Lời nói đầu
Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta .
Nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đến nay không ngừng phát triển, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đã đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nền kinh tế Nhà nước - mà điển hình là các doanh
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp Nhà nước hiện nay đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả chiếm tỷ trọng lớn, trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung đối với doanh nghiệp Nhà nước nói riêng nhìn chung còn có nhiều yếu kém . Trước tình hình đó việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thay đổi hình thức sở hữu đang là vấn đề bức thiết cần được giải quyết .
Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết; bởi vì cổ phần hoá khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá thì mọi thành viên có ý thức quản lý doanh nghiệp của mình. Thách thức lớn nhất của mỗi một nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng đó là về vấn đề vốn . Cổ phần hoá huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đaàu tư phát triển doanh nghiệp. Ngoài ra, cổ phần hoá còn tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ quản lý doanh nghiệp có năng lực và vì mục đích doanh nghiệp. Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là đề tài lớn cần được giải quyết vì vậy em chọn đề tài này vì hy vọng bài viết của em sẽ ít nhiều phản ánh được những vấn đề cần đặt ra cho công cuộc cổ phần hoá .
Do kiến thức và thời gian có hạn nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu sót vì vậy em rất mong được sự giúp đỡ của thầy để bài viết lần sau được tốt hơn .
Nội dung
I. Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sự lựa chọn tất yếu .
1.1. Cổ phần hoá .
1.1.1. Thực chất cổ phần hoá .
Cổ phần hoá là cả một quá trình bốn vấn đề chính :
- Về sở hữu : cổ phần hoá nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu . Đây là vấn đề cốt lõi nhất của cổ phần hoá bởi vì chỉ có thể đa dạng hoá quyền sở hữu mới thúc đẩy doanh nghiệp phát triển .
- Về hoạt động cổ phần hoá nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải tuân theo mệnh lệnh hành chính cắt giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động doanh nghiệp .
Sau khi cổ phần hoá mọi doanh nghiệp đều do ban quản trị doanh nghiệp quyết định . Mỗi một doanh nghiệp đề ra phương thức hoạt động cho doanh nghiệp mình nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển .
- Về quản lý : cổ phần hoá phải là luật pháp hoá tổ chức quản lý luật công ty đã ban hành và các luật khác . Doanh nghiệp đề ra phương thức hoạt động cho doanh nghiệp mình không có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động ngoài vòng pháp luật mà ngược lại doanh nghiệp càng bị kiểm soát chặt chẽ . Ngoài những qui định trong nội bộ doanh nghiệp thì doanh nghiệp còn bị kiểm soát bởi các luật do Nhà nước ban hành nhằm điều khiển hoạt động doanh nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
-Về hiệu quả : Cổ phần hoá nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Đây là mục đích của nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng . Ba vấn đề đầu sẽ là tiền đề cho vấn đề thứ tư là mục tiêu số một - là mục tiêu cuối cùng của giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước .
* Các hình thức cổ phần hoá :
Hình thức cổ phần hoá có thể khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp .
- Bán cổ phần cho công chúng : Đó là việc Nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp cho công chúng . Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian . Cũng có khi việc bán cổ phần cho công chúng được thực hiện cùng với các biện pháp khác như bán một phần nhất định cổ phần cho một số nhà đầu tư được định trước .
Việc bán cổ phần cho công chúng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn , đã có các thông tin quản lý để thông báo công khai trên thị trường chứng khoán , có cơ chế tổ chức để thu hút các nguồn đầu tư trong xã hội .
Thông qua việc bán cổ phần cho công chúng cho phép các tầng lớp dân cư rộng rãi có thể mua được cổ phần và phù hợp với mong muốn của chính phủ khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hoá cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước . Mặt khác , biện pháp này làm giảm sự tập trung tài sản kinh tế của các nhóm tư nhân , mở rộng quy mô và chiều sâu của thị trường chứng khoán .
