Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước

I.Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN đã bộc lộ nhiều hạn chế: +Hiệu quả kinh tế của DNNN giảm: Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX nhận định: hiệu quả của DNNN chưa cao (vấn đề công nợ, công nghệ, lao động dôi dư, tự chủ trong kinh doanh, trình độ quản lý, cơ cấu doanh nghiệp...). Nhiều DNNN có năng suất lao động thấp, chỉ đạt khoảng 38% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vòng quay vốn trung bình

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giai đoạn 1985-1991 chỉ đạt 60% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tại Hội nghị toàn quốc về đổi mới doanh nghiệp tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã chỉ rõ những yếu kém của khối DNNN là một thách thức lớn khi Việt Nam hội nhập quốc tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đạt 8.000 tỷ đồng trong tổng số 87.000 tỷ đồng nộp ngân sách nhà nước (chiếm tỉ lệ 9,19% ) trong khi đó tổng số nợ của khối này phải thu, phải trả lên tới khoảng 300.000 tỷ đồng. Sức cạnh tranh của DNNN rất yếu, Thủ tướng lấy ví dụ: chi phí vận chuyển công ten nơ từ khu công nghiệp Bình Dương đến cảng Vũng Tàu còn cao hơn từ Vũng Tàu đi Singapore. +Nhà nước giảm dần sự bảo hộ đối với DNNN: Hiện nay, các khoản nợ và việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau rất lớn, Nhà nước lại phải đứng ra lo trả nợ- mặc dù không thu về được vốn- để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của các DNNN, hơn nữa còn phải bảo hộ DNNN bằng chính sách kinh tế vĩ mô như: miễn giảm thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư, bù lỗ...Do đó nhiều DNNN đã trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, gây thiếu lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực này đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội như: tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, ỷ lại vào Nhà nước, thất nghiệp tăng... Mặt khác tỷ lệ lạm phát và nợ của Nhà nước ngày càng tăng, việc phát triển các nghành công nghiệp, phát triển sản xuất của các DNNN đều do Nhà nước hoặc lãnh đạo DNNN quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong nền kinh tế thị trường- đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, các nghành công nghiệp gặp khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác là hợp tác quốc tế. Nền kinh tế phải dao động giữa thời kỳ vững chãi của khu vực kinh tế Nhà nước và sự phát triển của khu vực phi Nhà nước, cũng như việc mở rộng thị trường. +Nhà nước giảm dần chức năng làm kinh tế: Nhà nước không thể hành chính hoá nền kinh tế, cũng như không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự quản lý của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, dù thị trường có hiệu quả đến đâu thì cũng không thể thả nổi hoàn toàn nền kinh tế cho quy luật tự điều chỉnh của thị trường. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách và việc thành lập các cơ quan quản lý kinh tế. Việc Nhà nước hạn chế can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và làm thay các DNNN dẫn đến hai thay đổi : Thứ nhất, tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan Nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho sự vận hành của thị trường – Thứ hai, tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước thị trường. Trước bối cảnh đó, vị trí, vai trò của các DNNN cũng cần thay đổi cho phù hợp. Đổi mới DNNN là vấn đề mang tính phổ biến của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Việc đổi mới DNNN được thực hiện bằng nhiều giải pháp: cổ phần hoá, giao, bán khoán, cho thuê, giải thể, phá sản..trong đó cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng bởi vì cổ phần hoá có ba ưu thế sau đây: Giúp DNNN có cơ chế huy động vốn nhằm thoát khỏi tình trạng yếu kém hiện nay trên cơ sở vẫn duy trì liên tục hoạt động sản xuất... cho phép Nhà nước kiểm soát được doanh nghiệp (nếu cần ). Giúp chuyển triệt để DNNN hiện tại sang hoạt động theo cơ chế thị trường trên cơ sở vừa xác định rõ chủ sở hữu vừa tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Tạo cơ chế, mô hình quản lý hiệu quả cho DNNN chuyển đổi. Thực tế hoạt động của đa số DNNN sau