Phần mở Đầu
Nước ta đang trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với chủ trương của Đảng và nhà nước là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển, tự chủ nhưng không tách rời xu thế toàn cầu là tiến hành hội nhập hoá với nền kinh tế quốc tế. Với việc tham gia vào các khối liên minh kinh tế như AFTAvà trong tương lai là gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước đang là vấn đ
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề mà Đảng vầ nhà nước ta quan tâm. Cùng với hàng loạt các chính sách hướng dẫn chỉ đạo, các ưu đãi về thuế quan hạn ngạch ... thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng con đường cổ phần hóa đang được khuyến khích thực hiện.
Tuy rằng vấn đề cổ phần hoá đối với chúng ta đã không còn là mới mẻ vì chủ trương thực hiện cổ phần hoá đã có từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tuy nhiên việc phổ biến nó một cách sâu rộng để mọi nguời có thể thấy được tính tất yếu của nó lại là một vấn đề lớn. Ngoài ra, trong tiến trình cổ phần hoá ở nước ta những điều bất cập là một điều khá phổ biến, đòi hỏi phải có những phuơng án có hiệu quả nhằm xúc tiến và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đề này một cách cẩn trọng và nghiêm túc là hoàn toàn cần thiết nhằm cung cấp cho chúng ta một hệ thống lý luận đúng đắn về cổ phần hoá cũng như sự cần thiết phải tiến hành hoạt động này trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nội dung
I. Khái quát về cổ phần hoá.
1. Khái quát về cổ phần hoá- Mục tiêu và những lợi thế.
Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái công ty cổ phần. Hay nói cách khác đó là quá trình chuyển doanh nghiệp nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là nhà nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là các pháp nhân, các cá nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế thậm chí có cả người lao động trong doanh nghiệp. Về hình thức, cổ phần hoá tức là nhà nước bán toàn bộ hoặc một phần giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng, tổ chứctư nhân trongvà ngoài nước hay cho cán bộ quản lý và công nhân viên chức của doanh nghiệp bằng đấu giá hoặc thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần. Về thực chất, cổ phần hoá là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thức kinh doanh một chủ sở hữu là nhà nước thành công ty cổ phần với nhiều loại chủ sở hữu nhằm tạo ra một doanh nghiệp hiện đại, thích ứng với yêu cầu kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên Đảng và nhà nước ta nhấn mạnh cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá mà là quá trình giảm bớt sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hoá sở hữu. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tạo động lực phát triển trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước không có nghĩa là làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước mà là một trong các giải pháp quan trọng để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay nhằm phát huy vai trò chủ đạo thực sự trong nền kinh tế thị trường.
Việc thực hiện cổ phần hoá có rất nhiều phương pháp. Trên thế giới người ta chọn một trong hai phương pháp, đó là:
- Bán toàn bộ tài sản hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội bằng phương thức phân chia tài sản doanh nghiệp thành nhiều cổ phiếu và đem bán toàn bộ hay một phần số cổ phiếu đó.
- Giữ nguyên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu bán ra thị truờng nhằm làm tăng thêm vốn và cũng làm thay đổi từ một chủ sở hữu là nhà nước sang nhiều chủ sở hữu.
Ơ Việt Nam chúng ta chọn một trong bốn hình thức sau:
- Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phíếu để thu hút thêm vốn.
- Bán một phần giá trị của doanh nghiệp cho các cổ đông.
- Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc công tỵ.
- Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Tất cả các hình thức trên đều nhằm vào việc chuyển từ doanh nghiệp một chủ sở hữu thành nhiều chủ sở hữu. Song tuỳ thuộc vào tính chất và vai trò của doanh nghiệp đối với nền kinh tế mà nhà nước nắm nhiều hay ít cổ phần, từ đó có thể chọn ra một hình thức phù hợp nhất.
Việc cổ phần hoá là một trong những giải pháp cơ bản để điều chỉnh tương quan giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trong nền kinh tế hỗn hợp mà chúng ta đang phát triển hiện nay nhằm đạt mục tiêu phát triển có hiệu qủa bền vững và đảm bảo công bằng xã hội. Với một tầm quan trọng như thế, mục tiêu của cổ phần hoá luôn là vấn đề mà Đảng và nhà nước ta quan tâm xác định. Xét trên phương diện tổng quát thì cổ phần hoá có các mục tiêu sau:
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm góp phần chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các định chế chính sách nhằm chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường, xây dựng mới các công ty cổ phần, các thị trường chứng khoán, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho thị trường vận hành một cách đồng bộ với ba loại thị trường: Thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường vốn.
