ĐỀ TÀI:
CỔ PHẨN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DNNN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cổ phần hóa
1.1.2. Cổ phần hoá DNNN
1.1.3. Công ty cổ phần
- Khái niệm
- Đặc điểm
- Hình thức hoạt động
1.1.4.Các công việc phải làm để thực hiện cổ phần hóa DNNN
1.2. Tính tất yếu của cổ phần hóa DNNN
1.2.1. Yêu cầu đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thị trường
1.2.2. Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo một luật chung thống nhất
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
1.2.4. Hiệu quả hoạt động của DNNN
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
1.3.1.1. Tình hình cổ phần hóa ở Trung Quốc
- Giai đoạn thứ nhất 1984 – 1991
- Giai đoạn thứ hai 1992 – nay
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc
- Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền kinh doanh
- Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
- Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở hữu
Rút ra kinh nghiệm
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẨN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
- DNNN thành lập một cách tràn lan, quy mô nhỏ
- Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh còn thấp, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước
- Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1.khái quát về cổ phần hóa DNNN
2.2.1.1. Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
2.2.3. Đánh giá tình hình cổ phần hoá trong thời gian qua
2.2.3.1. Các kết quả chủ yếu
2.2.3.2. Các hạn chế chủ yếu và các vướng mắc chưa được giải quyết
-Tốc độ cổ phần hoá còn chậm
-Khó khăn trong việc xác đinh các giá trị tài sản như đất đai,máy moc,và giá cổ phần
- Xác định đối tác chiến lược
2.3. Phương hướng, giải pháp đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá
2.3.1. Phương hướng
2.3.2. Nhiệm vụ
2.3.3. Các giải pháp để các DN đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa
2.3.3.1. Nhà nước
a) Thúc đẩy việc hoàn thiện các yếu tố khách quan cần thiết cho tiến trình cổ phần hóa
b) Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
c) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, tạo khung khổ pháp lí thuận lợi cho việc cổ phần hóa DNNN
d) Tăng cường công tác chỉ đạo và nâng cao năng lực quản lý đối với quá trình cổ phần hóa
e)Phát triển tốt thị trường chứng khoán,thị truờng tài chính là đông lực thúc đẩy cổ phần hoá
f)Các chính sách thu hút đầu tư,tỉ lệ nắm giữ cổ phàn của nhà đầu tư nước ngoài
2.3.3.2. Doanh nghiệp
a) Nâng cao công tác tuyên truyền cho cán bộ công nhân viên về sự cần thiết cổ phần hóa DNNN
b) Đẩy nhanh tiến độ xác định giá trị của các DN và bán cổ phần. Hạn chế và khắc phục việc bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN và chống thất thoát tài sản của Nhà nước
c) Tăng cường quản trị công ty cổ phần để thực sự đưa công ty sau cổ phần hóa hoạt động trong môi trường bình đẳng với các DN khác
d) Tăng cường chỉ đạo cổ phần hóa trong toàn bộ Tổng công ty
e) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình cổ phần hóa
f)Tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin về doanh nghiệp
g)Phát triển đội ngũ quản trị năng động phù hợp với sự mở rộng của thị trường trong nước
h)Chiến lược phát triển rõ ràng
LỜI KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta có chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn hội nhập thành công, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của từng doanh nghiệp và từng sản phẩm nói riêng phải không ngừng được nâng cao.
Để nâng cao hiệu qủa và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được xác định là một trong những giải pháp quan trọng. Ngày 8/6/1992 ,Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) đưa ra quyết định số 202/CT “ Về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước thành các doanh nghiệp hoạt động theo quy chế công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp, nhằm đa dạng hóa sở hữu, tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa được làm chủ thực sự, tạo điều kiện nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong những năm gần đây, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, nhưng quá trình này vẫn bị xem là hết sức chậm chạp. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đ ã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của khu vực kinh tế Nhà nước như cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, giải thể các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả… Trong đó cổ phần hóa được coi là giải pháp hàng đầu có khả năng mang lại lợi ích hài hòa cho Nhà nước cũng như nhiều bộ phận xã hội khác.
Chính vì vậy việc nghiên cứu cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết, đặc biệt là đối với sinh viên kinh tế. Thông qua việc tìm hiểu nội dung của chính sách cổ phần hóa và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan về những khó khăn hạn chế của cổ phần hóa, điều đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA VỀ DNNN
1.1 Một số khái niệm
1.1.1.cổ phần hoá
Là quá trình chuyển quyền sở hữu của tài sản hoặc các hoạt động kinh doanh từ Nhà nước sang cho một thực thể do tư nhân hoặc tổ chức sở hữu.