cổ phần hoá thời gian qua đã chứng thực rõ ràng cho những ưu điểm của cổ phần hoá: Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì trong 435 DNNN sau cổ phần hoá được hỏi thì có tới 92,72% số doanh nghiệp cho rằng tình hình của họ tốt hơn trước, chỉ có 4,85% đánh giá tình hình không thay đổi và 2,43% cho rằng kém hơn. Những thống kê định lượng của các cơ quan Chinh phủ cũng cho thấy điều đó.Theo báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp, tổng hợp trên 200 doanh nghiệp đã cổ phần hoá hơn 1 năm cho thấy : bình quân doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng hơn 100%, nộp ngân sách tăng 18%, lao động tăng 5%, thu nhập của người lao động tăng 22%. Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của Đảng. Tuy mấy năm trước diễn biến khá chậm chạp nhưng đến Hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành Trung ương khoá IX thì chủ trương cổ phần hoá DNNN đã được xúc tiến và đẩy mạnh. Thực tiễn cổ phần hoá đang bắt đầu sôi động, quá trình diễn ra không đơn giản, vừa thuận lợi vừa khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhận thức đúng đắn và chỉ đạo, điều hành thật sát sao. II.Nội dung của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: 1. Cổ phần hoá DNNN là gì? Cổ phần hoá DNNN là chuyển đổi DNNN từ một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước (tức toàn dân) thành doanh nghiệp đa sở hữu, theo đó tuỳ vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà Nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối hoặc không cần giữ vai trò chi phối nữa. 2. Mục đích của cổ phần hoá: Một câu hỏi lớn được đặt ra: ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, tại sao đã có DNNN rồi mà lại đem cổ phần hoá, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả? Nói cách khác, cần nắm vững mục đích của cổ phần hóa trong khi điều hành để khỏi chệch hướng của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. +Thứ nhất là tăng thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp: việc bán một phần tài sản doanh nghiệp hoặc gọi thêm vốn bằng hình thức bán cổ phần làm vốn tiền của doanh nghiệp tăng lên, giúp phát triển tài sản cố định và cả vốn lưu động, điều này càng cần thiết với những doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tiễn cổ phần hoá, vốn Nhà nước vẫn có thể tăng lên do định giá lại tài sản doanh nghiệp theo giá thị trường, tính đúng giá trị quyền sử dụng đất... +Thứ hai là tạo nên động lực trực tiếp cho sản xuất kinh doanh: chủ sở hữu cụ thể là các cổ đông, lợi ích cụ thể là lợi tức cổ phần- động cơ trực tiếp thôi thúc các cổ đông mà tiêu biểu là Hội đồng quản trị quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả. +Thứ ba là phát triển sản xuất, dịch vụ, tăng trưởng kinh tế hơn: hệ số ICOR (so sánh mức tăng đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế ) tốt hơn trước. +Thứ tư là mở rộng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động: nếu cổ phần hoá mà lại dãn việc làm hoặc giảm thu nhập của người lao động, trong khi chỉ nhằm một mực tăng lợi tức cổ phần, thì như thế là bước tụt lùi của doanh nghiệp, là phản lại chủ trương cổ phần hoá, tiềm ẩn mất ổn định chính trị xã hội. +Thứ năm là củng cố vị trí, vai trò của DNNN- bộ phận rường cột của kinh tế Nhà nước- nhờ hiệu quả ngày càng cao của nó và lực lượng vật chất, tài chính to lớn do Nhà nước chi phối được. Đây là mục đích bao trùm và cũng là hệ quả tất yếu của các mục đích trên. Nếu bán, khoán, cho thuê, giải thể hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa thì không thuộc phạm trù “cổ phần hoá DNNN” của ta. Một nguyên tắc quyết định để thể hiện đúng bản chất cổ phần hoá DNNN của ta, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa là: Nhà nước vẫn chiếm lĩnh những vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân. Nghĩa là trong khi thực thi chủ trương phải biết phân định rõ đâu là những ngành then chốt, theo đó Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc không tiến hành cổ phần hoá (tuy rằng vẫn phải sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiêu quả hoạt động ). Cả 5 mục đích có liên quan mật thiết và tác động qua lại với nhau, trong đó mục đích thứ tư và thứ năm là biểu hiện đặc