- Bán cổ phần cho tư nhân :
Hình thức này có nghĩa là Nhà nước bán một phần hay toàn bộ số cổ phần của doanh nghiệp thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của Nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua đã được xác định trước .
Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi và rất phổ biến vì :
+ Tính linh hoạt của nó trong những điều kiện cụ thể .
+ Tính đơn giản về các yêu cầu pháp lý khi chuyển nhượng .
+ Tốc độ triển khai thực hiện nó nhanh .
Hình thức này thường được ưu tiên sử dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động yếu kém hay những doanh nghiệp Nhà nước cần những người chủ đủ mạnh và có kinh nghiệm hay những doanh nghiệp có quy mô không đáng kể để có thể bán rộng rãi cho công chúng .
Việc bán cổ phần cho tư nhân cũng có những hạn chế và thường bị chỉ trích vì một bộ phận dân cư sẽ có khả năng mua và ngày càng tập trung quyền lực về kinh tế , chính trị gây ra những phân hoá xã hội sâu sắc .
- Bán cổ phần cho những người quản lý và người lao động :
Hình thức này thường được lựa chọn để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ . Phương pháp này cũng tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động , đồng thời cũng là cách giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể .
Trở ngại lớn nhất đối với việc áp dụng hình thức này là thiếu nguồn tài chính và tín dụng bảo đảm việc chuyển giao doang nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động .
1.2. Mục đích cổ phần hoá .
* Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân , tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ tạo thêm việc việc làm phát triển doanh nghiệp , nâng cao sức cạnh tranh , thay đổi cơ cấu doanh nghiệp .
Tiềm năng về vốn tích luỹ trong dân cư rất lớn nhưng khả năng huy động vào trong các hình thức cổ phần còn rất hạn chế .
Hình thức thu hút vốn có tính đặc thù với các doanh nghiệp được cổ phần hoá là việc bán cổ phiếu cho các tổ chức doanh nghiệp Nhà nước khác. Hình thức này về cơ bản không thay đổi cơ cấu sở hữu Nhà nước trong nghiệp, nhưng nó lại thực hiện những thay đổi quan trọng khác . Cụ thể là :
- Nó góp phần "thương mại hoá" toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp và thực hiện sự quản lý của người đại diện sở hữu là hội đồng quản trị nhằm tạo lập dần những điều kiện cần thiết để chuyển thành công ty cổ phần .
- Tạo ra một hình thức chu chuyển và điều chỉnh các nguồn vốn trong doanh nghiệp do được " thương mại hoá " nhằm cơ cấu lại và sử dụng hợp lý các nguồn lực vốn phù hợp với cơ chế thị trường .
- Hình thức thu hút vốn ban đầu này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước và các công ty tài chính quốc doanh làm quen và thích ứng với cơ chế đầu tư bằng cổ phiếu vào các công ty cổ phần sẽ được hình thành . Cũng như góp phần tạo ra những tiền đề để tạo lập từng bước thị trường chứng khoán .
* Tạo điều kiện để người lao động trong các doanh nghiệp có cổ phần hoá người có đóng góp làm chủ thực sự , sự thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả , tăng tài sản Nhà nước , nâng cao thu nhập người lao động .
Chúng ta đã phải trải qua một thời kì tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực " Làm chủ tập thể đã biến thành vô chủ " . Ngoài ra , người lao động đã giác ngộ được rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa , chỉ là hình thức .
Chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quản trị thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự không bị một sự o ép nào . Nhưng lúc đó lại xuất hiện một vấn đề khác : Quyền làm chủ của mỗi người không giống nhau , người giàu ( mua nhiều cổ phiếu hơn ) thì có quyền sở hữu hơn người nghèo ( mua ít cổ phiếu ) .
