Cổ phần hóa

Lời mở đầu Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một trình độ nhất định doanh nghiệp cũng trở thành hàng hoá khi nhu cầu mua và bán và đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động định giá trở nên sôi động và ngày càng được chú trọng trong cac cuộc cải cách doanh ngiệp nhà nước ,cổ phần hoá là giải pháp mang tính đột phá giải quyết vấn đề cơ bản là sở hữu doanh ngiệp .và do đó tạo ra môi trường động lực to lớn giúp cho doanh ngiệp nhà nước sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần có tôc đ

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cổ phần hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ tăng trương theo cấp số nhân toàn diện thì vẫn đề xác định giá trị doanh ngiệp là không thể thiếu để đảm bảo quyền lợi người mua và người bán cung như quyền lợi các thành viên công ty cổ phần ,trong quấ trinh chuyển đổi .đây là một đề tài gây ra nhiều tranh luận trên các diễn đàn kinh tế cả về lý luận lẫn thưc tiến trong mấy chuc năm qua .từ tính chất bức thiết của nó tôi quyết định chọn đề tài ((xã định giá trị doanh ngiệp trong quá trình cổ phần hoá dôanh ngiệp nhà nước )).trong quá trình cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ở Việt nam đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó nó còn có nhiều thiếu sót và hạn chế cần ngiên cứu đưa ra phương pháp đúng đắn nhàm phát triển hoàn thiện hơn nứa .trong những yếu tố đó là viêc xác định giá trị doanh ngiệp trong quá trinh cổ phần hoá đây là nhân tố quan trọng trong quá trinh cổ phần hoá ,đảm bảo quyền lợi nhà nước trong công ty cổ phần ,vi vầy tôi quyết định chọn đề tài này để nhằm củng cố thêm kiến thức của mình về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần mà cốt lõi là vẫn đề xây dựng giá trị doanh ngiệp trong quá trình cổ phần hoá . Phần I: những vấn đề chung cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước I.1 Quan niệm cổ phần hoá. Xét về mặt hình thức cổ phần hoá là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí ngiệp cho các đối tượng cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý hay công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần Xét về mặt thưc chất cổ phần hoá chính là thực hiện xã hội hoá sở hữu chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hinh doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường đáp ứng nhu cầu kinh doanh hiện đại I.2. Vì sao cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp từ đây dẫn tới những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nươc đã bộc lộ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng .vì vậy chuyển sang hình thức mới là công ty cổ phần Trong công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ gắn chặt với những thành bại hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vì thế họ rất đoàn kết gắn bó thống nhất trong công việc tìm kiếm đứa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất hoạt động của doanh nghiệp nhằm củng cố tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra quan tâm đến công việc sản xuất của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao , khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp , xoá tình trạng vô chủ của doanh nghiệp . mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp nhà nước là giải pháp đạt kết quả nhất định nhưng chỉ mới đẩy lùi được chế độ bao cấp nhà nước đối doanh nghiệp nhà nước , còn về phần thức thì tài sản doanh nghiệp nhà nước vẫn là tài sản chung cho nên tình trạng vô trách nhiệm ,láng phí của công vẫn chưa được khắc phục . khi doanh nghiệp nhà nước trở thành công ty cổ phần thì điều này mằc nhiên sẽ không còn tồn tại . Doanh ngiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng ,cấu thành khu vưc kinh tế nhà nước ,vì thế vai trò chủ đạo thành phần kinh tế này phụ thuộc nhiều hiệu quả kinh tế xã hội mà doanh nghiệp nhà nước mang lại nước ta cũng giống như những nước xã hội chủ nghĩa trước đây ,thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,lấy việc mở rộng và phát triển cac doanh nghiệp nhà nước làm muc tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội nên đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế và dựa trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ngân sách nhà nước , tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm sóat và chi phối trưc tiếp của nhà nước song cũng giống như nhiều nước trên thế giới ,các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hết sưc kém hiệu quả ,ngày càng bộc lộ những điểm yếu ,đặc biệt là cấp địa phương quản lý Tỷ trọng tiêu hao vật chất :tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực nền kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp hai lần so nền kinh tế tư nhân . Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất cho một đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so mức trung bình trên thế giới .VD:chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1.88 lần , sản phẩm cơ khí bằng 1,3-1,8 lần , phân đạm bằng 2,35 lần . mức tiêu hao nang lượng của cac doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng cao hơn mức trung bình của các nước trên thế giới ,VD; sản xuất giầy gấp 1,26 lần ,hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần than bằng 1,75 lần …… Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước thấp và không ổn định : Trung bình trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ; 65%số sản phẩm đạt chất lượng dưới trung bình để tiêu dùng nội địa ; 20%số sản phẩm kém chất lượng . Do đó hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toành xã hội. Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. VD: Hệ số sinh lời của vốn lưu động mang tính chất chung chỉ đạt 7% một năm trong đó nghành giao thông vận tải đạt 2% một năm…Hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11% một năm, trong đó các nghành tương ứng ở trên đạt 9,4%; 10,6% và 9,5%. Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Cụ thể là mấy năm gần đây hàng năm nhà nước dành hơn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34 đến 35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng hầu hết các lao động có trình độ ĐH, công nhân kỹ thuật, phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn: Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1990, trong số 12084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4504 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 4584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ ,chiếm hơn 30% tổng số doanh ngiệp nhà nước . trong đó , quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ , bàng 29,6 cơ .số do trung ương quản lý , quốc doanh địa phương có 4083cơ sở thua lỗ chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương qủan lý . các đơn vị trên đây có giá trị tài sản bằng 32.9% số đơn vị do đia phương quản lý . các đơn vị trên đây có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước và với 787300 lao động trong tổng số 2590000 lao động , bằng 32,9% lao động của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước . các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh ngiệp nhà nước đã gây tổn thất rất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những đưa đến việc bội chi ngân sách nhà nước trong nhiều năm qua . thêm vào đó nhà nước lại có hàng loạt chính sách bù giá , bù lương bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các khoản vay nợ nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng chỉ tính trong giai đoạn 1985-1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mưc 30% Từ năm 1989 đến nay ,nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường Các chính sách về kinh tế , tài chính đối doanh ngiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự gio hoá giá cả . chi phí ngân sách nhà nước bù lỗ , bù giá bổ sung vốn lưu động cho khu vực này giảm đáng kể . tuy nhiên tư tưởng bao cấp trong đầu tư vấn còn rất nạng nề . tất cả các doanh ngiệp được thành lập đều được cấp ngân sách từ nhà nước. hàng năm trên 85%vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho cac doanh ngiệp nhà nước vay . tài sản tiền vốn của nhà nước giao cho doanh ngiệp chủ yếu là không được bảo tồn và phát triển . theo báo cáo của tổng cục thống kê, hầu hết cac doanh nghiệp nhà nước mới chỉ bảo tồn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới chỉ bảo tồn ở mức 50% so chỉ số lạm phát hai nghành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72.52%) lại là hai nghành có tỷ lệ thất thoát lớn nhất (16.41%và 14,95% ) . vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn xảy ra khá ngiêm trọng do vấn đề quản lý tài chính đối với