- Cổ phần hoá nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế theo những nguyên tắc kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh tế xã hội ở đây được hiểu theo nghĩa huy động mọi khả năng về vốn, kỹ thuật, lao động, năng lực quản lý...của cộng đồng dân tộc và quốc tế vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế của đất nước một cách hiệu quả nhất. Tiềm lực của khu vực kinh tế nhà nước là rất lớn và chỉ có thể huy động, khai thác và phối hợp được khi đảm bảo sự liên kết hợp tác thống nhất với các thành phần kinh tế khác cùng thu lợi ích. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp khai thác sử dụng nguồn nhân lực tổng hợp đấy. Thông qua xây dựng công ty cổ phần, nhà nước có thể tập trung nguồn lực cho những khu vực được ưu tiên.
Trên cơ sở những mục tiêu tổng quát “Đề án thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần” ban hành theo quyết định 202- HĐBT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) đã cụ thể hoá thành những mục tiêu sau:
- Chuyển đổi sở hữu, thực hiện sở hữu hốn hợp, chuyển một phần quyền của các cổ đông. Việc này góp phần rất lớn trong việc xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước nhất là khi ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nhờ sự phân định về quyền pháp nhân (thuộc thực thể kinh doanh) và quyền sở hữu (thuộc nhà nước) các doanh nghiệp cổ phần hoá trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh, có quyền mở rộng kinh doanh, quyền xử lý tài sản và chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
- Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn làm chủ. Việc cho phát hành cổ phiếu khiến cho vai trò cổ đông và người lao động thống nhất với nhau, biến doanh nghiệp thành liên hiệp lợi ích của người lao động, cùng với việc tách người sở hữu khỏi chức năng quản lý kinh doanh làm cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
- Cổ phần hoá nhằm làm tăng khả năng huy động vốn và tập trung vốn mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng cho những đòi hỏi về đổi mới thiết bị, sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh... nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay.
- Cổ phần hoá góp phần làm đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước theo hướng tích cực và có hiệu quả.
Trong nghị quyết 44/1998/NĐ-CP về việc “Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần” những mục tiêu trên được cụ thể thành:
- Cổ phần hoá nhằm huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng nói chung lại tất cả các mục tiêu trên đêù có cùng bản chất và về thực chất là chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước toàn phần thành công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước hoặc công ty cổ phần hoá tư nhân, tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính theo yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với những mục tiêu đó thì rõ ràng cổ phần hoá đã được Đảng và nhà nước ta hết sức chú trọng bởi những ưu thế trên nhiều mặt. Cụ thể đó là:
- Cổ phần hóa giải quyết được khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho nó mở rộng sản xuất kinh doanh. Chức năng của chế độ cổ phần hoá là thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản (vốn), thu hút và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên lý kinh tế tiền đẻ ra tiền theo công thức T-H-T’. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không có nghĩa là tư nhân hoá hoàn toàn tài sản trong xã hội, mà là xã hoá vốn. Nó có ưu điểm là giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho nhà nước, nhà nước có thể chuyển sang đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển xã hội.
- Cổ phần hoá thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. Cổ phần hoá đảm bảo sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất, trên phần vốn đóng góp của họ và thực sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó. Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động... trong công tác sản xuất kinh doanh, biến họ thành nhà kinh doanh thực sự từ vị trí công chức nhà nước, sống chết vì tồn tại và phát triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện thuận lợi để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh trong tình hình mới.
- Cổ phần hoá cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được chỉ đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. Đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doanh nghiệp mà tập thể cổ đông giao phó va hoạt động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế làm giảm hiệu quả và gây tác hại tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó thực hiện quyền làm chủ và chủ động thực sự cho công ty xí nghiệp cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung trong các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
- Cổ phần hoá tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy điều hành công ty cổ phần: Đại hội cổ đông - Hội đồng quản trị – Giám đốc điều hành, để kết hợp phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần giải quyết thoả đáng cùng một lúc quyền lợi của nguời cổ đông có vốn với người lao động tham gia sức lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể thuê hoặc chọn từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành công cho cải tiến, đổi mới quản lý công ty cổ phần mở ra cho nó triển vọng rộng lớn hơn.
