Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Lời nói đầu Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi DN thì các DN thuộc khu vực kinh tế nhà nước đã bộc lộ rõ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu nhà nước v

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à cải cách khu vực kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò của nó theo tinh thần các nghị quyết đại hội VI,VII,VIII và IX của Đảng. Vấn đề này đã được nhiều nhà kinh tế học, lý luận học nghiên cứu kỹ lưỡng và họ đã đưa ra được những giải pháp cơ bản, phù hợp với tình hình kinh tế nước ta hiện nay. Một trong những biện pháp có tính chiến lược nhất là: “tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm đa dạng hoá sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường”. Xét trên mức độ quan trọng của chiến lược này, đồng thời cũng là giải pháp có tính phổ biến để cải cách khu vực kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới, nên em quyết định chọn đề tài nghiên cứu là: “Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” Chương trình CPH đã được triển khai từ giữa năm 1992, theo tinh thần của Quyết định 202/CT-HĐBT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành Công ty cổ phần (ngày 08/06/1992). Cho đến nay, những thành công mà chương trình CPH mang lại không phải là ít nhưng vẫn tồn tại những bất cập cần kịp thời nhìn nhận và tháo gỡ. Trong khuôn khổ bài viết nghiên cứu này chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất một số giải pháp cho thời gian sắp tới. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Tiến sĩ Hà Đoan người đã tận tình hướng dẫn em về cách thức nghiên cứu và hoàn thành bài viết này. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I Một số vấn đề lý luận về Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà NƯớc 1.1. Cơ sở khoa học cho tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Cổ phần hoá chính là quá trình “Chuyển một DNNN thành một công ty cổ phần”.Vậy câu hỏi đặt ra là: “Công ty cổ phần có phải mô hình doanh nghiệp thích hợp nhất với những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường hay không”.Trả lời câu hỏi này chính xác là xác định rõ cơ sở khoa học cho định hướng chuển đổi các DNNN hành công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. 1.1.1.Lịch sử hình thành công ty cổ phần, đặc điểm vận động và phát triển của sở hữu tư nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường: Sở hữu xét về bản chất là quan hệ sở hữu của con người đối với tự nhiên thông qua lao động sản xuất. Không có lao động thì không có sự chiếm hữu nào cả và do đó cũng không thể có sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường, lao động của con người mang tính hai mặt: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Do đó, sở hữu tư nhân được thực hiện trong quá trình lao động. Sản xuất cũng mang tính hai mặt: sở hữu mang tính xã hội - phản ánh sự tìm kiếm và tăng thêm giá trị động lực, mục đích của sở hữu, mặt khác sở hữu lại mang tính chất tư nhân - phản ánh sự chiếm hữu một giá trị sử dụng nhất định dưới dạng hàng hoá hay dịch vụ nhất định. Điều này cho thấy, chỉ từ khi của cải mang hình thái là một giá trị thì do tính chất hai mặt của nó, sở hữu đã trở thành một quan hệ giá trị vận động. Các hình thức chiếm hữu tư nhân cụ thể chỉ là phương tiện để bảo tồn và tăng thêm giá trị như là mục đích của sự sở hữu. Sự vận động mang tính chất hai mặt này của sự sở hữu cho phép có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh, trong đó quyền sở hữu chỉ là việc nắm quyền chi phối giá trị nhằm mục đích tìm kiếm một giá trị lớn hơn, còn quyền kinh doanh là thực hiện một hoạt động cụ thể nhất định để tạo ra giá trị - nó là phương tiện để tăng giá trị. Chính nhờ sự tách biệt này đã cho phép một chủ sở hữu tham gia nhiều hoạt động kinh doanh và ngược lại, một hoạt động kinh doanh có nhiều chủ sở hữu tham gia. Nhờ đó nó đã góp phần tạo ra những tầng lớp thực lợi trong xã hội. Không