1.1.2 Cổ phần hoá DNNN
Là quá trình chuyển 1 phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức, đồng thời chia nhỏ phần vốn của công ty thành nhiều phần bằng nhau nhằm thay đổi hình thức sở hữu của công ty từ một chủ sở hữu thành nhiều chủ sở hữu
1.1.3 Công ty cổ phần
- Khái niệm
Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là công ty cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân với số lượng tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
- Đặc điểm
Cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản băng khoản vốn mình đã góp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để huy động vốn.
- Hình thức hoạt động
Công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu ,mỗi chủ sơ hữu chỉ chịu trách nhiệm cao nhất bằng phần vốn góp của mình. Bằng cách phát hành cổ phiếu, CTCP có thể thay đổi và tăng số chủ sở hữu trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trong côngh ty cổ phấn quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt khá rõ ràng, hơn nữa CTCP còn được giám sát thường xuyên và có hiệu quả bởi thị trường chứng khoán và cơ chế hoạt động bên trong của nó.
1.1.4.Các công việc phải làm để thực hiện cổ phần hóa DNNN
Xác định giá trị của doanh nghiệp:
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được.
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.
Các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp:
Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóaGiá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa.
Ngoài ra, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng cũng được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. Lợi thế này thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hóa. Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp.2. Phê duyệt phương án cổ phần hóa và quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần:
Sau khi tính trị giá thực tế của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tiến hành lập phương án cổ phần hoá và đệ trình phương án đó lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền phê duyệt được quy định như sau:
Đối với những doanh nghiệp có giá trị thuộc phần vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng: Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty "91" xây dựng phương án cổ phần hóa trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.- Đối với những doanh nghiệp có giá trị thuộc phần vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng trở xuống, Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt phương án, quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa.
3. Đăng ký kinh doanh của công ty cổ phần:
Doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa sẽ hoạt động theo Luật doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Trong thời hạn 7 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty cổ phần.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm:
Quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần của cấp có thẩm quyền ;
Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần đã được Đại hội cổ đông thông qua
Biên bản bầu Hội đồng quản trị và cử Giám đốc điều hành;
Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa (nếu có).
Sau khi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được cấp, doanh nghiệp cổ phần vẫn phải tiến hành các thủ tục sau giấy phép theo đúng các quy định của Luật doanh nghiệp.
1.2. Tính tất yếu của cổ phần hoá DNNN
Thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau:
w Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu.
Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển.
w Thứ hai: Thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
w Thứ ba: Bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới.
w Thứ tư: Thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
w Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
w Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, CPH với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CHXH ở nước ta.
1.2.1. Yêu cầu đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường đinh hướng kinh tế nhà nước làm chủ đạo,từ kinh tế nhà nước ,kinh tế tư nhân,doanh nghiêp lien doanh,doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài…Và chúng ta đang trong quá trình hội nhập WTO nên việcđẩy mạnh quá trình cổ phần hóa là một tất yếu của nền kinh tế.
1.2.2. Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo một luật chung thống nhất
Bên cạnh đó sự ra đời của các Công ty cổ phần là một bước tiến cuả lực lượng sản xuất. Chúng đã biến những người sở hữu tư bản (với những đặc điểm cổ điển của nó) thành những người sở hữu thuần tuý, một mặt chỉ đơn giải điều khiển và quản lý tư bản của người khác, mặt khác là những nhà tư bản - tiền tệ thuần tuý (cả tiền công lao động của người điều khiển cộng với lợi nhuận doanh nghiệp về tay nhà tư bản, cổ phần thu về dưới dạng lợi tức). Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế.
Sự ra đới của các công ty cổ phần làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng một cách to lớn, đến nỗi những nhà tư bản riêng lẻ không thể làm nổi. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng phương thức tư bản chủ nghĩa. Xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó.
Các Công ty cổ phẩn là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản những chức năng của người sản xuất liên hiệp, tức là thành những chức năng xã hội và trở thành những nhà máy hợp tác, đến một giai đoạn phát triển nhất định lực lượng sản xuất sẽ làm cho "Một phương thức sản xuất mới nảy ra và phát triển trên cơ sở một phương thức sản xuất cũ".
Công ty cổ phần là sản xuất tư nhân không có sự kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư liệu sản xuất này sẽ không còn làm tư liệu và sản phẩm của nền sản xuất tư nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể làm tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất liên hiệp, tức là chỉ có thể làm sở hữu xã hội của họ, cũng như chúng là sản xuất xã hội của họ.
Chính bản thân những nhà máy hợp tác của công nhân là một Lỗ thủng đầu tiên trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động và tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dù ban đầu nó chỉ được xoá bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp thành những nhà tư bản với chính bản thân mình, nghĩa là cho họ "có thể dùng tư liệu sản xuất” để bóc lột lao động của chính họ.