- Cổ phần hoá tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hoá được tự chủ, chủ động trong quan hệ tự nguyện liên doanh liên kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh.
Với những ưu thế kể trên, cổ phần hoá đã và đang được xem là lối ra phù hợp cho khu vực kinh tế nhà nước, góp phần đưa nền kinh tế nhà nước lên đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
2. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá.
Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được coi là một tất yếu. Cơ sở của vấn đề này được bắt nguồn từ:
- Yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ơ nước ta hiện nay, trình độ xã hội hoá về lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi phải xã hội hoá về quan hệ sản xuất phải công hữu tuyệt đối hay quá rộng lớn về tư liệu sản xuất mà phải là nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp với nhiều mức độ xã hội hoá.
- Đặc trưng của thời kỳ quá độ là cùng tồn tại và đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau giữa những yếu tố bộ phận của nền kinh tế cũ, tư hữu với những yếu tố, bộ phận của nền kinh tế mới xây dựng công hữu. Công ty cổ phần chính là hình thức kinh tế quá độ, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Nó có tác động to lớn trong thực tiễn. Nhà nước rút ra được một lượng vốn ra khỏi doanh nghiệp để đầu tư vào những nơi cần thiết đồng thời huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội đưa vào công ty cổ phần để phát triển sản xuất, tạo điều kiện chuyên môn hoá, nâng cao trình độ, hiệu quả trong quản lý bằng việc cử tuyển những chuyên gia giỏi giữ các chức vụ trong bộ máy của công ty phát huy nhiệt tình trách nhiệm cao của những người lao động từ đó đưa tới tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Cơ sở thực tế của tính tất yếu cổ phần hoá đã được chứng minh dựa trên hàng loạt hoạt động cổ phần hoá trong các công ty cổ phần ở trên khắp các quốc gia trên thế giới. Làn sóng cổ phần hoá doanh nghiệp đã được dấy lên từ cuối thập kỷ 70 tại Vương quốc Anh. Với hàng chục công ty được cổ phần, tính đến cuối năm 1991 tổng số tiền mà nhà nước Anh thu được là 34 tỷ bảng. Cổ phần hoá được lựa chọn là hình thức khả dụng nhất để chuyển đổi sở hữu nhà nước, cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân cho hợp lý và hiệu quả. Và đến nay đã có hơn 100 quốc gia đang phát triển với những quan điểm chính trị và kinh tế khác nhau đèu tích cực xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả ở những nước phát triển cũng rất chú trọng đến vấn đề này.
Ơ nước ta, vấn đề cổ phần hoá được đặt ra từ rất sớm, xuất phát từ tình hình kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay với khoảng 5740 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, chỉ có 50% doanh nghiệp là làm ăn có hiệu quả (đây là xét tổng quát), còn làm ăn có lãi thực sự thì chỉ có 30%. Tổng số tiền mà nhà nước thu được từ doanh nghiệp chỉ chiếm 30% trong doanh thu ngân sách nhà nước. Đặc biệt nếu tính thêm cả chi phí về tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì hoàn toàn không có tích luỹ. Một trong số nguyên nhân đó là do trang bị kỹ thuật máy móc, thiết bị, nhà xưởng, ...quá lạc hậu (so với thế giới lạc hậu 2đến 3 thế hệ, có thiết bị lạc hậu 4 đến 5 thế hệ ). Hiện có đến 54% doanh nghiệp nhà nước trung ương và 74% doanh nghiệp nhà nước địa phương còn sản xuất thủ công (tính theo số liệu năm). Quy mô doanh nghiệp bé, vốn ít. Thực tế vốn hoạt động chỉ bằng 80% vốn ghi trong danh sách, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản, hàng hoá mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa được xử lý.
Với thực trạng tài chính kỹ thuật như trên, doanh nghiệp hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh trên thị trường. Ngân sách nhà nước không đủ để bao cấp. Chỉ có cổ phần hoá là giải pháp tối ưu, vừa tạo môi trường huy động vốn cho doanh nghiệp lại tạo ra động lực để doanh nghiệp bước vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả, kinh tế.
