dựa vào vốn đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết những thiếu hụt về vốn, kĩ thuật, công nghệ và quản lý - mà các hình thức phổ biến như: doanh nghiệp đầu tư, hợp tác sản xuất hay buôn bán và các xí nghiệp hoàn toàn do người nước ngoài làm chủ sở hữu.
Sau cải cách, Trung Quốc đã đạt được một số thành quả đáng ghi nhận:Đến năm 1987, có hơn 10 nghìn doanh nghiệp nhỏ thực hiện chế độ cho thuê. Đến năm 1988, ở 22 tỉnh, đặc khu, vùng tự trị có 81% các doanh nghiệp thực hiện chế độ hợp đồng ( trong số đó có tới 76% là các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn ). Cuối năm 1986, Trung Quốc có tới 6 nghìn doanh nghiệp cổ phần với tổng số đầu tư hơn 6 tỷ đồng nhân dân tệ. Nếu năm 1980, chỉ có 2 công ty liên doanh với nước ngoài thì năm 1986 có tới 28 doanh nghiệp do người Hoa ở Ma Kao và Hồng Kông quản lý, 391 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và 34 xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Cải cách đổi mới nền kinh tế ở Trung Quốc đã góp phần đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng và đạt được mức tăng trưởng, phát triển cao. Song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, tồn tại như chế độ thưởng phạt hay làm thế nào để thúc đẩy cạnh tranh …
22. Kinh nghiệm cổ phần hoá.
Việt Nam là một nước thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đi sau nên việc nghiên cứu tiến trình cổ phần hoá ở các nước đi trước là một việc làm hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu này giúp ta đi vào cổ phần hoá không bị lệch hướng cũng như hạn chế những sai lầm không đáng có. Từ nghiên cứu qúa trình cổ phần hoá ở Liên Xô và Trung Quốc đã giúp ta rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu sau:
- Việc cổ phần hoá bắt đầu phải được tiến hành một cách thận trọng, vững
chắc, tránh tình trạng ồ ạt và không xác định được quy mô phù hợp với điều kiện đất nước ta.
- Cổ phần hoá không đồng nghĩa với tư nhân hoá các doanh nghiệp mà vẫn giữ được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh.
- Các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoáphải phát triển vượt bậc, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo và là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước.
- Công tác cổ phần hoá phải mềm dẻo, linh hoạt và phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của các uỷ ban hoặc cơ quan chuyên trách quốc gia.
- Đảng, Nhà nước cần có những chính sách, đường lối, chủ trương phù hợp trong khi chuyển đổi cơ chế kinh tế và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; đồng thời liên tục có điều chỉnh trong hệ thống pháp luật cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Cải cách chế độ sở hữu và cơ chế quản lý cần tiếp thu những kinh nghiệm của Trung Quốc tránh rập khuôn, tránh ồ ạt không hiệu quả như ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
- Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cẩn phải được sự ủng hộ và tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân - quần chúng nhân dân là yếu tố quyết định sự thành bại của công tác cổ phần hoá.
- Cần thường xuyên và chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động cổ phần hoá trong từng doanh nghiệp, tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn, không cụ thể và không đem lại hiệu quả thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trên đây là một số điểm cơ bản rút ra từ thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước Đông Âu, Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta cần tiếp thu những kinh nghiệm quý báu này đồng thời chủ động đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn cổ phần hoá của nước nhà trong thời gian tới để có những điều chỉnh cho phù hợp.
3. Điều kiện cần cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không phải được tiến hành trong thời gian ngắn mà lại là cả một quá trình lâu dài cho nên điểm khởi đầu của quá trình là hết sức quan trọng; một số điều kiện cần đề ra cho cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
- Một là: Phải có cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Cơ sở pháp lý đó là cụ thể hoá hình thức và phương pháp cổ phần hoá bằng hệ thống các chính sách, đường lối, chủ trương và pháp luật. Cần đưa cổ phần hoá thành những luật, những nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư …cụ thể, chặt chẽ để khi tiến hành không gặp phải những vướng mắc và khó khăn. Cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước là hệ thống các lý luận về tất yếu, biện pháp, công việc, kinh nghiệm của cổ phần hoá được trình bày như thế nào ? Đây là những chỉ dẫn, định hướng cụ thể cho công tác cổ phần hoá.
- Hai là: phải lập chương trình tiến hành cổ phần hoá bao gồm: các quá trình chuyển đổi sở hữu, phân loại tài sản và doanh nghiệp Nhà nước, cải cách cơ chế quản lý ngân hàng, trình tự kiểm kê và định rõ nguồn tài sản. Các chương trình này nhằm đáp ứng đòi hỏi trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước; cho nên việc soạn thảo chúng phải thống nhất tránh mâu thuẫn và phải được nghiên cứu cụ thể.