Nếu theo quan niệm cũ thì đây là một điều không thể chấp nhận được, là sự không công bằng , là sự phi xã hội chủ nghĩa . Thực ra dưới chế độ ta cũng chưa thể có sự công bằng tuyệt đối . Nhà nước ta chỉ có thể và cần phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trước nhưng đồng thời có biện pháp để hạn chế người nghèo , thu hẹp khoảng cách giữa giàu và nghèo , chỉ có cách đó người dân mới giàu có lên được .
* Những mục tiêu khác :
+ Xoá bỏ độc quyền : Nhà nước quy định chọn một số doanh nghiệp Nhà nước buộc những doanh nghiệp này phải phát huy cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với khu vực kinh tế tư nhân và do đó thu hút được các nhà đầu tư tư nhân vào các ngành , các lĩnh vực kinh tế .
Nhà nước tập trung vào những ngành then chốt mũi nhọn đòi hỏi có hàm lượng vốn , khoa học - kĩ thuật cao để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường quốc tế . Cũng như tập trung vào chức năng ổn định kinh tế vĩ mô .
+ Thực hiện một số phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp , tạo sự ổn định về mặt xã hội trong giai đoạn nền kinh tế thị trường bị trì trệ .
+ Giảm các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng do phải bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước .
+ Tạo dựng và phát hiện một thị trường tài chính gồm thị trường tư bản , thị trường chứng khoán , thị trường tiền tệ hoàn chỉnh trong nước .
+ Tạo hệ thống kinh tế thị trường và tăng khu vực kinh tế tư nhân để dân chủ hoá hoạt động kinh tế và tạo ra mối tương quan hợp lý của các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường .
+ Thu hút các nhà đầu tư ngoài nước để đổi mới kĩ thuật và học tập quản lý , tạo ra một nền kinh tế thị trường mở cửa để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp , nâng cao chất lượng các hàng hoá và dịch vụ trong nước .
13. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sự lựa chọn tất yếu .
131. Cổ phần hoá đáp ứng được nhu cầu bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong việc giải quyết một số vấn đề gay cấn
- Cổ phần hoá khắc phục được tình trạng buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp , xoá bỏtình trạng vô chủ của doanh nghiệp ; mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp đạt kết quả nhất định nhưng mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước . Còn về nhận thức thì tài sản của doanh nghiệp Nhà nước vẫn là tài sản chung cho nên tình trạng vô trách nhiệm lãng phí của công vẫn chưa được khắc phục .
Khi doanh nghiệp Nhà nước trở thành công ty cổ phần thì điều kiện này không còn tồn tại vì mỗi một cổ đông đều có tài sản trong doanh nghiệp nên họ rất quan tâm và có ý thức để quản lý tài sản của doanh nghiệp trong đó có tài sản của chính họ .
- Huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp . Một phần tháo gỡ được khó khăn
cho ngân sách Nhà nước không phải chu cấp cho doanh nghiệp ; mặt khác vốn tài sản của doanh nghiệp Nhà nước nhờ cổ phần hoá thu hồi lại sẽ được đầu tư mở rộng sản xuất , tăng thêm tài sản cố định góp phần tăng trưởng kinh tế .
- Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp :
ở công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh ; vì thế họ rất đoàn kết gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh nghhiệp nhằm củng cố tăng cường cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra , quan tâm đến công việc của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao .
1.3.2 . Trong nền kinh tế thị trường thì cổ phần hoá là tất yếu và xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra như là một quy luật :
- Xu hướng cổ phần hoá đối với doanhnghiệp ngoài quốc doanh . Các doanh nghiệp nhỏ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và không đủ điều kiện để cạnh tranh . Nếu không muốn bị phá sản thì phải góp vốn ( cổ phần ) lại với nhau để tạo ra một doanh nghiệp lớn hơn ( công ty cổ phần ) có sức cạnh tranh lớn hơn . Bởi vì , doanh nghiệp lớn thường có lợi thế hơn doanh nghiệp nhỏ trong việc nâng cao năng suất lao động hạ giá thành , đổi mới quy trình công nghệ để cuối cùng hoặc là có giá bán rẻ hơn hoặc tuy giá không rẻ hơn nhưng chất lượng mẫu mã tốt hơn , tiêu thụ nhanh và nhiều hơn đối với một sản phẩm cùng loại .