doanh nghiệp chậm đổi mới , đồng thời nạn tham nhũng lãng phí diễn ra khá nghiêm trọng ,từ những hoạt động yếu kém của doanh ngiệp nhà nước chúng ta thấy rằng vì sao lại cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, dó là tính tất yếu của quá trình phát triển các doanh nghiệp nhằm khắc phục nhứng yếu kém do doanh nghiệp nhà nước mắc phải. I.3 Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Là để huy động vốn tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự trong doanh nghiệp tạo động lực bên ngoài thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh ngiệp . Về việc huy động vốn thì trong thời gian qua thì ngân sách nhà nước đã đầu tư một tỷ trọng vốn lớn cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng hiệu quả thu lại rất thấp trong khi ngân sách nhà nước có hạn và phải dàn trải cho nhiều khoản chi tiêu khác . Qua số liệu điều tra năm 1995 ( tổng cuc thống kê ) cho thấy. Trong 6544 doanh nghiệp nhà nước (trong tổng số 7060 doanh nghiệp) đang hoạt động có 3268 doanh nghiệp thuộc dạng giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, chiếm 49,95% số doanh nghiệp được nhà nước đầu tư. Để xử lý tình trạng thiếu vốn và tạo cơ chế quản lý tài chính có hiệu lực, thực sự rằng buộc trách nhiệm, trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước thì giải pháp cần làm là thực hiện cổ phầ hoá một số doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá cho phép tách quyền sở hữu và quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp nhằm đưa lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Cổ phần hoá sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, ngày càng có vốn lớn từ đó có điều kiện trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, mở rộng sản xuất. Đồng thời nguồn vốn ngày càng đựoc sử dụng tốt . tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục.Cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho nhau sẽ thúc đẩy lưu thông tiền vốn. Mặt khác doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để bổ xung thêm vốn khi cần thiết. . Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hoá sẽ liên doanh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó thu hút được nhiều vốn hơn nữa. góp phần quan trọng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp , tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo lực lượng lao động mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả vốn và tài sản của nhà nước và doanh nghiệp . đồng thời phát huy vai trò làm chủ thực sự ngưòi lao động , của các cổ đông tăng cường sự giám sát nhà đầu tư đối doanh nghiệp , đảm bảo hài hoà lợi ích nhà nước , doanh nghiệp, nhà đầu tư, và người lao động . nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiẹp nhà nước gỉảm thâm hụt ngân sách nhà nước . là những mục tiêu đầu tiên và trực tiếp tuy nhiên tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, quan điểm, của từng nước mà mục tiêu khác nhau . Như các nước tư bản phát triển đó là xoá bỏ độc quyền nhà nước quy định cho một số doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp này năng cao khả năng cạnh tranh. So với khu vực kinh tế tư nhân, các ngành các lĩnh vực lâu nay nhà nước độc quyền nhưng xét thấy không cần thiết nữa. Nhà nước có điều kiện tập trung vào các ngành then chốt mũi nhọn, đòi hỏi hàm lượng khoa học kỹ thuật cao để năng cao sức cạnh tranh các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường thế giới cũng như tập trung vào chức năng ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện một số phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp, tạo sự ổn định về mặt xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang bị trì trệ. ở nhóm các nước đang phát triển, nhìn chung đèu có đề cập đến 5 mục tiêu cổ phần hoá nêu trên, ngoài ra còn bổ xung thêm một số mục tiêu có tính chất đặc thù là. Giảm các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng do phải bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để đổi mới kỹ thuật và hoạ tập quản lý, tạo ra một nền kinh tế thị trường mở cửa để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, năng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước. Tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính gồm thị trường tư bản, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ hoàn