trực tiếp kinh doanh nhưng vẫn thu lợi bằng quyền sở hữu của mùnh. Có thể nói, nhờ có sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, tính chất hai mặt của sở hữu mới thực sự được bộc lộ và ngày càng phát triển cùng với quá trình xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Trong lịch sử, quá trình này được thực hiện bởi hai nhân tố: + Thông qua trao đổi: Quá trình vận dộng xã hội hoá sở hữu chuyển hoá theo xu hướng tư liệu sản xuất ngày càng tách ra khỏi bản thân người lao động như là những người tư hữu nhỏ và các tư liệu sản xuất ngày càng tập trung lại trong quá trình xã hội hoá với sự thống trị của tư bản (lúc ban đầu là tư bản thương nghiệp về sau là tư bản nông nghiệp và ngày nay là tư bản tài chính). + Thông qua sự phát triển của chế độ tín dụng: (bao gồm tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng). Quá trình vận động xã hội hoá sở hữu được thực hiện theo xu hướng: một mặt nó làm cho hình thức chiếm hữu tư nhân phụ thuộc lẫn nhau bởi các quan hệ kinh tế móc xích chằng chịt với nhau và dần dần hoà nhập vào nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội, mặt khác nó làm cho các hình thái chiếm hữu được tập chung lại trên phạm vi xã hội. Nhờ quá trình này việc mở rộng quy mô kinh doanh không còn phụ thuộc vào sự tích tụ của từng chủ sở hữu riêng lẻ, mà thông qua các hình thức tín dụng cơ chế tập trung tư bản xã hội và mở rộng quy mô kinh doanh lên gấp nhiều lần. Như vậy sự phát triển của hệ thống trao đổi và tín dụng đã giúp cho quá trình xã hội hoá sở hữu tư nhân đạt đến trình độ cho phép hình thành hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và công ty cổ phần.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các bộ phận trên ngày càng gắn kết với nhau tạo thành bộ máy xã hội khổng lồ thúc đẩy quá trình xã hội hoá nền sản xuất. Càng về sau sự phát triển đó càng đòi hỏi tham gia của nhà nước như một chức năng kinh tế xã hội để đảm bảo tính định hướng và sự phát triển nền kinh tế thị trường. 1.1.2.Công ty cổ phần là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Về mặt lý thuyết chúng ta đều thấy rằng hình thái doanh nghiệp dưới dạng công ty cổ phần chính trị là sản phẩm của một quá trình tiến hoá lâu dàI gắn liền với những nấc thang phát triển của xã hội hoá sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử chúng ta có thể nhận thấy quá trình tiến hoá của các hình thái doanh nghiệp được đặc trưng bởi 3 loại hình chủ yếu tương ứng với 3 mức độ phát triển của xã hội hoá sở hữu tư nhân, mặc dù biểu hiện chung gian giữa chúng hết sức linh hoạt và đa dạng. + Hình thái kinh doanh một chủ. + Hình thái kinh doanh chung vốn. + Hình thái công ty cổ phần. Hình thái công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự phát triển của hình thức tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung vốn, huy động vốn trên thị trường tài chính sang huy động vốn trực tiếp, chủ yếu là qua thị trường chứng khoán. Trong hình thái kinh doanh này có hai loại hình chủ yếu: công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Có thể thấy rằng công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không đáp ứng được đó là: * Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình. * Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần, một bên là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn. * Các cổ phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo ra sự di chuyển linh hoạt các nguồn vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của công ty và công chúng. Tóm lại, công ty cổ phần ra đời đã đóng góp vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc hình thành công ty cổ phần theo Mác đã: “trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân, còn các xí nghiệp của nó biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuôn khổ của bản thân phương thức sản xuất TBCN”. 