Đối với các doanh nghiệp lớn : Nếu không muốn phá sản cũng phải hoặc là đầu tư vốn của mình vào nhiều doanh nghiệp khác bằng cách mua cổ phiếu các công ty cổ phần cho nhiều doanh nghiệp hoặc là phân tán sự rủi ro cho nhiều người khác bằng cách bán cổ phần cho nhiều doanh nghiệp . Thực chất cách làm này là phân chia sự rủi ro cho nhiều doanh nghiệp để hưởng lợi nhuận bình quân , ổn định về toàn bộ vốn đầu tư .
Như vậy , việc thành lập công ty cổ phần trong trường hợp này là rất thuận lợi , vì mỗi cổ đông đều có chung một mục đích nên họ đến với nhau thông qua điều lệ bầu giám đốc là hoàn toàn tự chủ và tự nguyện . Hầu như không có sự cưỡng bức , mất dân chủ nào ngoại trừ số vốn góp của mỗi người là khác nhau nên tiếng nói của họ và lợi tức của họ hưởng là không giống nhau.
- Xu hướng cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp Nhà nước :
Thực tiễn nhiều năm đã chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả so với kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân . Cũng có những trường hợp cá biệt , trong những điều kiện đặc biệt gắn với một thời gian ngắn , kinh tế quốc doanh
vẫn có thể làm ăn có lãi , phát triển . Nhưng nhìn tổng quát lâu dài thì kinh tế quốc doanh kém hiệu quả .
Vì doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả thua lỗ nên Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ bao cấp nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ .
Để có thể cổ phần hoá một cách thắng lợi chúng ta có các biện pháp cổ phần đối với từng loại doanh nghiệp :
+ Doanh nghiệp loại 1 : doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả . Tiêu chí đó đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là tỉ suất lợi nhuận trên số vốn của chủ sở hữu . Tỉ suất này phải ít nhất trên 15% có nghĩa là phải cao hơn lãi suất tiết kiệm thì đồng vốn mới thực sự sinh lời . Đối với doanh nghiệp loại này ta bán 50% giá trị số cổ phần cho người lao động , 50% cổ phần còn lại có thể bán trả chậm . Đối với tài sản cố định thuộc nguồn vốn vay, Nhà nước cho bán cổ phiếu để doanh nghiệp trả nợ . Đối với vốn lưu động thuộc nguồn vốn ngân sách , sau khi đánh giá lại Nhà nước sẽ bán cổ phiếu để thu lại vốn hoặc để cho doanh nghiệp bổ xung vốn lưu động .
+ Doanh nghiệp loại 2: Doanhnghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả , Nhà nước có thể cho cán bộ côngnhân 100% giá trị cổ phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách Nhà nước mà cán bộ côngnhân được hưởng tuỳ theo năm công tác .
Sở dĩ các doanh nghiệp đưa các biện pháp như trên là vì :
- Thứ nhất : các doanh ng hiệp Nhà nước được thành lập từ rất lâu . Giá trị tài sản cố định thuộc nguồn vốn khấu hao đã được khấu hao hết . Do đó cho không công nhân thì Nhà nước cũng không thiệt ; dù cho hay không cho thì tài sản vẫn nằm đó tại doanh nghiệp , thuộc Nhà nước cũng chỉ ttrên danh nghĩa .
- Thứ hai : Giai cấp công nhân , giai cấp khổ sở trước đây theo Đảng bao nhiêu năm làm cách mạng nay chuyển sang kinh tế thị trường , tuy đất nước có phát triển nhưng cuộc sống của họ không mấy thay đổi . Hàng ngày vẫn phải bán sức lao động để kiếm sống .Do đó , việc chia cho họ một số cổ phần trên phần tài sản cố định của Nhà nước mà họ đã bao năm giữ gìn thì cũng không có gì là không hợp lý .