trưng nhất cho bản chất cổ phần hoá của ta. Rõ ràng có sự khác nhau về bản chất giữa cổ phần hoá của các nước tư bản và cổ phần hoá của nước ta. Cổ phần hoá trong các xã hội tư bản hiện nay là một thủ đoạn mị dân, làm như thể chủ nghĩa tư bản đã biến đổi về chất thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân “ nhằm xoa dịu mâu thuẫn khi những người lao động chỉ chiếm giữ một tỷ lệ cổ phần rất nhỏ bé. Còn cổ phần hoá trong xã hội ta lại nhằm mục đích tăng thêm việc làm và cải thiện đời sống của người lao động, tăng thêm thực lực và hiệu quả của kinh tế Nhà nước, mà Nhà nước này là của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. 3. Mục tiêu của cổ phần hoá (theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 của Chính phủ) : Góp phần quan trọng nâng cao hiệu qủa, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp . Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. 4. Đối tượng và điều kiện cổ phần hoá (theo Nghị định số187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần): + Công ty nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thực hiện cổ phần hoá, bao gồm: các tổng công ty nhà nước (kể cả ngân hàng thương mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước); công ty nhà nước độc lập; công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước (dưới đây gọi tắt là doanh nghiệp cổ phần hoá).Danh mục công ty nhà nước thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kỳ. +Các công ty nhà nước quy định trên đây được tiến hành cổ phần hoá khi còn vốn nhà nước (chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản không cần dùng, tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hoá. +Việc cổ phần hoá đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước thuộc đối tượng quy định trên đây chỉ được tiến hành khi: a) Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán độc lập. b) Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. 5. Hình thức cổ phần hoá công ty nhà nước: a. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được phản ảnh trong phương án cổ phần hoá. b. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. c. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. 6.Quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần: + Bước 1: Ra quyết định thực hiện cổ phần hoá và thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. + Bước 2: Tuyên truyền chủ trương chính sách cổ phần hóa. + Bước 3: Chuẩn bị hồ sơ tài liệu + Bước 4: Kiểm kê, xử lý những vấn đề về tài chính. + Bước 5: Xác định giá trị doanh nghiệp: Theo thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/09/2002 của Bộ Tài chính, có 2 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hoá : * Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước theo tài sản : là phương pháp xác định giá trị của 1 doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình của doanh nghiệp tại thời điểm định giá. * Phương pháp dòng tiền chiết khấu( DCF): là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. + Bước 6: Xây dựng phương án bán cổ phần ưu đãi và sắp xếp lại lao động. + Bước 7: Lập phương án cổ phần hoá doanh nghiệp và dự thảo điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần . + Bước 8: Thẩm định và phê duyệt phướng án cổ phần hoá. + Bước 9: Thực hiện phương án cổ phần hoá. + Bước 10: Ra mắt công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh. 7. Tác dụng của cổ phần hoá : Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước làm thay đổi căn bản trên ba mặt đối với doanh nghiệp Nhà nước. +Thứ nhất: chuyển hoá từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. +Thứ hai: thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp. Với cơ cấu tổ chức mới, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ +Thứ ba: thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao. 8.Người lao động được hưởng các lợi ích gì từ cổ phần hoá DNNN: Cổ phần hoá DNNN tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động: +Người lao động được ưu tiên mua cổ phần của doanh nghiệp được cổ phần hoá với giá ưu đãi, được tiếp tục tham gia và hưởng quyền về bảo hiểm xã hội và được cấp sổ bảo hiểm xã hội nếu là lao động mới. Người lao động được đào tạo lại nghề