3. Quan điểm của Đảng và tiến trình cổ phần hoá từ 1986-2002.
3.1. Một số quan điểm của Đảng về cổ phần hoá
Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Với chủ trương cụ thể là thực hiện cổ phần hoá, Đảng đã thể hiện quan điểm lý luận của mình về cổ phần hoá, với đối tượng ban đầu là các doanh nghiệp nhà nuớc, thực chất là cổ phần hoá một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Mục tiêu của cổ phần hoá đó là hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Cùng với những tư tưởng đó Đảng đã đưa ra một số quan điểm khác nhằm định hướng cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta, cụ thể:
- Quan điểm 1: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Đảng chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước mà thực chất là cổ phần hoá một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Với mục đích đó chúng ta đưa ra nhiều dạng công ty cổ phần nhưng có thể quy về hai nhóm chính:
* Nhóm các công ty cổ phần trong đó nhà nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước hoặc nắm giữ cổ phiếu khống chế (51%) hoặc không nắm giữ sở hữu cổ phiếu khống chế. Nhóm nay bao gồm các công ty kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hoặc bằng cách bán một phần tài sản doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp.
* Nhóm bao gồm các doanh nghiệp cổ phần hoá theo thể thức bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động, nhà nước rút vốn của mình. Nhà nước sẽ chỉ tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Với những ngành, lĩnh vực về sản phẩm và dịch vụ khác nhà nước chỉ cần giữ thị phần một cách vừa đủ. Ngoài ra nhà nước không cần phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế.
- Quan điểm 2: Dựa vào điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá nhằm chuyển sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
- Quan điểm 3: Nếu nhằm mục tiêu tư sản hoá công nhân, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì nhà nước cần chú ý đến điều kiện mức thu nhập của cong nhân có khả năng mua cổ phiếu dưới dạng trả góp cũng như tỉ trọng vốn tự có trong tổng số vốn pháp định của doanh nghiệp.
- Quan điểm 4: Mọi tài sản cuả doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể, là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên thuộc về nhà nước và trở thành vốn cổ phần nhà nước trong công ty cổ phần. Khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị còn lại để cổ phần hoá cần đưa vốn tự có vào bảng cân đối. Ngoài ra khi tiến hành cổ phần hóa đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để có cách xử lý nguồn vốn này một cách hợp lý tránh đánh đồng những doanh nghiệp làm ăn tốt do đầu tư thêm với doanh nghiệp chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước.
- Quan điểm 5: Việc xác định giá trị của doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình để có sự kết hợp hợp lý những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
- Quan điểm 6: Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Việc bán cổ phần có thể được bán trực tiếp tại các trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý.
- Quan điểm 7: Để thực hiện thành công chương trình cổphần hoá nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà còn cầnphải mất một khoản phí tổn nhất định như chi phí bảo hiểm, trợ cấp mất việc, chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi cho tầng lớp dân cư... Thực tiễn cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hóa để mưu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn làlợi ích trước mắt của việc thu hồi vốn đối với nhà nước.
- Quan điểm 8: Theo tinh thần quyết định 202- HĐBT thì các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật doanh nghiệp cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Bên cạnh đó, cùng với việc chuyển sang cổ phần hoá, nhà nước cần gấp rút xây dựng một đội ngũ cán bộ (đội ngũ các nhà sáng lập viên) độc lập không phụ thuộc vào hàng ngũ công chức ở các bộ chủ quản và địa phương để thay mặt nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổphần có sự tham gia cuẩ nhà nước. Ngoài ra còn phải xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt khu vực nhà nước và tư nhân.
- Quan điểm 9: Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Cùng với những quan điểm trên, Đảng đã chủ trương chỉ đạo thực hiện quá trình này thông qua một số chính sách và nghị quyết từ 1986-2002.
3.2. Tiến trình chỉ đạo cổ phần hoá (1986-2002).
Năm 1986 tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI có chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
Đến 11/1987 Hội đồng bộ trưởng (ngày nay là Chính phủ) có chủ trương cổ phần hoá một số bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là sẽ thí điểm ở một số ngành, lĩnh vực, sau khi tổng kết rút kinh nghiệm sẽ nhân rộng toàn quỗc.
Tháng 5/1990, Hội đồng bộ trưởng có quyết định 143/ HĐBT nhắc lại chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước.
11/1991, nghị quyết TWII khoá VII của Đảng đã chỉ rõ chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng ở phạm vi thích hợp.