- Thứ ba : chính việc chia cổ phần như vậy mới tạo được chủ sở hữu tương đối cụ thể cho doanh nghiệp , tránh tình trạng " của chùa " như hiện nay. Chính những người công nhân gắn bó với doanh nghiệp trong nhiều năm sẽ làm chủ thực sự doanh nghiệp . Đây là điểm mấu chốt để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả .
2. Kinh nghiệm cổ phần hoá của một số nước .
2.1. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Liên Xô.
2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả nên phải chuyển nó thành công ty cổ phần nhưng muốn chuyển được và sau khi chuyểncông ty cổ phần hoạt động thuận lợi thì theo kinh nghiệm của Liên Xô là cần phải có một khuôn khổ pháp luật cụ thể , rõ ràng .
Những luật cần thiết nhất là :
+ Luật doanh nghiệp .
+ Luật công ty .
+ Luật phá sản .
+ Luật kế toán .
+ Luật thanh toán .
+ Các luật thuế .
+ Luật thừa kế và thế chấp .
+Luật ngân sách .
+ Luật về phát hành giao dịch , mua bán chứng khoán .
ở nước ta chưa có một hệ thống luật đầy đủ mà đang trong thời kì soạn thảo. Đó là một khó khăn mà ta phải sớm khắc phục .
2.1.2. Kinh nghiệm Liên Xô cho thấy vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề khó khăn phức tạp .
Tính phức tạp của cổ phần hoá bắt nguồn từ nhiều lý do :
Một là : Quan niệm thế nào là doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân của mỗi cấp , mỗi ngành , mỗi đảng phái ,thậm chí đến mỗi người dân cũng không giống nhau có lúc khác nhau rất lớn , từ đó nhận thức về hàng loạt các vấn đề cũng không thống nhất như : những doanh nghiệp nào cần để lại hình thức quốc doanh , doanh nghiệp nào cần phải cổ phần hoá , cổ phần hoá nhanh hay từ từ , ai lãnh đạo là tốt nhất ,cổ phần hoá bao nhiêu phần trăm ...
Hai là : Xử lý những vấn đề có tính chất nghiệp vụ trong quá trình cổ phần hoá là không đơn giản nhưng :
+ Xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào là chính xác .
+ Đất có tính vào giá trị doanh nghiệp hay không , nếu có thì phải tính như thế nào .
+ Vấn đề lao động phải giải quyết như thế nào khi chuyển sang công ty cổ phần …
Ngoài những khó khăn phức tạp gây ra như đã nói ở trên có một khó khăn khác là một số doanh nghiệp Nhà nước không muốn cổ phần hoá .
Riêng việc đa dạng hoá sở hữu nhất lầ việc chuyển sở hữu Nhà nước cho tư nhân là một quá trình ngược với quá trình trước đây ta đã làm . Trước đây Chính phủ có thể giải tán kinh tế tư nhân bằng một xác lệnh còn ngày nay Nhà nước không thể khôi phục họ bằng một xác lệnh khác .
Vì vậy , cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là rất cần thiết nhưng không thể nóng vội , lại càng không thể áp đặt những ý muốn chủ quan mà phải kiên trì , từng bước và tạo ra các tiền đề cần thiết . Để giải quyết vấn đề này thì sự nghiệp cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước phải tính đến hàng chục năm .
Quá trình tư nhân hoá ở Liên Xô .
Tư nhân hoá Liên Xô được côi là một khâu trung tâm của quá trình cổ phần hoá nhằm tạo ra một tầng lớp rộng rãi những người chủ sở hữu tư nhân .