- Ba là: Phải có sự quan tâm của Chính phủ và phải có sự hiểu biết, ủng hộ của quần chúng nhân dân; đây là yếu tố quyết định nhất cho việc tiến hành cổ phần hoá. Bởi vì chỉ có Nhà nước lãnh đạo đúng đắn, nhân dân đồng tình ủng hộ thì việc tiến hành cổ phần hoá mới đạt kết quả cao cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
- Bốn là: phải có cả nguồn lực trong lẫn ngoài nước. Đây là yếu tố quan trọng cho công tác cổ phần hoá: bởi huy động vốn trong nước là nền tảng cho cổ phần hoá nhưng nguồn vốn nước ngoài lại là cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc huy động vốn trong và ngoài nước phải phù hợp lẫn nhau, tránh tình trạng mất cân bằng gây ra sự phụ thuộc về kinh tế - chính trị.
Nhận thức đầy đủ về điều kiện cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có tác dụng to lớn trong công tác thực thi có hiệu quả cao và đáp ứng được những chính sách, chiến lược đã đề ra trong công cuộc chuyển đổi cơ chế kinh tế, Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
II. Doanh nghiệp Nhà nước ở Viêt Nam và thực trạng cổ phần hoá.
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
11 Đặc điểm các doanh nghiệp Nhà nước của ta trước khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Các doanh nghiệp Nhà nước ở ta được hình thành từ những năm 1954 ( ở miền Bắc ) và 1975 ( ở miền Nam ). Do được hình thành sớm hơn so với điều kiện thực tế không cho phép của hoàn cảnh đất nước lúc bâý giờ: chiến tranh kéo dài, tỷ trọng Nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế, Công nghiệp và tiểu thủ Công nghiệp nhỏ bé; sự tích luỹ trong dân cư và ngân sách Nhà nước quá eo hẹp nên dẫn đến việc hình thành doanh nghiệp Nhà nước mang rõ nét những đặc điểm sau:
+ Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều có quy mô nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Theo báo cáo của bộ tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu năm 1992, cả nước có trên 2/3 số doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động dưới 200 người ( chiếm 4% so với doanh nghiệp có số lao động trên 100 người ); có khoảng 5-6% số lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước trên toàn bộ lao động xã hội. Do thực hiện chế độ bao cấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước nên đã không thúc đẩy được quá trình sản xuất, kinh doanh phát triển; gây ra tình trạng " lãi giả mà lỗ thật " nên quá trình quay vòng của đồng vốn không có hiệu quả, không tích luỹ được thêm vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Trong khi đó Nhà nước lại đề ra các chỉ tiêu kinh tế quá cao, không phù hợp được với khả năng của doanh nghiệp; thêm vào đó là cơ chế quản lý kém tập trung và đúng đắn, làm cho cơ cấu giữa các doanh nghiệp Nhà nước và trong từng bộ phận donah nghiệp bị phân tán không tạo nên khả năng phát triển đồng bộ, toàn diện và hợp lý cho các doanh nghiệp này.
+ Trình độ Khoa học - Kĩ thuật và Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp thường rất lạc hậu so với cùng thời kì ở các nước phát triển trên thế giới và ngay cả so với các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ngoài một số ít doanh nghiệp Nhà nước ( khoảng 18% ) được đầu tư sau năm 1986 thì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ rất lâu nên có trình độ Khoa học - Kĩ thuật và Công nghệ rất thấp. Các doanh nghiệp Nhà nước thời kì đầu đổi mới có trình độ khoa học - công nghệ và trang thiết bị lạc hậu so với các nước từ 30-40 năm; vẫn còn nhiều doanh nghiệp sử dụng kĩ thuật, máy móc từ những năm 30 hay trước đó. Việc hình thành các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được sự giúp đỡ của rất nhiều các nước xã hội chủ nghĩa nên phần lớn kĩ thuật và công nghệ có sự khác biệt lớn dẫn đến tính đồng bộ thấp. Do các doanh nghiệp Nhà nước đều nằm trong tình trạng xuống cấp trầm trọng như vậy thì việc thất bại trong cạnh tranh là tất yếu và nhất là khi chuyển sang kinh tế thị trường việc trụ vững của các doanh nghiệp Nhà nước ở thị trường nội địa và thế giới đã là rất khó rồi thì nói gì đến việc tăng trưởng và phát triển nhanh được.