chỉnh trong nước. ở các nước SNG và Đông Âu, dưới chính thể mới, việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, ngoài những mục tiêu đã nêu ở hai nhóm nước nói trên, còn có thêm một số mục tiêu đặc thù sau. Giảm nhanh tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế và xoá bỏ hệ thống kế hoạch hoá tập trung đang gây ra tình trạng kém hiệu quả trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và đang đẩy nền kinh tế đi đến sự khủng hoảng. Tạo ra hệ thống kinh tế thị trường và tăng nhanh khu vực kinh tế tư nhân để dân chủ hoá hoạt động kinh tế và tạo ra mối tương quan hợp lý của các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của nhà nước. I.4 Các hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp , phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn bán một phần nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn . bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp thực hiện các hình thức thứ hai hoặc thứ ba kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút vốn I. 5. Quy trình chung cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Thực tiễn và nhiều công trình nghiên cứu các nước chỉ ra rằng việc thực hiện cổ phần hoá gồm nhiều giai đoạn : chuẩn bị điều kiện về tổ chức , lựa chọn các mục tiêu , phương hướng thực hiện ,kiểm soát và điều chỉnh . tuy nhiên các giai đoạn không có sư phân định rõ rệt nhưng nó có ỹ nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiến : khuyễn khích tính thận trọng với những giải pháp phù hợp dựa trên những điều kiện thực tế . tính quá trình tỏ ra thích hợp với cả chính phủ đang cần có thời gian nắm bắt và kiểm soát , cũng như công chúng đang cần thời gian để tìm vào sự ổn định , lâu dài về chính sách của chính phủ . ở việt nam chúng ta trong hoàn cảnh thiếu điều kiện quan trọng để thực hiện cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội , chủ quan duy ý chí , muốn hoàn thành công việc này trong một thời gian ngắn . Như vậy , qua thực tiễn tiến hành công tác cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta , và qua kinh nghiệm cơ bản của một số nước xung quanh chúng ta thấy việc cổ phần hoá đáp ứng yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách các doanh nghiệp nhà nước phù hợp theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại là một quá trình lâu dài vừa làm vừa rút kinh ngiệm cụ thể , là công viêc hết sức phức tạp đòi hỏi thực hiện trong nhiều năm. PHầN II: vẫn đề xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá 2.1 Những khái niệm 2.1.1. Giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá Là những giá trị hiện có của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá , có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả quỹ khen thưởng quỹ phúc lợi. Giá trị doanh nghiệp bao gồm giái trị quyền sử dụng đất, giá trị vốn góp liên doanh doanh nghiệp khác… Giá trị thực tế doanh nghiệp cổ phần hoá không bao gồm tài sản doanh nghiệp thuê mượn, nhần góp vốn liên doanh, liên kết các tài sản khác không phải của doanh nghiệp. - Những tài sản không cần dùng chờ thanh lý - Giá trị các khoản phải thu khó đòi đã được trừ vào giá trị doanh ngiệp - Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoán trước thời điểm xác định gía trị doanh nghiệp. - Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác được cơ quan thẩm quyền quyết định chuyển cho đối tác khác. - Tài sản thuộc công trình phúc lợi được đầu tư bằng quỹ khen thưởng, từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp và của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. 2.1.2 Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp thành công ty cổ phần thì gía trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp tùy thuộc vào yếu tố doanh nghiệp khác nhau mà nhà nước nắm giữ những phần vốn nhất định thông qua tỷ lệ cổ phần: Thông thường tỷ lệ cổ phần hay giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chia làm ba loại - Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối - Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần ở mức thấp - Nhà nước không nắm giữ cổ phần ở doanh nghiệp 2.1.3 Lợi thế doanh nghiệp trong quá trìng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhậm doanh nghiệp trên phần vốn nhà nước của doanh nghiệp binh quân trong ba năm liền kế trước khi cổ phần hoá so với