Năm 1992 thực hiện bước một là cổ phần hoá các xí nghiệp lớn . Các cổ phiếu hoặc do Nhà nước nắm hoặc do tập thể lao động nắm . Với việc cổ phần hóa này sẽ làm nảy sinh một xu hướng ngược lại với xu hướng đã hình thành trước đây đó là xu hướng giảm cơ cấu độc quyền thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa .
ở cấp xí nghiệp để tiến hành cổ phần hoá ban giám đốc cùng với tập thể công nhân sẽ soạn thảo ra kế hoạch tư nhân hoá , phương án phân chia quyền lợi cho người lao động , cách thức và tiến trình bán cổ phiếu .
ở cấp Nhà nước : chương trình tư nhân hoá có một số phương án phân chia quyền lợi cho người lao động như sau :
+ Người lao động được chia 25% cổ phiếu ưu đãi và có quyền mua 10% cổ phiếu , có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với giá danh nghĩa .
+ Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu , có quyền biểu quyết theo những điều kiện do Nhà nước quy định .
Phiếu tư nhân hoá có thể được sử dụng theo những cách thức sau :
- Đổi trực tiếp lấy cổ phiếu của xí nghiệp . Công nhân của các xí nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện ưu đãi cũng như được tham gia các cuộc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu như mọi công nhân khác ngoài xí nghiệp .
- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu tư tư nhân hoặc quốc doanh các quỹ đầu tư sẽ thu phiếu tư nhân hoá và dùng chúng để mua cổ phần của các xí nghiệp. Như vậy , mỗi một quỹ đầu tư sẽ có nhiều cổ phần trong các xí nghiệp khác nhau .
- Bán phiếu tư nhân hoá để lấy tiền .Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào tư nhân hoá Nhà nước quy rằng : tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trường sẽ nhiều hơn phiếu tư nhân hoá phát hành cho nhân dân , đồng thời Nhà nước lập ra các cơ quan tài chính đặc biệt để tư vấn cho nhân dân sử dụng phiếu có hiệu quả. Nhà nước cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có thể lựa chọn theo ý mình .
Tóm lại ,quá trình tư nhân hoá ỏ Liên Xô mang lại cho chúng ta một số kinh nghiệm sau :
+ Để tiến hành tư nhân hoá có hiệu quả thì ta phải thiết lập các uỷ ban hoặc cơ quan chuyên trách quốc gia . Cơ quan đó phải gồm những thành viên được giao thực quyền .
+ Hình thức tư nhân hoá là rất phong phú nên có thể áp dụng nhiều cách thức để tiến hành tư nhân hoá .
2.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc .
2.2.1. Cải cách cơ chế quản lý các doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở giữ lại nguyên trạng chủ sở hữu Nhà nước .
Theo nội dung này Trung Quốc áp dụng hai hình thức khá phổ biến là thực hiện chế độ hợp đồng và chế độ cho thuê .
Hợp đồng được kí giữa một bên là Nhà nước - người chủ sở - và một bên là xí nghiệp - người quản lý xí nghiệp có hiệu lực trong một thời gian nhất định. Người đại diện cho xínghiệp có thể là một cá nhân hay một tập thể . Đây là một văn bản quy định chặt chẽ trách nhiệm , quyền hạn và lợi ích của mỗi bên . Người giám đốc xí nghiệp ( người quản lý chính ) được giao đầy đủ quyền lực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp . Chế độ thưởng , phạt cũng được ghi trong hợp đồng . Chính bằng cách này người ta có thể lựa chọn được người đủ năng lực nhất giám chịu trách nhiệm trước công việc của mình .
Chế độ cho thuê được Chính phủ khuyến khích đối với các xí nghiệp có quy mô nhỏ . Các xí nghiệp này có quyền thuê các chuyên gia về quản lý trong thời gian xác định và trả cho họ tiền thuê mướn do hai bên thoả thuận . Ngoài ra , các xí nghiệp này có quyền cho thuê phần tài sản thuộc quyền quản lý của mình trong một thời gian đã được ấn định .