nếu cần thiết để tiếp tục làm việc ở công ty cổ phần. Người lao động nghèo được hưởng các ưu đãi khi mua cổ phần như mua chịu, mua với giá ưu đãi... +Những người lao động dôi dư do cổ phần hoá được hưởng các chính sách hỗ trợ đối với lao động dôi dư theo quy định của Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ. III.Tình hình cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam: Ngay từ đầu thập niên 90, cùng với việc đổi mới cơ chế chính sách kinh tế-xã hội, Đảng ta đã sớm có chủ trương chuyển đổi sở hữu một số DNNN nhằm huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện để những người góp vốn, nhất là CBCNV trong doanh nghiệp có cổ phần nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Để thực hiện thành công chủ trương trên, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Quyết định nhằm tạo một hành lang pháp lý, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN tại Việt Nam. 1.Giai đoạn thí điểm ( 1992- 5/1996): Ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Theo quyết định này, có 7 doanh nghiệp được chọn tổ chức triển khai thí điểm nhưng đã xin rút khỏi danh sách. Rút kinh nghiệm, sau đó chọn doanh nghiệp tự nguyện, có đủ điều kiện nhằm đẩy nhanh công tác thí điểm cổ phần hoá, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày 4/8/1993 về xúc tiến thực hiện cổ phần hoá DNNN. Kết quả đã có 5 DNNN thuộc 2 bộ, 2 địa phương và 1 Tổng công ty chuyển thành Công ty cổ phần. Tổng vốn điều lệ tại thời điểm cổ phần hoá là 38,393 tỷ đồng. Nhìn chung các DNNN tiến hành cổ phần hoá trong giai đoạn này thuộc diện vừa và nhỏ, vốn ít (dưới 10 tỷ đồng), phần lớn mang tính dịch vụ, kinh doanh hiệu quả và không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, tập thể CBCNV tự nguyện tham gia thí điểm cổ phần hoá. Tuy nhiên, do còn nhiều vướng mắc nên cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế từ việc chọn doanh nghiệp đến xác định giá trị doanh nghiệp, trách nhiệm quyền hạn của các Bộ, ngành, địa phương. 2. Giai đoạn mở rộng thí điểm ( từ cuối năm 1996 đến 6/1998): Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm, ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP. Nghị định này ra đời đã tạo điều kiện thúc đẩy cổ phần hoá. Đối tượng, mục tiêu cổ phần hoá, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi doanh nghiệp và người lao động được quyết định cụ thể hơn. Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện đã có 25 DNNN thuộc 2 bộ, 11 địa phương và 2 Tổng công ty 91 tiến hành cổ phần hoá thành công với tổng số vốn điều lệ tại thời điểm cổ phần hoá là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 doanh nghiệp trên 10 tỷ đồng ( chiếm 20,8%). Tuy nhiên kết quả này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới doanh nghiệp, cần phải có Nghị định mới thay thế cho phù hợp. 3.Giai đoạn triển khai ( từ 7/1998 đến nay): Chương trình cổ phần hoá chỉ thực sự có chuyển biến rõ rệt và thu được những kết quả đáng khích lệ từ khi có Nghị định 44/NĐ-CP ngày 29/06/1998, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNN thực hiện cổ phần hoá. Bởi ngoài kế thừa nhiều mặt tích cực của Nghị định 28/CP, Nghị định này có nhiều bổ sung, sửa đổi và phát triển thêm nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Theo đó, Chính phủ quy định rõ ràng hơn danh mục các loại hình doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần chi phối ,cổ phần đặc biệt và các DNNN khác được chuyển đổi sở hữu. Đồng thời, các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng rõ ràng và chi tiết hơn. Ngoài ra, Chính phủ còn tiến hành phân cấp cụ thể và mạnh mẽ đối với các cấp quản lý trong quá trình triển khai thực hiện cổ phần hoá. Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện Nghị định 44/NĐ-CP, giao và tạo quyền chủ động cho các ngành, địa phương và các Tổng công ty 91 lựa chọn, tổ chức triển khai thực hiện quy trình, kế hoạch cổ phần hoá. Phương pháp định giá doanh nghiệp được xây dựng có tính khả thi cao. Việc mua cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi hơn trước ( giảm giá 30%), đặc biệt người lao động nghèo trong doanh nghiệp được vay trong 10 năm không phải trả lãi suất, tạo điều kiện cho người lao động sở hữu cổ phần sau khi trả lãi tiền vay có thể tự do chuyển nhượng, thừa kế. Công tác hướng dẫn, phổ biến, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá được chú trọng và triển khai tích cực hơn. Chính phủ đã tổ chức 2 Hội nghị tập huấn trên 1.100 cán bộ chủ chốt của các Bộ, địa phương, Tổng công ty 91. Tiếp đó, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương ( nay là Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp) đã phối hợp với một số cơ quan hữu quan có sự hợp tác của một số tổ chức quốc tế ( WB, IFC, AUSAID...) mở lớp tập huấn về Nghị định 44/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn cho 800 cán bộ các Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp của các Bộ, tỉnh và các doanh nghiệp ở Hà Nội,Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng... Do có cơ chế thông thoáng và sự chỉ đạo điều hành tập trung của Chính phủ cũng như của các cấp có thẩm quyền đã kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, sau hơn 3 năm thực hiện, tiến trình cổ phần hoá đã có bước nhảy vọt với 742 doanh nghiệp và bộ phận DNNN hoạt động hầu hết các lĩnh vực kinh tế chuyển thành công ty cổ phần- trong đó,110 doanh nghiệp có số vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Như vậy sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá, tính đến hết năm 2001, trên toàn quốc đã có 772 doanh nghiệp và bộ phận DNNN (bằng 13% tổng số DNNN hiện có) của 10/13 Bộ, 54/61 địa phương và 12/17 Tổng công ty 91 hoàn thành chương trình cổ phần hoá. Tổng số vốn Nhà nước được đánh giá lại khi cổ phần hoá là gần 3.000 tỷ đồng (tăng từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách ). Qua cổ phần hoá đã huy động gần 3.000 tỷ đồng vốn ngoài xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời sự thay đổi phưong thức quản lý đã tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả cao hơn. Vai trò làm chủ thật sự của người lao đông với tư cách là cổ đông trong Công ty cổ phần bước đầu được khơi dậy và phát huy, thể hiện rõ ở tinh thần hăng say tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh được nâng lên. Theo báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm, các chỉ tiêu kinh tế của hầu hết các doanh nghiệp đều có mức tăng trưởng cao. Trong đó, doanh thu bình quân tăng 1,4 lần , lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng lao động tăng 5,1%. Điều đáng chú ý là tất cả các DNNN cổ phần hoá trong thời gian qua chưa có doanh nghiệp nào phải đưa người lao động ra khỏi doanh nghiệp trừ những trường hợp tự nguyện. Đồng thời thu nhập của người lao động cũng cao hơn trước khi cổ phần hoá. Tuy vậy, do phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá thuộc diện vừa và nhỏ, vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng là phổ biến nên mục tiêu huy động vốn và cơ cấu lại các nguồn vốn Nhà nước qua cổ phần hoá còn hạn chế. IV.Những vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam: Mặc dù cả về nhận thức và thực tiễn cổ phần hoá được thừa nhận là tốt nhưng tốc độ quá chậm so với mục tiêu đặt ra, chưa có thời kỳ nào kết quả cổ phần hoá đạt kế hoạch. Ví dụ năm 2003 dự kiến cổ phần hoá 986 DNNN nhưng thực tế chỉ đạt 156 doanh nghiệp, bằng 15,82% kế hoạch. Vậy nguyên nhân của sự chậm trễ này là gì? 1.Về mặt tư tưởng: tâm lý lẩn tránh cổ phần hoá trong cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý DNNN và người lao động. Trước đây, cổ phần hoá dựa trên tinh thần tự nguyện của doanh nghiệp và cơ quan chủ quản nên rất chậm trễ.Sau Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) và Nghị quyết Trung ương 9 ( khóa IX) thì lí do để lẩn tránh cổ phần hoá ít nhiều bị gạt bỏ song thực tâm cán bộ và người lao động vẫn chưa tích cực. Nguyên nhân là còn có một bộ phận cán bộ, công chức, người lao động chưa hiểu thấu đáo thực chất và lợi ích của cổ phần hoá, chưa phân biệt rõ giữa cổ phần hoá với tư nhân hoá.Nhất là khi cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp thành viên các Tổng công ty thì có tâm lý lo ngại bị giảm doanh thu, vốn, tài sản, lợi nhuận, giảm quy mô và xếp hạng của công ty, Tổng công ty không còn đơn vị để trực tiếp quản lý. Người lao động thì lo sợ công việc và thu nhập sẽ không được đảm bảo khi mất đi sự bảo