lãi suất trái phiếu của chinh phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường. 2.2 Những phương pháp xây dựng giá trị doanh nghiệp và những điều kiện để xác định chính xác giá trị doanh nghiệp 2.2.1 Những căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá - Số liệu trong sổ sách kế toán doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá - Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê và phân loại tài sản thực tế doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá - Giá trị quyền sử dụng đất , lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý hay uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về thương hiệu ,sản phẩm doanh nghiệp Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 2.2.2. phương pháp xá định giá trị của doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Tuỳ theo điều kiện nghành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp cho phép áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá theo hưóng dẫn của bộ tài chính sau đây là một vài phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Xét về hình thức cổ phần hoá là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán .việc xác định chính xác giá trị doanh nghiệp sẽ tránh thiệt hại cho hai bên tham gia mua và bán . khi giá trị doanh nghiệp được định giá thấp hơn giá trị của nó thì làm mất vốn của nhà nước , ngược lại định giá cao hơn giá trị doanh nghiệp thì gây thiệt hại cho người mua và không bán được cổ phần của doanh nghiệp - Phưong pháp tài sản ròng : phương pháp này xác định giá trị của doanh nghiệp dựa trên giá thị trường của các tài sản của nó , theo phương pháp này ,giá thị trường của tài sản được tính toán dựa trên bảng cân đối kế toán và tham khảo giá thị trường của loại tài sản tương tự hay cùng loại . giá trị vốn cổ phàn được tính toán như sau VE=VA-VD Trong đó : VE ;Giá trị thị trường của vốn cổ phần VA :Giá thị trường của tài sản VD: Giá thị trường của nợ - Phương pháp định giá theo khả năng sinh lời Giá trị của doanh nghiệp có thể được tính bằng giá trị hiện tại của các dòng lợi nhuận dự tính thu được trong tương lai : GTDN = Trong đó Ft : lợi nhuận dự kiến năm t Vn :Giá trị thanh lý máy móc thiết bị năm n K : lái suất chiết khấu - Giá trị doanh nghiệp cũng có thể được tính thông qua lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân Fi: lợi nhuận này dự tính thu được căn cứ vào số liệu thống kê của các năm gần nhất với thời điểm định giá và phương án kinh doanh dự tính đối doanh nghiệp Tf : Tỷ suất lợi nhận dư kiến thu dược của doanh nghiệp kinh doanh trong nghành nghề . - Phương pháp giá trị hiện tại của các lợi ích ròng kỳ vọng trong tương lai Vdn = + Trong đó Vdn= giá trị của doanh nghiệp Bt= Lợi ích kỳ vọng của doanh nghiệp tại năm thứ t Ct= Chi phí kỳ vọng tại năm thứ t mà doanh nghiệp phải ghánh chịu Vn = giá trị thanh của doanh nghiệp tại năm thứ n K=tỷ suất chiết khấu ( tỷ suất vốn hoá hay chi phí vốn ) Phương pháp hiênh tại hoá và định lượng của Goodwill. Về thực chất được xây dựng và phát triển dự trên hai công thức tổng quát là. V0 = + GW = Trong đó Vo: Giá trị doanh nghiệp Rt : Khản thu năm t Vn: Giá trị bán lại hoặc thanh lý năm n At :Giá trị tài sản đưa vào kinh doanh R : Tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản I :Tỷ suất hiện tại hoá N:Số năm nhận được khoản thu Các công thức trên đã chỉ ra một nguyên lý chung : giá trị doanh nghiệp được xác định bằng giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong tương lai . còn goodwill lại được tính bằng giá trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra đươc trong n năm tồn tại . Từ các công thức trên , các nhà kinh tế ,các chuyên gia định giá , các nhà đầu tư ,người mua người bán doanh nghiệp có thể tha hồ mà phát triển ý tưởng của mình về xác định các tham số Rt, Vn, i ,r , n, …các tham số dó luôn thay đổi trong cách nhìn nhận và đánh giá của mỗi người ,ssó là lý do dẫn tới sư chênh lệch rất lớn về giá trị doanh nghiệp theo những cách đánh giá khác nhau , gây nên trở ngại trong quá trình giao dịch , thương thuyết và bán doanh nghiệp trong thực tế . Như vậy , để xác định giá tri của doanh nghiệp ta cần ước lượng các tham số trên đây là một vẫn đề không đơn giản . ta nhận thấy rằng viec các doanh nghiệp xác định giá trị theo công thức một sẽ là khác nhau vì một số lý