2.2.2. Cải cách sở hữu .
Vấn đề cơ cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc .
Từ sau ngày cải cách mở cửa với lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc . Trung Quốc đã xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần : kinh tế quốc hữu ,kinh tế tập thể , kinh tư bản tư nhân , kinh tế tư bản nước ngoài …Trong đó kinh tế công hữu ( kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể ) đóng vai trò là "chủ thể " và nền kinh tế quốc hữu ( kinh tế Nhà nước ) đóng vai trò "chủ đạo " đối với nền kinh tế quốc dân .
Trong thời gian cơ cấu sở hữu thay đổi theo chiều hướng tỷ trọng sở hữu Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân giảm xuống . Trước cải cách năm 1978, trong GDP của Trung Quốc kinh tế công hữu chiếm tỷ trọng 99% ( trong đó kinh tế quốc hữu chiếm 56% ,kinh tế tập thể chiếm 43% ) trải qua gần 20 năm cải cách mở cửa , tỷ trọng đã thay đổi nhiều ,năm 1990 trong công nghiệp Trung Quốc ,xí nghiệp quốc hữu chiếm 55% , xí nghiệp tập thể chiếm 36% nhưng đến năm 1995 tỷ trọng xí nghiệp quốc hữu chỉ còn 34% , xí nghiệp tập thể hầu như không đổi .
Có ba hình thức trong cải cách chế độ sở hữu các doanhnghiệp Nhà nước ở Trung Quốc là :
Một là : thành lập các công ty cổ phần các cổ đông bao gồm Nhà nước , tập thể và cá nhân . Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và trung bình Nhà nước vẫn nắm cổ phần không chế .
Hai là : phát triển ở một mức độ nhất định đối với các doanh nghiệp tư nhân. Đối với khu vực này Trung Quốc không chủ trương xây dựng một nền kinh tế tư nhân theo kiểu các nước công nghiệp phát triển mà chỉ đầu tư xây dựng hoặc cho phép phát triển ở một mức độ chừng mực và trong một số ngành nhất định . Sự phát triển trong các doanh nghiệp tư nhân chỉ ở mức độ góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá , kích thích thị trường , tạo ra việc làm mới nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của nhân dân . Trong nhiều văn kiện chính thức Trung Quốc vẫn nhấn mạnh sự lãnh đạo và chi phối của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế .
Ba là : phát triển các doanh nghiệp dựa vào đầu tư nước ngoài .Điều này đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc nhằm giải quyết những vấn đề thiếu hụt về kĩ thuật , về vốn , về công nghệ và quản lý . Đã gần một thập niên qua dựa vào đầu tư nước ngoài nhiều doanh nghiệp ỏ Trung Quốc đã phát triển mạnh dưới các hình thức phổ biến như doanh nghiệp đầu tư hợp tác sản xuất hay buôn bán và các xi nghiệp hoàn toàn do người nước ngoài làm chủ sở hữu .
Từ những kinh nghiệm trong việc chuyển đổi cơ cấu chế độ sở hữu ,người Trung Quốc bắt đầu nhân rộng kết quả cải cách các doanh nghiệp Nhà nước ra toàn bộ miền Duyên hải của họ .
II. Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá .
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang kinh tế thị trường
1.1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam .
Các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau vàđược xây dựng dựa trên cơ sở của nhiều quan điểm vì vậy doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có nhiều khác biệt so với nhiều nước trong khu vực .
Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hoá được biểu hiện :
+ Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé , cơ cấu phân tán biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn thấp ,chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp Nhà nước thấp và không ổn định ,hệ số sinh lời thấp ,sử dụng vốn kém hiệu quả . Hầu hết các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ,tỷ lệ doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ chiếm tỷ trọng cao . Bộ máy quản lý doanhnghiệp thiếu năng lực , cồng kềnh , kém hiệu quả .
+ Trình độ kĩ thuật - công nghệ lạc hậu .