08/06/1992: Hội đồng bộ trưởng có chỉ thị 202CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
04/03/1993: Ban hành chỉ thị số 84/TTg của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
07/05/96: Ban hành nghị định số 28/CP chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
06/1996: Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng có khẳng định “Cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá” va nhấn mạnh “ phải triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp để huy động thêm vốn, tạo động lực phát triển.”
26/03/ 1993: Nghị định số 25/CP về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP.
20/08/1997, thủ tướng chính phủ có chỉ thị 658/TTg về việc thúc đẩy cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước.
29/06/1998 thủ tướng chính phủ lại ban hành nghị định số 44/1998-NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần, thay thế nghị định 28/CP.
Năm 1999, Nghị định 103/ 1999 NĐ-CP có chủ trương thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cùng với đa dạng hoá về sở hữu.
09/2001, Nghị quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng lần thứ IX của Đảng khẳng định “ Mục tiêu của cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo nguời lao động tham gia, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh...”
26/04/2002, chính phủ ban hành quyết định số 58/QĐ-TTg về phân loại doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhà nước phải nắm toàn bộ sở hữu một số lớn các doanh nghiệp ở những lĩnh vực được coi là có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
19/06/2002, chính phủ ban hành nghị định số 64/NĐ-CP thay nghị định số 44/NĐ-CP, về việc xác định quyền được mua cổ phiếu của các tổ chức, cá nhân nguời Việt Nam và nước ngoài.
09/09/2002, Bộ tài chính ra thông tư số 79 hướng dẫn định giá tài sản doanh nghiệp và xác định cơ cấu chính phủ khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp.
12/07/2002 nghị định số 69/ NĐ-CP hướng dẫn thanh toán nợ đọng trong doanh nghiệp.
12/09/2002, thông tư số 80 của Bộ tài chính quy định về ưu tiên bán cổ phiếu cho nguời lao động, nhà sản xuất, cung ứng vật tư trong các doanh nghiệp nông, lâm ngư nghiệp với giá ưu đãi.
Như vậy, thông qua những thông tư chỉ thị Đảng và nhà nước ta đã thể hiện tính nhất quán và kiên trì với chủ trương cổ phần hoá nhằm đẩy nhanh thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
1. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 1986-2002.
Xét về tốc độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thì mặc dù Đảng ta đã có chủ trương sớm về cổphần hoá và đã theo sát chỉ đạo với nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn đồng thời đã tổ chức thí điểm rồi rút kinh nghiệm sau đó mới tiến hành rộng rãi nhưng tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm chạp. Theo như một vài số liệu thì từ 1992-1997 trong vòng năm ta cổ phần hoá được 28 doanh nghiệp nhà nước. Sau nghị định 44/NĐ- CP được chính phủ ban hành năm 1998 tốc độ cổ phần hoá mới được đẩy nhanh phần nào với 102 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm. Đến 1999, theo kế hoạch của thủ tướng chínhphủ dự định các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 tiến hành cổ phần hoá 450 doanh nghiệp nhà nước nhưng tổng kết lại ta chỉ tiến hành được 220 doanh nghiệp ( khoảng 49% kế hoạch). Tương tự, chỉ tiêu đặt ra năm 2000 là 337 doanh nghiệp nhưng ta chỉ hoàn thành được xấp xỉ 50% tức là 171 doanh nghiệp (có số liệu cho là 221 doanh nghiệp). Phương thức chung được sử dụng trong giai đoạn 1992-2000 là chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo loại hình cổ phầnhoá. Đến 2001-2002 các loại hình bán khoán và giẩi thể bắt đầu được đưa vào sử dụng. Cụ thể, trong 228 doanh nghiệp được đưa vào cổ phần hoá năm 2001 thì có 200 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 17 doanh nghiệp theo loại hình bán, 41 doanh nghiệp theo loại hình khoán, còn 30 doanh nghiệp là giải thể. Đến năm 2002, ta cổ phần hoá 139 doanh nghiệp trong đó 116 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 5 doanh nghiệp theo loại hình bán, 13 doanh nghiệp theo loại hình khoán còn lại 5 doanh nghiệp theo hình thức giải thể. Nếu tính theo quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu nhànước theo cơ quan chủ quản thì năm 2001 có 25 doanh nghiệp thuộc các bộ chủ quản ( bằng 8,3% tổng số doanh nghiệp chuyển đổi ), 255 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố quản lý (bằng 88,2%) và 8 doanh nghiệp thuộc các tổng công ty quản lý ( 3,5%). Đến tháng 9/2002 số doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi sở hữu thuộc các bộ chủ quản là 30 trong tổng số 139 doanh nghiệp (xấp xỉ 21,5%), 96 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố (xấp xỉ 69%) và 13 thuộc các tổng công ty ( xấp xỉ 9,5%).