hộ của Nhà nước. Tư tưởng dựa vào Nhà nước khiến họ ngại có sự thay đổi và xáo trộn trong công việc. 2. Về khuôn khổ pháp lý: từ môi trường pháp lý chung cho các doanh nghiệp hoạt động đến cơ sở pháp lý cho cổ phần hoá còn nhiều bất cập, không đồng bộ: Từ năm 1992 đến 5/1996 hình thức văn bản cao nhất mới là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mãi đến 7/5/1996, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 28/CP về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Một số chính sách mới còn ít nhiều mâu thuẫn với các văn bản pháp lý đã có sẵn ( ví dụ: Nghị định 64/CP quy định không giới hạn mức mua cổ phiếu của cổ đông thì mâu thuẫn với Pháp lệnh chống tham nhũng...) hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể cho phép cán bộ có thể thực thi ( ví dụ trong lĩnh vực xử lý tài chính doanh nghiệp: chính sách cổ phần hoá cho phép doanh nghiệp thoả thuận khoanh, giãn, giảm, xoá nợ với ngân hàng thương mại nhưng ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp, những khoản mục đó hạch toán vào đâu thì chưa được hướng dẫn). Trên thực tế nếu Chính phủ và các Bộ đưa ra những cách thức, chính sách cụ thể giải quyết từng vấn đề cho DNNN cổ phần hoá thì có xu hướng cứng nhắc, không sát thực tế và không đủ vì mỗi doanh nghiệp có một hệ thống các vấn đề riêng. 3. Về tổ chức cổ phần hoá: tuy Đảng và Nhà nước rất quan tâm và lo lắng về cổ phần hoá nhưng vướng mắc trong công tác chỉ đạo khiến quá trình triển khai trong thực tế còn chậm trễ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn, tổ chức triển khai và quyết định cổ phần hoá. Để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, Nhà nước chủ động quyết định chỉ tiêu DNNN triển khai cổ phần hoá. Các Bộ trưởng, các Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố được phân công lựa chọn và tổ chức thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp trong phạm vi quản lý và phạm vi trách nhiệm của mình. Nhưng thời gian qua, các cấp chính quyền chưa sử dụng đúng thẩm quyền đại diện chủ sở hữu của mình, chưa tích cực chủ động lựa chọn và giao nhiệm vụ cổ phần hoá cho các DNNN như một chỉ tiêu pháp lệnh. Một số nơi chính quyền còn khoán trắng cho Ban chỉ đạo, thậm chí còn chậm thành lập Ban chỉ đạo. Ban chỉ đạo cổ phần hoá các cấp thực chất chỉ là cơ quan tư vấn cho chính quyền trong việc lập chương trình, lựa chọn, đôn đốc kiểm tra quá trình cổ phần hoá, không có thẩm quyền quyết định các vấn đề cụ thể. Thành phần của Ban chủ yếu là kiêm nhiệm. Nhiệm vụ, chức năng, mối quan hệ giữa Ban với các nghành, các cấp chưa được xác định cụ thể. Tóm lại hiệu lực của Ban này đối với tiến trình cổ phần hoá còn rất hạn chế. Thực tế chứng minh rằng, nơi nào cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị thực sự quan tâm, đề cao trách nhiệm thì nơi đó triển khai cổ phần hoá DNNN tương đối tốt. Ngược lại nơi nào cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị chưa thực sự quan tâm thì đơn vị đó triển khai chậm, thậm chí không tiến triển được. 4. Về cơ chế, chính sách: chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phong phú và đa dạng của quá trình cổ phần hoá. - Về đối tượng mua cổ phần: chủ yếu mới là những người lao động trong doanh nghiệp, các đối tượng mua cổ phần ngoài doanh nghiệp còn thấp nên chưa huy động tối ưu vốn nhàn rỗi của xã hội. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã có nhiều dự án đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp của nước ngoài ,nhưng trong nhiều năm ta chưa có quy chế bán cổ phần cho người nước ngoài để tạo khuôn khổ pháp lý cho họ được trực tiếp đầu tư vào công ty cổ phần. Do đó hạn chế huy động vốn công nghệ và năng lực quản lý của họ, nhất là những nhà đầu tư chiến lược. -Vấn đề hạn chế quyền mua cổ phần: Trước năm 2002, Nhà nước khống chế quyền mua của mỗi cá nhân không quá 5%, mỗi pháp nhân không quá 10% tổng số cổ phần phát hành.Điều này chỉ phù hợp với lĩnh vực Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối hay có lượng người muốn mua cổ phần là lớn. Nhưng với lĩnh vực Nhà nước không giữ cổ phần chi phối thậm chí là không cần nắm cổ phần, hoặc tại các doanh nghiệp kém lợi thế, số người muốn mua cổ phiếu không nhiều thì sẽ kìm hãm cổ phần hoá, hạn chế việc huy động vốn. Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã mở rộng và bỏ quy định giới hạn mua cổ phần lần đầu, cho phép chủ nợ của doanh nghiệp chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, người lao động được mua cổ phần với giá ưu đãi trong một thời gian nhất định, quy định việc bán cổ phần cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp đặc biệt là ưu tiên cho nhà đầu tư có tiềm năng vốn,công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý..Điều này đã tạo thuận lợi cho tiến trình cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn mới. -Vướng mắc nhất là khâu định giá doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá: Theo cơ chế thị trường, việc định giá là quá trình cùng trao đổi, thoả thuận giữa người mua, người bán( bên bán là Nhà nước- đại diện là các cấp được uỷ quyền, bên mua là xã hội công dân với nhiều chủ thể đa dạng như cá nhân, pháp nhân, tổ chức đoàn thể... trong và ngoài nước) dựa trên cơ sở giá thị trường chịu tác động của cung cầu- cạnh tranh. Như vậy lẽ ra phải có quy chế để bên mua, bên bán đàm phán về giá để đi đến thoả thuận chứ không thể để người mua quy định trước, người bán quy định sau như các năm qua. Do chưa chú ý đúng mức đến quyền lợi của người mua nên có trường hợp Nhà nước công bố giá nhưng không bán được cổ phần, quá trình cổ phần hoá bế tắc hoặc phải kéo dài quá trình định giá ... Cơ chế định giá theo Nghị định 28/CP, 44/CP, 64/CP đều chưa thể hiện tính cạnh tranh và cung cầu do người mua chưa được cạnh tranh với nhau, sự định giá dựa nhiều vào giá trị sổ sách (đã quá lạc hậu) hay ý kiến chủ quan của các chuyên gia.. Thị trường chứng khoán chưa phát triển nên các tổ chức dịch vụ thị trường tài chính cũng còn yếu kém.Trước mắt có thể mời thầu các cổ đông chiến lược vì đâymới là yếu tố hiệu quả và đổi mới của công ty cổ phần sau này.Sau đó căn cứ vào giá thầu có tham chiếu làm giá tính toán để quyết định giá trị doanh nghiệp.Cách làm này có thể làm một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá giá tăng cao, hoặc nhiều doanh nghiệp không bán được vì quá yếu kém, hoặc nảy sinh tiêu cực khi những người liên quan tới định giá và cổ phần hoá doanh nghiệp cấu kết với cổ đông chiến lược để dìm giá bán doanh nghiệp... Vấn đề quyền sử dụng đất cũng gây tranh cãi trong định giá DNNN. Nhiều kiến nghị đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp nhưng thực tế không khả thi trong điều kiện Viêt Nam hiện nay.Một mặt giá trị quyền sử dụng đất là khá lớn (theo thời giá hiện tại) nên nếu tính ngay vào giá trị doanh nghiệp thì sẽ đội giá trị DNNN lên rất lớn, khó bán cổ phiếu trong khi chúng ta cần cổ phần hoá nhanh. Hơn nữa thị trường bất động sản Việt Nam còn sơ khai, chưa thể có giá thị trường cho quyền sử dụng của nhiều loại đât đai khác nhau. Phương thức tạm thời dùng bảng khung giá đất của Nhà nước tỏ ra không đủ sức thích ứng với sự biến đổi của thị trường bất động sản. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn phiền hà, phân qua 3 giai đoạn: Hội đồng thẩm định của doanh nghiệp, Kiểm toán, Hội đồng thẩm định của Nhà nước, sau đó cơ quan thẩm quyền mới công bố giá trị. Giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá phải là giá trị thực tế mà người mua, người bán cùng chấp thuận nhưng tổ chức kiểm toán chủ yếu chỉ dựa vào chứng từ, sổ kế toán để xác định. Do đó hầu như các kết quả kiểm toán không sử dụng được vào việc công bố giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Điều này vừa làm chậm quá trình cổ phần hoá vừa làm tăng chi phí của doanh nghiệp. Việc xác định giá trị lợi thế của doanh nghiệp là cần thiết để đảm bảo công bằng về giá nhưng về phương pháp tính còn hạn chế: + Khi xác định tỉ suất lợi nhuận của 3 năm liền kề thời điểm cổ phần hoá thì dựa trên vốn Nhà nước hiện hành. Nhưng khi xác định lợi thế thì lại dựa trên số vốn Nhà nước đã được đánh giá lại. Sự không thống nhất này làm thiệt hại cho người mua cổ phần nếu như sau khi được đánh giá lại vốn Nhà nước tăng lên hay làm thiệt hại cho Nhà nước trong trường hợp ngược lại. + Lợi thế được căn cứ vào kết quả kinh doanh thực tế của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0857.doc
Tài liệu liên quan