1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các DN luôn phải đấu tranh với nhau vì sự tồn tại và phát triển của mình. DN nhỏ hạn chế về vốn thiếu tiềm năng để phát triển khoa học công nghệ nên sức cạnh tranh kém, bị các DN lớn chèn ép mất nhiều lợi thế trên thị trường. Chính vì vậy, các DN nhỏ chọn giải pháp góp vốn (góp cổ phần) với nhau tạo thành DN lớn hơn tức là các công ty cổ phần. Các công ty cổ phần này có khả năng cạnh tranh lớn đủ để đứng vững trên thị trường. Bản thân các DN lớn muốn giữ được lợi thế của mình cũng phải đổi mới liên tục, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Các DN đó huy động vốn bằng cách đầu tư vốn của mình vào các DN khác thông qua hình thức mua cổ phiếu các công ty cổ phần hoặc bán cổ phiếu của mình cho nhiều DN và cá nhân. Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng hoá về các loại hình sở hữu. Đó là một chủ trương đúng đắn để khôi phục lại nền kinh tế nước nhà sau chiến tranh và sau những hậu quả mà cơ chế quản lý kinh tế cũ đem lại.Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để - trong đó CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động có hiệu quả hơn. 1.2.1. Tại sao phải chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần? Do đặc điểm nước ta vừa thoát khỏi cơ chế bao cấp nên những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại ở đại bộ phận các doanh nghiệp. Vì thế, khi chuyển sang cơ chế mới các DNNN thường làm ăn kém hiệu quả, không có lãi. Lúc đó Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ, bao cấp. Tài trợ là một sách lược luôn luôn cần thiết nhằm đảm bảo cho các DNNN hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Còn bao cấp là một việc không đáng làm, nó chỉ làm cho các doanh nghiệp ngày càng ỷ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm mà nhà nước lại phải bù lỗ. Trong điều kiện ngân sách luôn thiếu hụt thì đây thực sự là một gánh nặng nếu DN này thực ra là không cần phải duy trì hình thức quốc doanh. Theo báo cáo của Ban đổi mới DN Trung ương, năm 1996 tổng số nợ là 174.797 tỉ đồng khả năng thanh toán rất thấp, nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỉ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với nhiều DNNN. Nhiều DN còn phải dựa vào sự bao cấp rất lớn của nhà nước. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các DN còn phải vay tới 85% vốn Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Tuy vẫn có một số ít DNNN làm ăn có hiệu quả, phát triển được nhưng tốc độ tăng trưởng không đều giữa các ngành và chưa tạo ra sự liên kết phát triển bền vững. Thông thường các DNNN có quy mô nhỏ bé và dàn trải về ngành nghề. Do dàn trải về ngành nghề từ sản xuất đến thương mại và dịch vụ, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư của Nhà nước rất hạn chế đã gây chi phối xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý của Nhà nước, không tập trung được cho những ngành, lĩnh vực then chốt. Thiếu vốn cũng là nguyên nhân làm cho công nghệ của chúng ta không cải thiện được, dẫn đến năng lực cạnh tranh kém: sản phẩm làm ra thường kém chất lượng, giá cả lại cao, không có thị trường tiêu thụ (chỉ khoảng 15% đạt chất lượng xuất khẩu) nên cũng thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và thế giới. Các máy móc, thiết bị được trang bị thường nhập từ nhiều nước với các chủng loại và thế hệ rất khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Do nhiều lý do khác nhau không ít trường hợp chúng ta nhập khẩu những máy móc không đúng tiêu chuẩn và quy cách, thường là công nghệ thải của các nước phát triển được tân trang lại. Hơn nữa, việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề chưa được chú trọng hoặc chưa phù hợp với xu thế phát triển, chưa có những ràng buộc về mặt lợi ích để người lao động phát huy hết khả năng của mình, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí... rất khó kiểm soát đang là những nhân tố làm khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh những khó khăn chủ quan xuất phát từ nội bộ nền kinh tế, thì các tác động tiêu cực do hội nhập kinh tế thế giới mang lại