+ Sự phân bố bất hợp lý giữa ngành và vùng kinh tế. Sự phân bố của các doanh nghiệp Nhà nước trong các ngành kinh tế còn chưa thực sự hợp lý: trong đó chỉ chú trọng đến thành lập và tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong các ngành chủ chốt ( như luyện kim, cơ khí, chế tạo, hoá chất vật liệu xây dựng...) nhưng lại ít chú ý đến lĩnh vực nông,lâm nghiệp, các ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ. Thêm vào đó là sự phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế," nơi thừa nơi thiếu ". Các doanh nghiệp Nhà nước phần lớn chỉ được tổ chức ở một số vùng kinh tế trọng điểm ( như Hà Nội,Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Thái Nguyên …)
dẫn đến sự chênh lệch về nguồn lực, vốn và thu nhập khá lớn giữa các vùng kinh tế với nhau: Nơi có nhiều khu công nghiệp phát triển thì đời sống dân cư và xã hội cao hơn nơi không có hoặc ít. Vì vậy, sự phân bổ hợp lý của các doanh nghiệp Nhà nước theo ngành và vùng kinh tế cũng nói nên phần nào hiệu quả của tổ chức và quản lý của Nhà nước.
Đặc điểm của sự hình thành các doanh nghiệp Nhà nước trong thời kì trước khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế được thể hiện ra bên ngoài nền kinh tế những nét sau:
+ Mức tăng trưởng hằng năm thấp, trong khi đó: tỉ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội cao gấp 1,5 lần, chi phí sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân,và mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cho một đơn vị tổng sản phẩm xã hội thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: mức tiêu hao vật chất so với thế giới đối với sản phẩm cơ khí bằng 1,3 -1,8 lần, phân đạm bằng 2,35 lần; kéo theo mức tiêu thụ năng lượng của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình thế giới: trong sản xuất giày gấp 1,26 lần, hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, phân đạm bằng 1,83 lần …
+ Các chỉ tiêu kinh tế do Nhà nước đặt ra cho doanh nghiệp Nhà nước phần lớn không đạt được: Một phần là chất lượng ssản phẩm rất thấp và không ổn định - chỉ có 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 65% để tiêu dùng trong nước và khoảng 20% còn lại là sản phẩm kém chất lượng. Chính vì vậy, thường gây nên hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động cuả toàn xã hội.Một phần là hệ số sinh lời trong khu vực kinh tế Nhà nước rất thấp: hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thông vận tải đạt 2%/năm, ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm.
+ Tình trạng lạm phát không có xu hướng giảm mà ngày càng gia tăng và giữ ở mức cao. Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước hết sức thấp: Nhà nước dành 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nhưng chúng chỉ tạo được từ 340-35% tổng sản phẩm xã hội; mặc dù, khu vực kinh tế Nhà nước sử dụng hầu hết lao động có trình độ cao và phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Số doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn: theo thống kê thì năm 1990 có 4584 đơn vị thua lỗ trên số 12084 cơ sở quốc doanh ( chiếm 30% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước ); các đơn vị thua lỗ này có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước và với 787300 lao động trong tổng số 2590000 lao động ( chiếm 32,9% số lao
động của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước ). Việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Nhà nước đã gây ra tổn thất to lớn cho ngân sách Nhà nước và thực sự là gánh nặng đối với ngân sách: gây ra bội chi ngân sách triền miên trong nhiều năm qua. Thêm vào đó, Nhà nước lại phải bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các doanh nghiệp Nhà nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 1985-1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mức 30%; tài sản, tiền vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phần lớn là không được bảo tồn và phát triển: hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới bảo toàn được ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp ( 72,52% ), lại là hai ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất ( 16,41% và 14,95% ). Ngoài ra, hiện tượng vòng vo trong nợ nần dẫn đến mất khả năng thanh toán; do quản lý tài chính của Nhà nước chậm được đổi mới và nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động…
Tuy nhiên, từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ( năm 1986), bộ mặt nền kinh tế ở nước ta đang dần thay đổi ngày càng tiến bộ và đang đạt được những kết quả bước đầu hết sức khích lệ.
12. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây:
+ Do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mô hình Chủ nghĩa xã hội được áp dụng không phù hợp, chiến tranh kéo dài … Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài: với chính sách cấp phát - giao nộp làm cho doanh nghiệp mất đi quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; cho nên khi chuyển sang kinh tế thị trường thì cả một khu vực kinh tế Nhà nước đồ sộ, cồng kềnh bộc lộ tất cả những yếu kém về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước; cơ cấu chắp vá,không đồng bộ và xơ cứng trong việc thích nghi cơ chế mới. Hơn nữa, ta lại áp dụng một cách máy móc mô hình xây dựng Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Đông Âu, trong khi đó nước ta lại có những đặc điểm hết sức khác biệt dẫn đến sự khập khiễng của nền kinh tế. Chiến tranh kéo dài cũng là một gánh nặng, sức cản lớn cho nền kinh tế: chiến tranh đã tàn phá nền kinh tế của ta kiệt quệ và đẩy nền kinh tế thụt lùi, không phát triển được. Chính vì lẽ đó, mà doanh nghiệp Nhà nước của ta hoạt động kém hiệu quả và không tạo động l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35022.doc