do sau Thứ nhất các nhà hoạt động kinh tế tại các khu vực khác nhau của nền kinh tế mà đặc biệt là của chính phủ và tư nhân , thường theo đuổi cách phân loại khác nhau vê lợi nhuận và chi phí . Trong trường hợp chuyển đổi từ khu vưc kinh tế sang khu vưc tư nhân , đây là điều có ảnh hưởng rất lớn. Thứ hai, ngay trong cùng khu vực của nền kinh tế các nhà hoạt động khác nhau thường có các kỳ vọng khác nhau về lợi nhuận và chi phí của doanh nghiệp. Thứ ba, các nhà hoạt động khác nhau thường có những thông tin khác nhau về doanh nghiệp và có những cơ hội đầu tư khác nhau, nên tỷ xuất chiết khấu được lựa chọn khác nhau. Như vậy, do vị thế khác nhau đối với doanh nghiệp, mỗi bên hữu quan của doanh nghiệp sẽ định giá doanh nghiệp theo các lợi ích và chi phí có liên quan đến mình. Trong bối cảnh đó, để nghiên cứu định giá của doanh nghiệp khi chuyển đổi sở hữu ta cần có sự thống nhất một số khái niệm nhất định. 2.2.3. Hạn chế của phương pháp định giá Phương pháp định giá đang áp dụng trong nhiều năm qua cho thấy có một hạn chế mà chúng ta cần nghiên cưú để hoàn thiện hơn công tác định giá các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam đó là. Điều kiện và cơ sở cho việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa được thiết lập đầy đủ, đồng bộ, thiếu một văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể việc định giá cho các loại tài sản trong doanh nghiệp (đặc biệt là giá trị quyền sử dụng đất và lợi thế kinh doanh); thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách có đủ năng lực, trình độ để làm ccong tá định giá doanh nghiệp. Các cán bộ thm gia thẩm định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam đa phần chưa qua đào tạo chuyên sâu về định giá doanh nghiệp, cộng với hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh nên dễ đưa ra quyết định mang tính chủ quan, ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả định giá. Phương pháp định giá còn nghèo nàn chưa hợp lý. ở các nước trên thế giới thì việc định giá doanh nghiệp hoặc loại tài sản trong doanh nghiệp (bất động sản, máy móc thiết bị phương tiện vận tải) đều có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định và kiểm tra nhằm đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá. Thậm chí còn có cả phương pháp đấu giá qua thị trường chứng khoán. Còn ở Việt Nam công tác định giá doanh nghiệp còn bị phụ thục nhiều vào người mua (từ coong tác chuẩn bị như: kiểm kê, đối chiếu công nợ… đến việc thồng nhất về giá bán doanh nghiệp); lại mang tính chất khoán trắng, thiếu sự kiểm tra kiểm soát nên đã dấn đến hiện tượng giá trị sdoanh nghiệp được định chưa sát với thị trường, chỉ bán trong nội bộ doanh nghiệp chứ không bán ra bên ngoài… 2.2.4. Giải pháp hoàn thiện phương pháp định giá. Đề hoàn thiện và không ngừng năng cao chất lượng xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam, chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quý báu trên thế giới, để có thể đưa ra phương pháp định giá doanh nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và tập quán ở nước ta hiện nay. Trước mắt trong thời gian tới cần tập trung làm tốt một số việc sau: Về chính sách: nghiên cứu và ban hành một hệ thống các phương pháp định giá chuẩn áp dụng cho Việt Nam. Tập trung đào tạo bồi dưỡng một đội ngũ chuyên gia lành nghề chuyên về đánh giá, tạo tiền đề cho việc hình thành các tổ chức định giá độc lập, thích ứng với nèn kinh tế thị trường. Nhanh chóng phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán ở Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho việc huy động vốn thu hồi vốn trong và ngoài ngoài nước vào việc phát triển nền kinh tế, cung cấp các thông số (tỷ lệ rủi ro, tỷ suất lợi nhuận… ) toạ điều kiên cho việc xác định giá trị doanh nghiệp. 