như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định vững chắc không những cho các năm trước mắt mà cho cả tương lai lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) của Đảng đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các DNNN, phấn đâú đưa chúng thực sự trở thành lực lượng chủ đạo dẫn dắt các DN thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế thế giới có hiệu quả. Tiếp theo, Chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTg ngày 21/4/1998, trong đó đã đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu DN hợp lý mạnh mẽ được quản lý tốt. CPH là một trong 4 nội dung quan trọng của quá trình đổi mới sắp xếp (bao gồm: Đổi mới cơ chế quản lý DNNN; tổ chức lại, củng cố và hoàn thiện Tổng công ty Nhà nước; CPH DNNN và áp dụng các hình thức giao, bán, khoán, cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ). 1.2.2.Cổ phần hóa là gì? Cổ phần hoá là quá trình chuyển DNNN thành một công ty cổ phần. Qua CPH hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và chính từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành công ty cổ phần và hoạt động theo Luật Công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo. 1.2.3. Mục tiêu của cổ phần hóa Cổ phần hoá DNNN là một quá trình lâu dài và phức tạp nhưng lại là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với mục tiêu nhất quán như sau: - Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Huy động vốn trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ nhằm tăng tài sản mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. - Tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm ngăn chặn tiêu cực, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy CPH DNNN là sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế nhân dân để phát triển đất nước chứ không phải để tư nhân hoá. 1.3 Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước. Qua kinh nghiệm một số nước ta thấy rằng CPH là quá trình vô cùng khó khăn, phức tạp không thể thực hiện ào ạt thiếu thận trọng (đặc biệt là CPH DNNN). Từ đầu thập kỷ 90 đã diễn ra một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường ở Đông Âu, Liên Xô (cũ) và một số nước Châu á, mà song song với nó là quá trình cải cách các doanh nghiệp, trong đó có CPH. Nhìn chung các nước này đều tiến hành theo một trong hai mô hình là: mô hình liệu pháp sốc (chủ yếu ở Nga) và mô hình chuyển đổi dần dần (chủ yếu ở Trung Quốc). Theo mô hình liệu pháp sốc các nước đều nhanh chóng tư nhân hoá mạnh mẽ các DNNN. Họ cho rằng việc tư nhân hoá mạnh mẽ các DNNN sẽ thúc đẩy đầu tư trên toàn xã hội, các doanh nghiệp sau khi tư nhân hoá sẽ hoạt động với hiệu quả và chất lượng tốt hơn. Nhưng kết quả ở một số nước chuyển đổi theo mô hình này lại trái ngược với sự mong đợi của các nhà cải cách cũng như hy vọng của chính người dân các nước này. Có thể rút ra một số đánh giá chủ yếu sau: do tư nhân hoá quá nhanh các DNNN đã dẫn đến hậu quả không lường trước là sản xuất công nghiệp nhanh chóng bị đình đốn, giảm sút và rối loạn; các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ nhân dân trở nên hết sức khan hiếm, lạm phát, thất nghiệp tăng lên, đời sống đa số người lao động lâm vào cảnh khó khăn; do không ổn định cả về kinh tế, chính trị và xã hội nên đầu tư trên toàn xã hội không tăng mà lại giảm đi. Như vậy, hy vọng vào sự xuất hiện các DN tư nhân hoạt động có hiệu quả để bù đắp sự thiếu hụt này đã không diễn ra trong phút chốc mà đòi hỏi phải có thời gian và quá trình tích luỹ kinh nghiệm. Ngược lại ở một số nước Châu á tiêu biểu là Trung Quốc, quá trình này được tiến hành từ từ, từng bước, giảm dần sự can thiệp và hỗ trợ từ Nhà nước để cho các doanh nghiệp này có thời gian và điều kiện về vốn, kinh nghiệm, thị trường để đứng vững. Đồng thời tiến hành kết hợp với các chính sách xã hội là một trong số các yếu tố tạo nên thành công ở các nước này. Do đặc điểm, điều kiện của các nước là khác nhau, tiến hành CPH tại các thời điểm không giống nhau nên kết quả thu được cũng có sự khác biệt khá lớn. Vì vậy, mỗi nước phải tự mình xây dựng cho mình một con đường riêng, rập khuôn theo mô hình các nước đi trước là sai lầm. Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN nên CPH ở nước ta cũng mang những nét riêng. Con đường chúng ta đi hoàn toàn mới mẻ do đó thành công hay thất bại ở các nước khác không thể là bài học tốt nhất cho ta. Nói như vậy không có nghĩa là bỏ qua kinh nghiệm của các nước đi trước mà nên xem xét ở mức độ tham khảo. Nhìn chung vấn đề nổi cộm hầu hết các nước tiến hành CPH đều gặp phải đó là: - Quan điểm về sở hữu. - Hệ thống Pháp luật. - Các công việc có tính chất chuyên môn của CPH. - Công tác hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện CPH. Vì thế, dù CPH một số DNNN là rất cần thiết nhưng không thể nóng vội, lại càng không thể áp đặt những ý muốn chủ quan mà phải kiên trì, từng bước và tạo ra các tiền đề cần thiết để tiến trình CPH diễn ra thông suốt. Sự nghiệp CPH các DNNN phải tính đến hàng chục năm chứ không thể làm xong trong vài tháng hay vài năm. cHƯƠNG II Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và thực trạng Cổ phần hoá 2.1.Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trương CPH một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 : - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 11/1991)đã ghi: “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. Quán triệt tinh thần này, các triển khai của Chính phủ trong lĩnh vực CPH là khá thận trọng.Theo các QĐ 143/ HĐBT (10/5/1990) và QĐ 202/CT(4/3/1993) tức là những văn bản đầu tiên về CPH DNNN, thì CPH DNNN được hiểu là qua trình chuyển một số DNNN vừa và nhỏ làm ăn có lãi hoặc triển vọng có lãi, nhà nước không cần giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Cổ phần được ưu tiên bán cho người lao động trong DN, hoặc DNNN khác, hạn chế bán cổ phiếu cho tư nhân trong nước và người nước ngoài. Thực hiện Quyết định số 202/CT, các bộ ngành đã hướng dẫn các DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần: 1. Nhà máy Xà phòng Việt Nam (Thuộc Bộ Công nghiệp). 2. Nhà máy Diêm Thống Nhất (Thuộc Bộ Công nghiệp). 3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Thuộc Bộ Nông nghiệp). 4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình (Thuộc Bộ Nông nghiệp). 5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Thuộc Bộ Thương mại). 6. Xí nghiệp Dệt da may Legamex (TP HCM). 7. Xí nghiệp sản xuất bao bì (TP HN). Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Legamex, Nhà máy Xà phòng Việt Nam v.v... Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chỉ đạo của DNNN (số 10 NQ/TW ra ngày17/3/1995) đã chỉ rõ: “thực hiện từng bước vững chắc CPH một bộ phận DN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Tuỳ tính chất loại hình DN mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên.... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”.. Đến năm 1996, Đảng và Nhà nước tiến hành tổng kết công tác thí điểm và quyết định chuẩn hoá chủ trương CPH DNNN như một quá trình lâu dài với kế hoạch bài bản. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, mục đích, nội dung, hình thức, bước đi của CPH đã được vạch rõ. Nghị quyết Đại hội VIII nêu rõ: “ tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật để triển khai tích cực, vững chắc CPH DNNN nhằm huy động vốn, tạo động lực mới thúc đẩy DN làm ăn có hiệu quả, làm tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, là sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế nhân dân để phát triển chứ không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những DN 100% vốn nhà nước, sẽ có những DN mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động ở DN, cho tổ chức và cá nhân ngoài DN tuỳ trường hợp cụ thể; vốn thu được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh’’. Nhà nước và doanh nghiệp sau 4 năm thực hiện đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi chế độ về CPH, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra Nghị quyết số 28/CP thay cho Nghị quyết số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện Nghị định 28/CP công tác CPH đã được quan tâm hơn, các ngành các cấp đã triển khai một số việc sau: - Củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban Chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập các Ban Chỉ đạo CPH ở địa phương. - Một số bộ, địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương, chính sách về CPH DNNN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Xây dựng, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Bình Định, tỉnh Quảng Ninh.... Tuy nhiên, còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp hiểu chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân gây chậm chễ trong quá trình triển khai thực hiện CPH doanh nghiệp. Điểm mới của NĐ28/CP so với quyết định 202/CT là ở chỗ: - Mở rộng đối tượng CPH ra tất cả các DN vừa và nhỏ, kinh doanh có hiệu quả mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. - Bổ sung thêm hình thức CPH một bộ phận DN. - Xác định rõ chủ thể CPH: DNNN có vốn trên 3 tỷ. - Mở rộng ưu đãi cho DN CPH và người lao động mua cổ phiếu như : giảm thuế thu nhập 50% trong 2 năm sau CPH; miễn thuế trước bạ chuyển đổi sở hữu tài sản sang công ty cổ phần…Người lao động thay vì được mua trả chậm trong 12 tháng như trước đây nay được cấp không một số cổ phiếu và mua trả chậm trong 5 năm… Từ khi có Nghị định số 28/CP, đã thực hiện CPH được 13 DN, số DN đang tiến hành ở các bước xác định giá trị doanh nghiệp, kiểm toán là 30 doanh nghiệp. Đầu năm 1998 có khoảng 18 doanh nghiệp thực hiện CPH chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty. Trong số 18 DN có 1 doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty Đầu tư sản xuất và Thương mại Hà nội (Xí nghiệp Mộc). Còn lại 17 công ty cổ phần, Nhà nước nắm ít nhất 18%, cao nhất là 51% cổ phần công ty; cổ đông do người lao động trong công ty chiếm từ 18 - 50%; cổ phần còn lại là do cổ đông ngoài xã hội nắm giữ. Hầu hết các công ty này sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi đều có lợi. Sau một thời gian thí điểm và rút kinh nghiệm, tại Thông báo số 63/TB-TU ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã tổng kết và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triển khai vững chắc CPH DNNN. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về “Chuyển DNNN thành công ty cổ phần, kèm theo phụ lục danh mục các loại DNNN để lựa chọn CPH”. Theo phụ lục này chỉ có một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa CPH và một số doanh nghiệp quan trọng Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các DNNN đều chuyển thành công ty cổ phần. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nghị định số 44/CP lần này có những điểm mới, thông thoáng, với những quy định cụ thể, chặt chẽ sát với thực tế cuộc sống, giải quyết những băn khoăn thắc mắc thường vấp phải của nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH. Chẳng hạn như: - Về đối tượng huy động vốn cổ phần không chỉ bó khung trong công nhân viên chức mà theo hướng mở rộng “huy động vốn toàn xã hội”. - Về nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH. Để thực hiện Nghị định 44/CP Bộ Tài chính đã có Thông tư 104/1998/TT-BTC hướng dẫ cách tính toán cụ thể giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp và xác định lợi thế của doanh nghiệp qua tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi CPH (chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp). - Về chính sách ưu đãi đối với người lao động khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần được xác định tương đối cụ thể và thỏa đáng: mỗi năm làm việc người lao động được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 100.000đ/cổ phần) với mức ưu đãi giảm giá 30% (tổng giá trị ưu đãi cho tập thể người lao động không vượt qúa 20 % tổng giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng đối với DNNN có vốn tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp thì tổng giá trị ưu đãi cho tập thể người lao động không vượt quá 30%). Đối với lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 30% và trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi.... (số cổ phần dành cho người lao động nghèo mua trả dần không được vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi). Có thể nói việc giải quyết quyền lợi của người lao động trong DNNN được CPH theo quy định của Nghị định 44/CP là tương đối hợp lý, hợp tình có tác dụng thu hút người lao động tham gia tích cực vào CPH DNNN. Như vậy,CPH DNNN ở Việt Nam trước hết là một yêu cầu bức xúc từ thực tế và hình thành do thúc đẩy bằng thực tiễn thử nghiệm hơn là ứng dụng từ một mô hình lý thuyết của nước ngoài.Chính vì thế có thể nói CPH mang tính đặc thù ở Việt Nam với những đặc trưng riêng biệt. Những thành tựu đạt được. Từ chủ trương thí điểm CPH DNNN bắt đầu bằng quyết định số 143/HĐBT ngày 10.5.1990 đến đầu tháng 3.2002 cả nước đã có 772 DNNN chuyển sang hoạt động dưới hình thước công ty cổ phần. Đến ngày 31.8.2002 cả nước đã có 828 DNNN và bộ phận DNNN được CPH trong đó năm 1993 là 2, năm 1994 là 1, năm 1995 là 2, năm 1996 là 5, năm 1997 là 5, năm 1998 là 105, năm 1999 là 250, năm 2000 là 198,năm 2001 là 149 doanh nghiệp.Có 10/17 tổng công ty 91 và 52/61 tỉnh thành có DNNN CPH. Tính đến tháng 12/2002 Việt Nam đã có 912 DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Kết quả CPH DNNN trong thời gian qua là rất tích cực, không chỉ ở số lượng Ddoanh nghiệp hoàn thành CPH, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu của các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi. Đánh giá về thành công của chủ trương này ta hãy xem xét những mục tiêu đạt được: - Về huy động vốn: theo tính toán của các nhà kinh tế, trong dân hiện còn một nguồn vốn nhàn rỗi khoảng 8 tỷ $. CPH chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế nếu doanh nghiệp hoạt động sản xuất có hiệu quả. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là một chiến lược lâu dài. Thống kê 631 DNNN CPH (tính đến ngày 31.5.2001) tổng số vốn nhà nước được đánh giá trước khi CPH là 2.388 tỷ đồng thì khi đánh giá lại đã là 2.714 tỷ đồng tăng 13,7% so với trước khi CPH và bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp. Đồng thời các doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng cũng có xu hướng tăng (năm 2000 chiếm 6% và đến ngày 31.5.2001 chiếm 9,9%) các doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ dồng giảm tương ứng. Xét trong bối cảnh nhiều DNNN lỗ vốn, thâm hụt vốn mới thấy ý nghĩa của kết quả này. Không những thế số tiền Nhà nước thu lại được nhờ việc bán cổ phần đã gần đạt con số nghìn tỷ dược dùng đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Về số tuyệt đối thì đây chưa phải là lớn, nhưng về mặt tỷ lệ thì rất đáng kích lệ. Phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khi CPH được xác định lại, nhìn chung đều tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không mất đi mà được tăng lên, hơn nữa còn thu hút thêm được một nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. - Về đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần do có Hội đồng Quản trị và cao hơn là Đại hội Cổ đông nên hoạt động tài chính của doanh nghiệp thường xuyên được giám sát. Lợi ích của doanh nghiệp được gắn chặt với lợi ích của cổ đông nên người lao động trong doanh nghiệp là những chủ nhân thực sự. Cũng thông qua đại hội cổ đông và hội đồng quản trị trí tuệ tập thể đã được phát huy, nhờ đó mà phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới cho phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế xã hội. Theo thống kê của Ban đổi mới quản lý Trung ương, các doanh nghiệp sau CPH đều làm ăn có hiệu quả. Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn đều tăng. - Về doanh thu: bình quân các doanh nghiệp đều tăng gấp 2 lần so với trước._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0863.doc
Tài liệu liên quan