Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng & Giải pháp

Lời nói đầu Cùng với quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), Cổ phần hoá (CPH) DNNN là một quá trình tất yếu có tính phổ biến của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Bởi vì việc sắp xếp và chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần tiến lên hình thành các tập đoàn, công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. ở Việt Nam vấn đề CPH – DNNN được

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặt ra từ năm 1991. Thực tiễn 10 năm đổi mới đã khẳng định CPH – DNNN không phải là tư nhân hoá mà là quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu, tạo cơ sở cho đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tạo động lực cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời CPH – DNNN cũng không phải làm suy yếu nền kinh tế Nhà nước mà là một giải pháp quan trọng để kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo thật sự của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết Đại hội IX đã nhấn mạnh: “Thực hiện chủ trương CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả”. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công việc CPH-DNNN ở nước ta và từ những kiến thức, lý luận đã được trang bị ở trường kết hợp với kiến thức thực tế, em đã chọn đề tài: “Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu trong bài viết của mình. Vì CPH – DNNN là một chương trình gồm nhiều công việc, nhiều khâu, nhiều thủ tục phức tạp, cho nên trong quá trình nghiên cứu em chỉ tập trung đi sâu vào một số vấn đề về thực tế CPH – DNNN. Qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH diễn ra nhanh hơn nhằm đáp ứng và hoàn thành được kế hoạch mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Bài viết được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Phạm Văn Minh, nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Bố cục của đề tài được chia làm 3 phần: Phần I: Lý luận chung về CPH-DNNN Phần II: Thực trạng vấn đề CPH-DNNN ở nước ta hiện nay. Phần III: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN. Phần I Lý luận chung về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước I. Những vấn đề cơ bản về cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. 1. Những khái niệm chung. Cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hay nói cách khác chuyển đổi các DNNN thành Công ty cổ phần là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều cổ phần do tối thiểu hai cổ đông sở hữu, được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã góp. Đặc điểm của Công ty cổ phần. + Về thành viên công ty, trong suốt quá trình hoạt động phải có ít nhất 7 thành viên tham gia Công ty cổ phần. + Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phiếu. + Cổ phiếu được phát hành dưới hai hình thức: cổ phiếu có ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Các cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng; các cổ phiếu có ghi tên là cổ phiếu của các sáng lập viên thuộc Hội đồng quản trị Công ty và chỉ được chuyển nhượng theo các điều kiện quy định. + Trong quá trình họat động, Công ty cổ phần được phép phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra thị trường để huy động vốn. + Về chế độ trách nhiệm , Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khỏan nợ của công ty bằng các tài sản của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty đến hết giá trị các cổ phần mà họ sở hữu. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần: + Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của Công ty gồm tất cả các cổ đông. + HĐQT là cơ quan quản lý công ty gồm từ 3 - 12 thành viên. HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty từ những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐQT. + Giám đốc (Tổng giám đốc) Công ty: Là người tiến hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, là người đại diện pháp lý cho công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các quyền hạn, nghĩa vụ được giao. + Công ty có 2 kiểm soát viên do đại hội đồng bầu ra. Kiểm soát viên thay mặt các cổ đông kiểm soát các hoạt động của Công ty, chủ yếu là ccác vấn đề tài chính, vì vậy phải có ít nhất một kiểm soát viên có trình độ chuyên môn về kế toán. 2. Tại sao phải cổ phần hóa các DNNN? Trong thập kỷ 80, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành một hiện tượng chủ yếu có tính toàn cầu. Hoà chung với quá trình đó thì ở nước ta, vấn đề CPH - DNNN được đặt ra từ năm 1991, xuất phát từ tình hình kinh tế Thế giới và đặc biệt là tình hình kinh tế của Việt Nam, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, CPH - DNNN ở nước ta diễn ra với tốc độ chậm, do nhiều nguyên nhân trong đó có cả khách quan và chủ quan. ở đây, trước hết chúng ta phải khẳng định lại rằng,CPH-DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn, phù hợp với quá trình đổi mới, mở cửa, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, ở nước ta với khoảng gần 5.740 DNNN, nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Chỉ khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi, trong đó thực sự làm ăn có lãi chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, chưa đến 30%. Trên danh nghĩa, DNNN nộp tới 70 - 80% tổng doanh thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng nếu trừ khấu hao tài sản cố định và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được khoảng 30% tổng doanh thu cho ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, nếu tính đủ chi phí về tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì DNNN hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định, đăc biệt là máy móc thiết bị quá cũ, lạc hậu về kỹ thuật so với Thế Giới từ 2 đến 3 thế hệ, có ngành từ 4 đến 5 thế hệ. Hiện nay có đến 54% DNNN Trung ương và DNNN địa phương còn sản xuất bằng công nghệ thủ công. Quy mô DNNN còn nhỏ, vốn ít. Thực tế vốn hoạt động chỉ bằng 80% vốn ghi trong danh sách, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi- tài sản, vật tư, hàng hoá mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa được xử lý. Với thực trạng kỹ thuật và tài chính như trên, DNNN hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Ngân sách Nhà nước cũng không có khả năng cấp vốn và bao cấp cho DNNN như trước đây., Ngân hàng cho vay cũng đòi hỏi DNNN phải có những điều kiện đảm bảo như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các DNNN ở trong cái vòng luẩn quẩn, vốn thiếu nhưng không có cách nào để huy động. Để khắc phục những khó khăn đó, hiện nay CPH các DNNN được coi là một giải pháp lớn nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho DNNN đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra sức bật mới trong sản xuất kinh doanh. 3. Mục tiêu của CPH - DNNN CPH - DNNN nhằm đạt được 3 mục tiêu đã được cân nhắc kỹ theo thứ tự ưu tiên như sau: 3.1 Mục tiêu thứ nhất là phải chuyển một phần sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ nhất: Chúng ta hiểu rằng mục đích CPH - DNNN là chuyển quyền sở hữu cho các cổ đông, chứ không phải là quyền sử dụng - nghĩa là mua đứt bán đoạn, chứ không phải như cho thuê, cho vay. Thứ hai: Tài sản nói ở đây chủ yếu được thể hiện dưới hình thức tổng hợp và vốn. Vì vậy, không cần thiết phải xem là nên CPH phần nào: tư liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường thì sự chuyển hoá giữa hai hình thức là thường xuyên và không khó khăn gì. Thứ ba, như chúng ta đã biết, hiện nay các DNNN làm ăn rất kém hiệu quả. Đó vừa là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường mà làm ăn kém hiệu quả thì nhất định sớm muộn cũng bị phá sản. Vì vậy mục tiêu cao nhất cuối cùng của CPH là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của CPH là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng nếu duy trì sở hữu Nhà nước thì nhất định sẽ dẫn đến hiệu quả kém. Vì vậy mục tiêu số 1 của CPH là phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, tức là phải đa dạng hoá quyền sở hữu thì mới có thể nâng cao được hiệu quả của sản xuất kinh doanh. 3.2. Mục tiêu thứ hai là, phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng lấy ở đâu? Nhà nước không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho DNNN vay nếu DNNN không được cải tổ và có phương án làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho DNNN vay nếu giữ nguyên trạng họ chỉ có thể làm ăn với DNNN thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần… Vậy là muốn có vốn để đầu tư cho phát triển, DNNN chỉ có thể huy động được thông qua hình thức mua bán cổ phần. 3.3 Mục tiêu thứ ba của CPH- DNNN là tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Chúng ta đã phải trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực sự “ làm chủ tập thể” đã biến thành “vốn chủ” làm chủ thông qua “bộ tứ” đã biến thành “tự bố” tức là giám đốc quyết định tất cả ( QĐ217/HĐBT). Ngoài ra người lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ đều vô nghĩa chỉ là hình thức. Chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong HĐQT thì lúc đó người lao động mới có quyền làm chủ thực sự, không bị một sự o ép nào. 4. Nội dung của CPH 4.1 Đối tượng áp dụng CPH Đối tượng làm thí điểm CPH là các DNNN có đủ ba điều kiện sau: Thứ nhất: Là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Thứ hai: Các DNNN không thuộc diện nhà nước cần đầu tư 100% vốn (như an ninh, quốc phòng hoặc một số ngành then chốt) Thư ba: Các DNNN đang làm ăn có lãi hoặc tuy trước mắt gặp khó khăn nhưng tương lai hoạt động tốt. 4.2 Các phương pháp CPH – DNNN Hiện nay có một số phương pháp CPH - DNNN hay được sử dụng trên thế giới là: Bán cổ phần cho công chúng: Là việc nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng. Việc bán này thường được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian. Cũng có khi việc bán một số cổ phần cho công chúng được thực hiện cùng với các biện pháp khác như bán một phần nhất định cho một số nhà đầu tư được định trước. Bán cổ phần cho tư nhân: Thực hiện phương pháp này có nghĩa là: Nhà nước bán một phần hay một số cổ phần của doanh nghiệp thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của nhà nước cho một số cá nhân hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua đã được xác định trước. Những người quản lý và lao động mua doanh nghiệp. Phương pháp CPH thường được lựa chọn để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Phương pháp này tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng suất lao động, đồng thời cũng là cách giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể. Phương pháp này được áp dụng với kết quả rất hạn chế vì nó đòi hỏi cần phải có nguồn tài chính và tín dụng đảm bảo việc chuyển giao doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động. ở Việt nam hiện nay, CPH-DNNN được tiến hành theo ba phương pháp sau: + giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển. + Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp. + Tách một phận của doanh nghiệp có đủ điều kiện để CPH. 5. Xác định giá trị hiện có của doanh nghiệp Nhà nước trước khi CPH. Giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm CPH là giá trị thực tế của doanh nghiệp mà người bán và người mua cổ phần đều chấp nhận được, xác định bằng số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH đã được kiểm toán hợp pháp xác nhận. 5.1 Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp. DNNN trước khi chuyển thành công ty cổ phần, cần được tiến hành xác định giá trị theo các nguyên tắc: - Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH mà người mua, người bán đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả. - Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về địa lý, uy tín, mặt hàng (nếu có). Lợi thế ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn bình quân 3 năm trước khi CPH. Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Khi xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán được tính vào chi phí CPH. 5.2 Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp. - Trên sổ sách: + Số liệu giao vốn gần nhất. + Biên bản xét duyệt kế toán 3 năm trước khi CPH. + Toàn bộ chứng từ sổ sách liên quan. - Số liệu kiểm kê thực tế. + Tài liệu kiểm kê và tài sản tiền vốn, vật tư hàng hoá. + Biên bản đối chiếu công nợ các bên đã xác nhận. + Hợp đồng giấy phép liên doanh, liên kết (nếu có) + Các tài liệu khác về đầu tư tài chính. - Hiện trạng và giá trị hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hoá. 5.3 Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp. a. Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê tính theo công thức sau: Giá trị thực tế tài sản = Số lượng thực tế của từng tài sản x Giá thị trường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp x Chất lượng còn lại của tài sản (%) b. Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt nam theo tỷ giá liên ngân hàng công bố tại thời điểm gần nhất. c. Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu xác nhận. d. Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng) thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ sách kế toán. e. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa. g. Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ sách kế toán đã đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. h. Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì tính theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán. i. Đối với doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính thêm giá trị lợi thế vào giá trị thực tế của doanh nghiệp như sau: - Trường hợp giá trị lợi thế (như uy tín mặt hàng, vi trí địa lý) đã được đánh giá thì lấy số dư thực tế trên sổ sách kế toán để tính vào giá trị doang nghiệp. - Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để tính lợi thế theo công thức: Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp = Tổng số lợi nhuận thực hiện của 3 năm liền kề. Tổng số vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề. Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch = Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp - Tỷ suất lợi nhuận bình quânchung của doanh nghiệp Nhà nước cùng ngành nghề trên cùng địa bàn ( Tỉnh, Thành phố ) Giá trị lợi thế tính vào giá trị doanh nghiệp = Vốn nhà nước theo sổ kế toán bình quân của 3 năm liền kề x Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch x 30% Giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH là tổng các khoản nó trên ( a + b + c + d + e +g +h + i ). k. Những doanh nghiệp không thực hiện đúng qui định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét thuê tổ chức kiểm toán độc lập xác định. Tiền thuê kiểm toán được tính vào chi phí CPH. 5.4 Xác định giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là phần còn lại của giá trị thực tế doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả, kể cả số dư Quĩ phúc lợi, khen thưởng. 6. Ưu thế của CPH – DNNN. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và đầy rẫy những biến động, CPH – DNNN là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế Nhà nước, là giải pháp ưu thế trên nhiều mặt sau: Thứ nhất: CPH giải toả được bế tắc khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp CPH để tạo điều kiện cho nó mở rộng sản suất kinh doanh. CPH có chức năng thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản (vốn ), thu hút và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên lý kinh tế “ Tiền đẻ ra tiền” theo công thức: T – H – T’ (T’ > T). CPH có ưu điểm làm giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho nhà nước, Nhà nước có thể thu hồi bớt vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển toàn bộ xã hội, như đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi, giáo dục khoa học kỹ thuật. Thứ hai: CPH thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. CPH đảm bảo sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và thật sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó. Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động, sợ sệt, không dám mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh vốn là nhược điểm của một số cán bộ lãnh đạo DNNN. Biến họ từ vị trí công trức nhà nước thành nhà kinh doanh thực sự sống chết vì sự tồn tại và phát triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Thứ ba, CPH cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được sự chỉ đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doang nghiệp vì tập thể cổ đông giao phó và hoạt động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế, phi lợi ích, gây tác hại và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, thực hiện được quyền làm chủ và động lực thực sự cho công ty cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung chung trong các DNNN, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Thứ tư, CPH tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh dạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy điều hành của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị – Giám đốc điều hành, để kết hợp phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần, giải quyết thoả đáng cùng một lúc quyền lợi của người cổ đông có vốn với người lao dộng tham gia sức lao động trong quá trình sản suất, kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể được lựa chọn và thuê từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành công cho đổi mới, quản lý, cải tiến công ty cổ phần. Thứ năm, CPH tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ, tự động trong quan hệ tự nguyện liên doanh liên, kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh. II. Những yếu tố tác động đến quá trình CPH - DNNN ở nước ta. Công việc CPH các DNNN ở nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc thù với những yếu tố thuận lợi và khó khăn nhất định, cụ thể là: 1. Về các yếu tố thuận lợi - Điều kện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp họat động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện CPH các DNNN. - Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề CPH các DNNN và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình CPH DNNN như luật công ty, Quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nước, Nghị định 338- HĐBT về thành lập và giải thể DNNN, đặc biệt là quyết định 202- HĐBT và chỉ thị 84-TTg của thủ tướng Chính phủ về thí điểm CPH một số DNNN… Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và liên Bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện. - Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì theo hướng tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được CPH. - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giẩ ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được CPH. - Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho công việc thực hiện CPH các DNNN. - Với luật đầu tư nướcc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước nngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH. - Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nướcc trên thế giới trong quá trình CPH - DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam. 2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở - Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng. - Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện, vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho việc CPH đó là: Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ,… chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình CPH các DNNN. Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp.. do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu. Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước… Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành CPH các DNNN. Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu…Những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được CPH…và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này. 3. Chủ trương và chính sách của Chính phủ về CPH – DNNN Mặc dù quan niệm và phương thức tiến hành CPH DNNN ở mỗi nước có những khác biệt nhất định, song đều nhằm mục đích chung là tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá không ngừng tăng lên của xã hội. Để tạo cơ sở pháp lý cho CPH - DNNN, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng đổi mới, thông thoáng hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Chủ trương CPH - DNNN được Chính phủ đề ra tại điều 22 của quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1997 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) và đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết khoá họp thứ tư Quốc hội Khoá VIII, song vì chưa có hướng dẫn của các bộ, ngành chức năng nên chỉ có số ít các DNNN triển khai thực hiện và mỗi nơi làm một kiểu, dẫn đến tình trạng rời rạc không hiệu quả. Chỉ đến khi có quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ), kèm theo đề án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần, thì chủ trương này mới thực sự được tiến hành có tổ chức, có hệ thống. Mặc dù vậy vẫn còn phải có sự đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ bằng chỉ thị số 84/TTg ngày4/3/1993, Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ tài chính, thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ lao động thương binh và xã hội thì CPH mới thực sự đi vào sự nghiệp cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. CPH một số DNNN là một chủ trương đúng đắn, song phải mất một thời gian dài, chính thức là 5 năm, từ phác thảo đến mô hình, cách đặt vấn đề cho đến lúc triển khai thực hiện một cách có tổ chức có hệ thống. Doanh nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau: DNNN chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy địng của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (thuế TNDN) trong hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đựơc miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN-CPH thành sở hữu của Công ty cổ phần. Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như áp dụng đối với DNNN. Được tiếp tục XNK hàng hoá theo các chế độ quy định hiện hành như đối với DNNN trước khi CPH. Trước khi CPH được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0785.doc
Tài liệu liên quan