Sở dĩ, trình độ kĩ thuật - công nghệ lạc hậu một phần vì các doanh nghiệp Nhà nước thành lậptừ rất lâu nên các công nghệ cũ kĩ , hoạt động không có hiệu quả mà doanh nghiệp lại không có khả năng thay thế . Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp ,vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường các doanh nghiệp Nhà nước khó có khả năng cạnh tranh .
+ Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có sự phân bổ còn bất hợp lý cả về ngành lẫn về vùng .
Khi chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước ,mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt làm cho doanh nghiệp Nhà nước bị giải thể , phá sản dẫn đến số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đáng kể từ 12084 doanh nghiệp xuống còn 6264 doanh nghiệp vào năm 1994 .
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua tăng nhanh đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế , nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn , kĩ thuật công nghệ cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng đồng thời doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhà nước .
Sau hơn 10 năm đổi mới , các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang chuyển biến rõ rệt , giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là những doanh nghiệp địa phương nhỏ bé , làm ăn không có hiệu quả . Số lớn các doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và từng bước phát huy quyền tự chủ kinh doanh trở nên hoạt động có hiệu quả , năng động với sự biến đổi của thị trường . Song nhìn chung thì các doanh nghiệp Nhà nước vẫn gặp rất nhiều khó khăn , hiệu quả kinh doanh còn thấp , nhiều doanh nghiệp vẫn còn làm ăn thua lỗ triền miên , hoạt động cầm chừng sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần Nhà nước đầu cho doanh nghiệp , cũng như với tiềm lực của doanh nghiệp Nhà nước. Tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng , việc quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn yếu kém , đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng buông lỏng quản lý , Nhà nước mất vai trò là người chủ sở hữu .
1.2. Nguyên nhân của thực trạng doanh nghiệp Nhà nước .
* Thứ nhất : Do ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài , của tư duy không đúng của mô hình Chủ nghĩa xã hội trước đây .
Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ gồm hai thành phần đó là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể . Tư tưởng muốn xoá bỏ kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể , coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội . Tư tưởng xem nhẹ qui luật kinh tế khách quan của thị trường , coi kinh tế thị trường là của riêng Tư bản chủ nghĩa .
* Thứ hai : Đó là sự yếu kém của nền kinh tế chủ yếu là lực lượng sản xuất . Mặc dù , nước ta có nhiều nguồn lực để phát triển sản xuất và phát triển kinh tế nhưng chúng còn ở dạng tiềm năng chưa được khai thác để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế . Để khai thác được các nguồn lực kinh tế đó cần phải có lượng vốn lớn , kĩ thuật công nghệ đồng bộ , hiện đại , đội ngũ cán bộ kĩ thuật ,cán bộ quản lý có năng lực , có trình độ tổ chức và quản lý thích hợp của Nhà nước cũng như của mỗi doanh nghiệp .
Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém lạc hậu của cơ cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế cũng nhe của mỗi doanh nghiệp , đây là lực cản chủ yếu của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung .
Sự yếu kém của nền kinh tế còn thể hiện ở chỗ chưa có tích luỹ nội bộ , chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn .
* Thứ ba : Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung , đối với doanh nghiệp nói riêng nhìn chung còn nhiều yếu kém .
Hệ thống pháp luật chính sách quản lý chưa hoàn chỉnh . Phần lớn là những văn bản pháp quy dưới luật , có nhiều quy định mâu thuẫn nhau . Chưa tổ chức kịp thời hệ thống toà án kinh tế nhằm đảm bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế . Trong hoạt động quản lý Nhà nước ,thủ hành chính quá phiền hà , cửa quyền, quan liêu , hách dịch .
Trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động quản lý doanh nghiệp .
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời song chưa được huỷ bỏ , những văn bản mới còn cónhiều sơ hở nhưng không được sửa đổi nên đã b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35008.doc