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
Lợi thế về huy động vốn
Lợi thế về kiểm soát và sử dụng vốn
Công bằng cho mọi người
Thông tin minh bạch hóa của doanh nghiệp
Tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Sự ra đời và phát triển của loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự cho sự phồn vinh của thị trường này. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường tài chính tạo điểu kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở.
Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng được hoàn thiện, phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói công ty cổ phần là một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển, các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc cách mạng trong công nghiệp của TBCN, chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường.
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
Giai đoạn 1984 -1991:
Cổ phần hóa ở Trung Quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự ra đời của Công ty Cổ phần Hữu hạn Bách hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong Văn kiện quan trọng được ban hành tháng 12 năm 1986, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã cho phép “Các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hóa”.Đến cuối năm 1991 có hơn 3000 doanh nghiep được tiến hành cổ phần hóa thành công.
Giai đoạn thứ hai 1992 – nay:
Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000 đơn vị thực hiện thí điểm cổ phần hóa.
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn 4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng số vốn cổ phần đạt 358 tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ NDT là giá trị cổ phần phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm CPH cho thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng đắn và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”…, đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng… Có thể thấy, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc
-Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp
-Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội
-Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp
-Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền kinh doanh
-Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
-Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở hữu
-Từ tiến trình cổ phần hóa ở trung quốc ta thấy viêt nam cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa.Chỉ mới trong vòng hơn 20 năm mà quy mô vốn hóa của thị trường trung quốc đã khá lớn và tốc độ cổ phần hóa cao.Có thể nói chúng ta bây giờ có điều kiện khá giống so với trung quốc nên chúng ta có thể học một số kinh nghiệm của họ.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
Các doanh nghiệp Nhà nước ở việt nam được thành lập một cách tràn lan với quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả (do ban quản trị kém không có năng lực và nạn tham ô tham nhũng…)
Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, sức cạnh tranh còn thấp, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình,doanh nghiep nhà nước có trình độ công nghệ thấp,lạc hậu được nhạp từ nhưngc năm 70 thế kỉ trước năng suát thấp chất lượng không cao không đáp ứng được nhu cầu đổi mới nền kinh tế của đất nước.
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1:Khái quát về cổ phần hóa DNNN
-Phân tích các yếu điểm cơ bản trong hoạt động của các DNNN trong suốt thời gian dài, chúng ta thấy rằng việc đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp này là một chủ trương hết sức sáng suốt và phù hợp. Với phương thức cổ phần hóa DNNN, Nhà nước sẽ vừa được nhẹ bớt gánh nặng quản lý vừa tạo động lực để cho các doanh nghiệp hoạt động đạt được hiệu quả cao hơn.
-Xuất phát từ quan điểm trên, từ ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ đã có tác động tăng tốc cho giải pháp với 2 mục tiêu:
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN;
-Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế của đất nước.
-Từ thực tế hoạt động cổ phần hóa DNNN cho thấy, khi cổ phần hóa, vốn chủ sở hữu DNNN được chuyển đổi thành cổ phần và được bán cho nhiều đối tượng khác nhau như các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau cổ phần hóa trở thành công ty cổ phần, sẽ tổ chức hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
-Có thể khái quát về cổ phần hóa DNNN là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong DNNN, từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó Nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển DNNN (sau cổ phần hóa) sang hoạt động theo loại hình công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật Doanh nghiệp.
-Về hình thức, đó là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn) của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
-Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hóa đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.
-Việc chọn DNNN để cổ phần hóa là: bất cứ doanh nghiệp nào không thuộc diện Nhà nước phải đầu tư hoặc tiếp tục giữ 100% vốn, đều sẽ cho tiến hành cổ phần hóa, trong số này không có tiêu chuẩn phân biệt doanh nghiệp nào muốn thì cổ phần hóa, doanh nghiệp nào không muốn thì thôi (!)
-Tóm lại, qua xem xét thực trạng của DNNN cũng như hiểu rõ thực chất về cổ phần hóa, cho thấy cổ phần hóa là một giải pháp quan trọng để tiến hành sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, góp phần giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước hiện nay.
2.2.1.1: . Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
-Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước .
-Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần… Nhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty) và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lượng, diện CPH cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá gặp khó khăn, như xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa phương và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ương Đảng, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng nhanh so với các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định số 44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm 39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tương đối nhỏ, những công ty có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện CPH , Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một số doanh nghiệp trước CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp này đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Như vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP được ban hành đã tạo ra một hành lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và người lao động tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Sáu tháng cuối năm 1998, kế hoạch đặt ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp được CPH (đạt 66,6%). Năm 1._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22668.doc