Tính hết ngày 31/05/2001,trong số các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, số doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng chiếm 35%, từ 1-5 tỷ đồng chiếm 38,5%, từ 5-10 tỷ đồng chiếm 20,4% và trên 10 tỷ chiếm 6,1%. Hiện tại, nhà nước có cổ phần ở 367 doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chiếm 59,2%. Số công ty cổ phần nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ là 49 đơn vị (chiếm 8% ) trong đó số phần trăm cổ phần nhà nước nắm giữ cao nhất là 80% và thấp nhất là 4,9%. Về cơ cấu ngành nghề của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá có 57% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông...38% thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, 5% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản.
Về thị trường chứng khoán, sự ra đời của thị trường chứng khoán là một điều tất yếu, góp phần tạo ra một thị trường vận hành một cách đồng bộ, với sự hoạt động của thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường vốn. Thị trường chứng khoán giúp các công ty cổ phần nói riêng và doanh nghiệp nói chung điều tiết được việc phát hành cổ phiếu hay chứng khoán phù hợp với thị trường. Mặt khác, nó thúc đẩy công ty cổ phần làm ằn có hiệu quả kinh tế hơn, đoàng hoàng hơn. Bởi lẽ, với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác là những nhà quản lý các công ty cổ phần phải tính toán, làm ăn đoàng hoàng và hiệu quả kinh tế. Dân chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty kinh doanh đoàng hoàng và thành đạt.
Xây dựng thị trường chứng khoán trên cơ sở các doanh nghiệp mà nhà nước cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên đây mới chỉ là giải pháp mang tính đột phá nhằm góp phần thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán. Ơ nước ta, sau hơn mấy năm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với một số lượng lớn các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Với những thành công bước đầu đó, ngày 20/07/2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động, chính thức đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2001, ta có 5 loại cổ phiếu đi vào hoạt động ( REE, SAM, HAP, TMS, LAF )của 5 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phát triển tốt được chính thức niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung. Đến nay, đã có gần 20 loại cổ phiếu đang hoạt động trên thị trường. Sắp tới hứa hẹn có thêm nhiều doanh nghiệp nữa cũng tham gia vào hoạt động trong thị trường.
Tổng kết lại thì đến tháng 9/2002, cả nước ta đã có khoảng 990 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, trong đó 167 doanh nghiệp thuộc bộ ngành, 751 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố, 72 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91. Tuy nhiên so với chỉ tiêu đặt ra chỉ tiêu này chỉ chiếm 48% (trong chỉ tiêu 2000 doanh nghiệp được cổ phàn hoá). Số các doanh nghiệp nhà nước từ 12 300 doanh nghiệp (1991) đến nay còn khoảng 5200 doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp GDP tăng từ 36,5% đến 42%, đóng góp 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Nhà nước rút được gần 1500 tỷ đồng để đầu tư vào những nơi cần thiết, huy động được 2500 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội tham gia đầu tư vào các công ty cổ phần nhà nước, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hoá và phát huy vai trò chỉ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, theo điều tra của công ty tư vấn đầu tư và kinh doanh Hà Mịnh thuộc phòng Thương Mại và công nghiệp Việt Nam thực hiện với sự giúp đỡ và hợp tác của Ngân hàng Thế giới, Viện quản lý kinh tế TW và ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp thuộc văn phòng cổ phần thì sau khi cổ phần thì sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp đã đạt được các chỉ tiêu sau:
- Về tài chính: Hơn 90% doanh nghiệp khẳng định tình hình tài chính tốt hơn so với trước, 78% các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có doanh thu tăng so với trước đây, 83%số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có vốn kinh doanh so với trước, 91% số doanh nghiệp có lãi .
- Về vấn đề lao động và động lực lao động: Hơn 80% doanh nghiệp sau cổ phần hoá có chuyển biến rõ rệt về thu nhập cho người lao động và cán bộ quản lý. Về sự quan tâm của quản lý và lao động về lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh cũng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0939.doc