2.2.5 Điều kiện để xác định chính xác giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là một vẫn đề hết sức quan trọng trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .Vi vậy quá trình xác định giá trị doanh nghiệp cần có những điều kiện và quy định cụ thể để nhằm xác định chính xác giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm đảm bảo lợi ích giữa người mua và người bán . lợi ích giữa nhà nước và các thành viên công ty cổ phần . những điều kiện đó là . Doanh nghiệp nhad nước cần xử lý tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp . như các tài sản thuê mượn , nhận góp vốn liên doanh liên kết , tài sản không dùng ,tài sản đầu tư bằng quý khen thưởng quý phúc lợi …giá trị quyền sử dụng đất …doanh nghiệp càn xử lý theo quy định của pháp luật Doanh nghiệp cần có những tổ chức đánh giá và phương pháp đánh giá phù hợp từng doanh nghiệp ở những thòi điểm khác nhau Thành viên trong tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp ,phải có chuyên môn ,đạo đức nghề nghiệp và phải tạn tâm với công việc để dảm bao quyền lợi của các bên 2.3. ý nghĩa việc xác định đúng gí trị doanh nghệp Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một vẫn dề có ý nghĩa trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiêpj nhà nước đó là một trong những thành công của quá trình cổ phần hoá . một mặt nó đảm bảo lợi ích thiết thực của nhà nước và lợi ích của người mua doanh nghiệp hay các thành viên trong công ty cổ phàn khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghịêp nhà nước .Mặt khác nó còn có yếy tố tâm lý cho các thành viên tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệpnhà nước . Tạo tâm lý ổn định , tin tưởng của các cá nhân tổ chức khi tham gia quá trình cổ phần hoá .thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch nhà nước dề ra ,nhanh chóng chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần .giả quyết được những vướng mắc ,những bất hợp lý trong quá trình cổ phần hoá .Việc xác định giá tri doanh nghiệp là mot vấn đề nan giải gây ra nhiều tranh cãi và cấp thiết trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vì vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp là hết sưc quan trọng trong kế hoạch nhà nước ta PHần III : thực trạng và những vẫn đề liên quan trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam 3.1. Thực trạng của việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam từ năm 92 đến nay Giai đoạn từ nam 1992 đến nam 1996 hoạt động định giá doanh nghiệp cổ phần hoá chủ yếu được tiến hành theo phương pháp có điều chỉnh theo thông tư số 36/TC-CN hưỡng dẫn xử lý những vẫn đề tài chính khi thực hiện một ssó thí điểm chuyển một số doanh nghiẹp nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng nay là thủ tướng chính phủ.Theo phương pháp này giá trị doanh nghiệp bao gồm giá trị tài sản cố định , giá trị tài sản lưu động đựơc đánh giá lại sao kiểm kê và chi phí ban đầu về quyền sử dụng đất ,lợi thế doanh nghiệp . về nguyên tắc , căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp là thực trạng là những tài sản thuộc nguồn vốn nhà nước, hệ thống giá sau tổng kiểm kê theo quy định của nhà nước , các yếu tố tạo ra hiệu quả , triển vộng về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (như uy tín của doanh nghiệp ,vị trí đìa lý …) ,cac khoản thuộc phạm vi thua lỗ , nợ nần hàng hoá tồn kho kém , mất phẩm chất …nằm trong giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá . Giai đoạn này là giai đoạn thí đieemr nên việc định giá tài sản còn phụ thuộc vào việc phân loại tài sản và phải bảo đảm nguyên tắc không thực hiện nguyên tắc cổ phần hoá những tài sản thuộc nguồn vốn vay (Nếu người cho vay không đồng ý )và những tài sản chưa dủ cơ sở pháp lý về quyền sở hữu đôí với doanh nghiệp . ngoài ra , việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá còn phải dựa trên số liêu quyết toán có xác nhận về kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như quy định của chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993 của thủ tướng chính phủ về việc xú tiến thực hiện thíđiểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước . Trong điều kiện công tác quản lý vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp có yếu kém nguồn goóc hình thành tài sản nhf nước tại doanh nghiệp quá phức tạp(do cải tạo công thương nghiệp trưng thu ,trưng mua , tiếp quản tài sản vô chủ , tài sản của tư nhân trốn ra nước ngoài ,tài sản mua bằng vốn vay hình thang tư nguồn chiếm dụng của khach hàng …) cộng thêm những thủ tục rườm rà về xác dịnh quyền sở hữu , kết quả kiểm toán nên thời gian xác định giá trị doanh nghiệp trong thời gian nay thường kéo dài từ 8 tháng đến 2 năm. Bên cạnh đó, các quy định hướng dẫn chưa hình dung hết các vấn đề phức tạp khi xác định giá trị doanh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8607.doc
Tài liệu liên quan