Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Tài liệu Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO: MỤC LỤC Lời nói đầu 5 Chương I: Khái quát chung về tổ chức thương mại thế giới và lợi ích khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 1.1. Khái quát chung về tổ chức thương mại thế giới 8 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức thương mại thế giới 8 1.1.2. Chức năng của tổ chức thương mại thế giới 11 1.1.3. Mục tiêu của tổ chức thương mại thế giới 11 1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của tổ chức thương mại thế giới 12 1.1.5. Cơ cấu tổ chức của tổ chức thương mại thế giới 13 1.... Ebook Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Lợi ích của các nước khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 15 Chương II. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 2.1. Sự cần thiết phải gia nhập tổ chức thương mại thế giới 20 2.2. Khái quát chung về tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam 21 2.2.1.Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam 21 2.2.1.1. Tình hình kinh tế 21 2.2.1.2. Tình hình chính trị 24 2.2.1.3. Tình hình xã hội 25 2.2.2. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 26 2.2.3. Những nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO 29 2.3. Những khó khăn và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 31 2.3.1. Khó khăn của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 31 2.3.2. Thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 32 2.4. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 34 2.4.1. Lợi thế về kinh tế 34 2.4.1.1. Lợi thế về thương mại - dịch vụ 34 2.4.1.1.1. Lợi thế về hoạt động xuất nhập khẩu 34 2.4.1.1.2. Lợi thế về hoạt động thương mại 36 2.4.1.1.3. Lợi thế về dịch vụ 37 2.4.1.1.4. Lợi thế về hoạt động tài chính 38 a) Lợi thế về bảo hiểm 38 b) Lợi thế về ngân hàng 39 c) Lợi thế về chứng khoán 42 2.4.1.2. Lợi thế về công nghiệp 46 2.4.1.3. Lợi thế về nông nghiệp 50 2.4.14. Lợi thế về kinh tế biển 53 2.4.2. Lợi thế về chính trị, văn hoá và xã hội 60 2.4.2.1. Chính trị 60 2.4.2.2. Văn hoá - xã hội 61 2.4.3. Lợi thế về con người 62 2.4.4. hế về môi trường đầu tư 63 2.4.4.1. Lợi thế về môi trường kinh tế 63 2.4.4.2. Lợi thế về môi trường chính trị - văn hoá - xã hội 67 Chương III. Giải pháp nhằm phát huy lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 3.1. Định hướng của Đảng và Nhà nước Việt nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. 68 3.2. Các giải pháp để phát huy lợi thế khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới 69 3.2.1. Giải pháp vĩ mô. 69 3.2.1.1 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật. 69 3.2.1.2 Cải cách hành chính: 72 3.2.1.3. Tuyên truyền quảng bá về định chế WTO. 74 3.2.1.4. Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực. 75 3.2.1.5. Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư 78 3.2.1.6. Hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn. 79 3.2.1.7. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 80 3.2.1.8. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá dân tộc. 80 3.2.1.9. Bảo đảm an ninh - quốc phòng. 81 3.2.2. Giải pháp vi mô. 81 Kết luận ..84 Tài liệu tham khảo ..85 DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT WTO (World Trade Organization) - Tổ chức thương mại thế giới ITO (International Trade Oganization) - Tổ chức thương mại quốc tế GATT (The General Agreement on Tariffs and Trade) - Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATS (The General Agreement on Trade in Services) - Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ WB (World Bank) - Ngân hàng thế giới IMF (International Monetary Fund) - Quỹ tiền tệ quốc tế TRIPS (Trade relevant intellectual property statement) - Hiệp định chung về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. MFA (Multi Fibre Association) - Hiệp định đa sợi MFN (Most Favored Nation) - Đối xử tối huệ quốc NT (National Treatment) - Đối xử quốc gia ODA (Ontario Dental Association) - Vốn hỗ trợ phát triển chính thức FDI (Foreign Direct Investment) - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài APEC (Asia Pacific Economic Cooperation) - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ASEAN (Association of South East Asian Nations) - Hiệp hội các nước Đông Nam Á LỜI NÓI ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, buộc các nước phải thực hiện chiến lược mở cửa kinh tế nhằm tranh thủ thời cơ, phát huy những lợi thế và vượt qua thách thức thì mới có thể phát triển nhanh nền kinh tế của quốc gia mình, đóng góp chung vào tăng trưởng kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt nam) thì gia nhập tổ chức thương mại thế giới là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng đó của WTO đối với thương mại toàn cầu, việc gia nhập tổ chức này mang lại cho chúng ta những cơ hội to lớn như: tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, tăng khả năng thu hút vốn, công nghệ và học hỏi được những kỹ năng quản lý của nước ngoài. Mặt khác để tận dụng những cơ hội đó phải phát huy những lợi thế cao nhất của đất nước phục vụ cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu:“ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh’’. Kể từ khi Đại hội Đảng lần VI(1986) nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế toàn cầu cho đến nay, nước ta luôn duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân trên 8%/ năm dẫn đầu trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu mà Đảng đề ra thì việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới như là con đường tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó, để làm được điều ấy Việt Nam cần phát huy những lợi thế của nước mình, tận dụng những nguồn lực bên ngoài. Từ đó Việt Nam sẽ rút ra được những giải pháp, tạo cho mình một hướng đi riêng để phát triển nền kinh tế nhằm chủ động bước vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới trên cơ sở nguồn lực và những lợi thế sẵn có của mình. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Những lợi thế của Việt nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương của mình. Tình hình nghiên cứu. Kể từ khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới cho đến nay chúng ta đã chở thành viên chính thức của tổ chức này, đã có rất nhiều bài viết, bản tham luận của các tác giả trong và ngoài nước về những tác động của WTO đối với nền kinh tế của Việt Nam. Song phần lớn các bài viết đều đề cập đến một lĩnh vực cụ thể trong nền kinh tế. Một số đề tài có tính chất tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn này, chẳng hạn như: Đề tài “Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới ” của nhà xuất bản lao động năm 2004 đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề về WTO tác động đến các ngành kinh tế, và đưa ra những giải pháp để tận dụng những lợi thế khi gia nhập WTO. Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi gia nhập WTO” của Nhà xuất bản lao động năm 2004 đã trình bày và phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trước thềm WTO, chỉ ra những thời cơ và thách thức khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Do hạn chế về phạm vi, mục tiêu cũng như yêu cầu chuyên sâu, các đề tài trên chỉ xử lý ở góc độ này hay góc độ khác đối với những vấn đề liên quan đến Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Vì vậy, có thể nói chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống về tất cả những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những lợi thế của Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại WTO, đề tài rút ra những giải pháp để phát huy những lợi thế của kinh tế Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về tổ chức thượng mại thế giới. Tìm hiểu những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Rút ra những giải pháp đối với Việt Nam nhằm pháp huy lợi thế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề lý luận về tổ chức thương mại thế giới, đi sâu nghiên cứu những lợi thế của Việt Nam trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu thực trạng nền kinh tế của Việt Nam dưới góc độ những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Phương pháp nghiên cứu. Khái quát chung về tổ chức thương mại thế giới, nêu ra sự cần thiết phải gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Thu thập và xử lý (phân tích, tổng hợp) các thông tin, dữ liệu về những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, từ đó đưa ra nhưng giải pháp để Việt Nam phát huy những lợi thế đó. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, nội dung của luận văn gồm ba chương như sau: Chương I: Khái quát chung về tổ chức thương mại thế giới và lợi ích khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Chương II. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Chương III. Giải pháp nhằm phát huy lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Bùi Ngọc Sơn đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện bài khóa luận này. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, song không thể tránh khỏi những khiếm khuyết cả về nội dung và hình thức. Tôi rất mong nhận được những ýkiến đóng góp, xây dựng từ phía người đọc để bài viết có thể hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ LỢI ÍCH KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 1.1. Khái quát chung về tổ chức thương mại thế giới 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức thương mại thế giới Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO) ra đời trên cơ sở phát triển định chế tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (The General Agreement on Tariffs and Trade - GATT). Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết. Hội nghị Bretton Woods năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (International Trade Organization - ITO) với mục đích thiết lập các qui tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí thông qua tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997). Mặc dù ITO không được phê chuẩn, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới lần thứ II trong trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên nhằm điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế. GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm mà điển hình là Ngân hàng Quốc tế tái thiết và phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund - IMF) ngày nay. Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, về thương mại hàng hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm, dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (International Trade Oganization - ITO) với tư cách là cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ tháng 11/947 đến 24/ 3/ 1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được. Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1948. Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định, hình thành các chuẩn mực, luật chơi, điều tiết các vấn đề về hàng rào phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thoả thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/ 4/ 1994, tại Marrakesh (Marốc), kết thúc Hiệp Uruguay, các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hợp quốc và đi vào hoạt động từ 1/ 1/ 1995. Vậy WTO là gì? Có thể hình dung đơn giản về WTO như sau: WTO là nơi đề ra những qui định: Để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên qui mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2005, WTO có 149 thành viên. WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán: Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. “Tất cả những gì tổ chức này làm được là đều thông qua con đường đàm phán”. Có thể nói, WTO chính là diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…, để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên. WTO gồm các qui định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế: Ra đời với kết quả ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các “hợp đồng”, theo đó chính phủ các nước tham gia ký kết công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của các thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình. WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp: Nếu mục tiêu kinh tế của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh…(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các qui định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là “mục tiêu chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị nói trên là nhằm tới “mục tiêu xã hội” của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. 1.1.2. Chức năng của WTO WTO có 6 chức năng chính: - WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý, điều hành và những mục tiêu của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên. - WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những qui định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên, đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra. - WTO sẽ thoả thuận về những qui tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. - WTO sẽ thi hành cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên). - Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển. - Để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết WTO sẽ hợp tác với qũy tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó. 1.1.3. Mục tiêu của WTO - Mục tiêu kinh tế: Thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hóa và dịch vụ, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển thể chế thị trường. Những hoạt động này được thực hiện thông qua việc loại bỏ hàng rào thương mại, nâng cao nhận thức và hiểu biết của chính phủ, tổ chức và cá nhân về các qui định điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, xây dựng môi trường pháp lý, thương mại rõ ràng. - Mục tiêu chính trị: Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của tổ chức này. Bảo đảm cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng lợi ích đích thực từ sự tăng trưởng của thương mại thế giới, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước và khuyến khích hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới. - Mục tiêu xã hội: Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân của các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. 1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của WTO - Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Bao gồm 2 nguyên tắc nhỏ là dành cho quy chế đối xử quốc gia. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là tất cả hàng hoá, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia là không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của nước ngoài trên thị trường nội địa. Nguyên tắc không phân biệt đối xử cho phép đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau trên thị trường cả trong nước và trên thế giới. - Nguyên tắc tiếp cận thị trường: Nguyên tắc này được hiểu trên hai khía cạnh. Thứ nhất, các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, đi tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thứ hai, các chính sách và Luật thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch. Cả hai khía cạnh này đều nhằm tạo ra một môi trường thương mại bình đẳng cho tất cả các nước thành viên tiếp cận. - Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: Nguyên tắc này yêu cầu các nước chỉ được sử dụng thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ. Các biện pháp phi thuế quan (giấy phép, hạn ngạch, hạn chế nhập khẩu,...) đều không được sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập theo thời gian thoả thuận. - Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết: Khi thị trường và nền kinh tế của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ, nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có hành động khẩn cấp, cần thiết để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước. - Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển: Các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện cam kết và mức độ cam kết thấp hơn, phạm vi nhỏ hơn so với các nước phát triển. Hoạt động của WTO dựa vào 16 hiệp định: Hiệp định về thuế quan và thương mại; Hiệp định về nông nghiệp; Hiệp định về các biện pháp tự vệ dịch tễ (kiểm dịch động thực vật); Hiệp định về hàng may mặc, hàng dệt; Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại; Hiệp định về đầu tư liên quan đến thương mại; Hiệp định về chống bán phá giá; Hiệp định về định giá hải quan; Hiệp định về kiểm định hàng hoá khi xuất khẩu hàng hóa; Hiệp định về chứng nhận xuất xứ hàng hoá; Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu; Hiệp định về biện pháp bảo hộ, trợ giá; Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS); Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS); Hiệp định về các biện pháp tự vệ; Hiệp định liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp. 1.1.5. Cơ cấu tổ chức của WTO Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, uỷ ban của WTO (ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm), các Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp và các uỷ ban đặc thù. - Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng - Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng Châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO. - Cấp thứ hai: Đại hội đồng, công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại hội đồng, Hội đồng giải quyết tranh chấp và Hội đồng rà soát các chính sách thương mại. Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh Hội nghị Bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO. Hội đồng giải quyết tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương). Hội đồng rà soát chính sách thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể tiến hành cách quãng hơn. - Cấp thứ ba: Các Hội đồng thương mại Các Hội đồng thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng thương mại là: Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mỗi hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh 03 hội đồng này còn có 06 uỷ ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thoả thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có nhóm công tác về việc gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO. Hội đồng thương mại hàng hoá chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hoá. Hội đồng thương mại dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Hội đồng các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ. - Cấp thứ tư: Các Uỷ ban và cơ quan Dưới các hội đồng trên là các uỷ ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. Dưới Hội đồng thương mại hàng hóa là 11 uỷ ban, 1 nhóm công tác và 1 uỷ ban đặc thù. Dưới Hội đồng thương mại dịch vụ là 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác và 2 uỷ ban đặc thù. Dưới Hội đồng giải quyết tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Ngoài ra, do yêu cầu của Vòng đám phán Doha, WTO đã thành lập Uỷ ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Uỷ ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. 1.2. Lợi ích của các nước khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO Khi gia nhập vào WTO, hệ thống này mang lại không ít lợi ích cho các nước thành viên. Tuy WTO không thể tuyên bố làm cho tất cả các nước đều bình đẳng nhưng WTO thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng giải thoát cho các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại với các đối tác của mình. Các quốc gia có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý kiến. Các hiệp định này áp dụng cho mọi người, các nước giàu cũng như các nước nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi phạm một hiệp ước và họ có quyền chất vấn các nước khác trong qui trình giải quyết tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước lớn hơn cũng được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng diễn đàn duy nhất của WTO để thương lượng với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ cùng một lúc. Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các nước thành viên, điều đó đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại. Các nước thành viên được tiếp cận thị trường hàng hoá, dịch vụ của nhau với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử. Hệ thống toàn cầu đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ giảm, cuối cùng là chi phí sinh hoạt thấp hơn. Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả các quốc gia đều có lợi. WTO cũng tạo cơ hội mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ cho các nước thành viên. Hiện nay các quốc gia có thể có được tất cả các hàng hóa bằng cách nhập khẩu chúng. Nhập khẩu cho phép người dân có nhiều lựa chọn hơn - cả hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng hoá, thành phẩm của nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước. Điều này không những mở rộng phạm vi hàng hoá,dịch vụ do việc sản xuất trong nước mà còn mở rộng phạm vi về công nghệ. Chẳng hạn, khi thiết bị điện thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ phát triển mạnh, thậm chí ngay tại các nước không hề sản xuất thiết bị. Đôi khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị trường trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh, làm gia tăng lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. WTO làm tăng thu nhập cho các quốc gia. Việc giảm bớt hàng rào thuế quan cho phép thương mại tăng trưởng, điều này làm tăng thu nhập - cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Dự tính của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng đàm phán Uruguay 1994 là thu nhập thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến 510 tỷ USD. Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng thực tế có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi nhiều nhất. Chẳng hạn để giúp các công ty, công nhân thích ứng bằng cách tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm hoặc bằng cách chuyển sang các hoạt động mới. WTO giúp các quốc gia giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng. Thương mại phát triển đã thúc đẩy hàng hoá, dịch vụ tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, đồng thời số lượng các nước, các công ty tham gia cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này sẽ làm nảy sinh nhiều hơn các tranh chấp thương mại. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh chấp này một cách hoà bình và mang tính xây dựng. Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Một trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa vụ đưa những tranh chấp của mình tới WTO và không được đơn phương giải quyết. Khi họ đưa các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục giải quyết của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc, và có lẽ sau đó tái thương lượng về các nguyên tắc - chứ không phải là tuyên chiến với nhau. Gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi tổ chức này được thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các tranh chấp này một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có dẫn đến những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng hơn. Thương mại có thể là một động lực mạnh mẽ tạo ra việc làm và giảm đói nghèo. Mối quan hệ giữa thương mại và sự phát triển là phức tạp. Thương mại tự do,ổn định sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Nó có tiềm năng tạo ra việc làm, giúp cho việc xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, các nhà sản xuất trong nước và công nhân của họ rõ ràng là phải đối mặt với sự cạnh tranh mới khi hàng rào thương mại thấp hơn. Một số nhà sản xuất nội địa tồn tại được là vì biết tạo ra cho mình khả năng cạnh tranh tốt hơn. Một số hội nhập nhanh hơn bằng việc tìm nguồn nhân lực mới. Những nước không có chính sách hội nhập hiệu quả sẽ bỏ lỡ thời cơ là sự thúc đẩy mà thương mại đem lại cho nền kinh tế. Trong hệ thống thương mại WTO, sự tự do hoá được thực hiện một cách từ từ tạo điều kiện về mặt thời gian cho các nước thành viên thực hiện việc điều chỉnh cần thiết. Nhiều qui định trong các hiệp định cho phép nước thành viên áp dụng một số biện pháp tình thế nhằm giảm thiểu các thiệt hại do việc nhập khẩu c._.ó thể gây nên. Các biện pháp này, phải tuân theo những qui định và trình tự hết sức chặt chẽ. Đồng thời, sự tự do hoá trong hệ thống thương mại WTO là kết quả của đàm phán. Những nước cảm thấy chưa kịp thích ứng với việc mở cửa, có thể phản đối yêu cầu mở cửa đối với một số lĩnh vực cụ thể. Chính sách tự do hoá thương mại đã giúp ba tỷ người thoát khỏi cuộc sống đói nghèo kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Gia nhập vào WTO sẽ giúp các quốc gia tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc trở thành thành viên của WTO sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trở thành thành viên của WTO sẽ thúc đẩy quá trình cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. CHƯƠNG II NHỮNG LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 2.1. Sự cần thiết phải gia nhập WTO Việt Nam cũng như nhiều nước phát triển khác có động lực chính để gia nhập WTO là làm tăng khả năng tiếp cận thị trường, tăng thu hút đầu tư để thúc đẩy khả năng tăng trưởng kinh tế. Trở thành thành viên của WTO cùng với việc tuân thủ theo những quy định phổ biến của “sân chơi” quốc tế là dấu hiệu quan trọng của một môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, mục tiêu gia nhập WTO là tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho tăng trưởng kinh tế. Thành công của nhiều nền kinh tế Đông Nam Á và một số nước công nghiệp mới ở Đông Nam Á trong khoảng ba thập niên qua nhấn mạnh vai trò của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Việc thực thi cam kết tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường dịch vụ, bảo hộ sở hữu chí tuệ là một trong những cơ sở cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút vốn đầu tư. Hiện tại, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm trên 93% tổng giao dịch thương mại thế giới. Việc trở thành thành viên WTO sẽ đẩy mạnh thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO, đảm bảo năng cao dần vai trò các hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị của Việt Nam trong phạm vi khu vực toàn cầu. Việt Nam sẽ có lợi do việc cắt giảm thuế đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công. Đặc biệt, một trong những ngành sử dụng nhiều lao động và có kim ngạch xuất khẩu khá cao của Việt Nam là ngành dệt may được đảm bảo: Các nước nhập khẩu không có các hạn chế đối với hàng dệt và hàng may mặc của nước ta trong vòng 10 năm tính từ thời điểm nước ta là thành viên WTO (theo quy định của Hiệp định đa sợi - MFA). Là nước xuất khẩu một số hàng nông sản hàng đầu thế giới, gia nhập WTO Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về định lượng được chuyển thành thuế và thuế sẽ phải cắt giảm theo Hiệp định về nông nghiệp của WTO. Việc gia nhập WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận tới các quy tắc công bằng và hiệu quả hơn cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển có thu nhập thấp (trong đó có Việt Nam) nhận được một số ưu đãi đặc biệt. Ví dụ, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam (thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm) được miễn trừ khỏi sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hoá là loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm. Ngoài ra chính từ những yêu cầu của WTO và nghĩa vụ cam kết của nước ta về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch của các chính sách thương mại và các đạo luật trong nước cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế sẽ có những tác động mang tính tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy mạnh quá trình đổi mới kinh tế nước ta. 2.2. Khái quát chung về tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam 2.2.1. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam 2.2.1.1. Tình hình kinh tế Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá ổn định, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2001 - 2005 là 7,51%/ năm (năm 2001 tăng 6,89%, năm 2002 tăng 7,08%, năm 2003 tăng 7,34%, năm 2004 tăng 7,79% và năm 2005 tăng 8,43%), tuy thấp hơn 0,3% so với mức kế hoạch chung 5 năm 2001 - 2005 nhưng trong điều kiện khó khăn chung của toàn khu vực và trên thế giới thì mức tăng trưởng trên là khá cao. Giá trị sản xuất nông - lâm- ngư nghiệp tăng bình quân trong 5 năm (2001-2005) tăng 3,84%. Tuy nhiên, do chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường giá trị tăng thêm (GDP nông nghiệp) chỉ đạt 3,10%, thấp hơn mục tiêu đề ra là 4%/ năm. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng trong năm 2001 - 2005 là 10,24%. Năm 2005 tăng 10,65% cao nhất trong giai đoạn 2001 - 2005. Tuy nhiên, mức độ phát triển sản xuất giữa các ngành công nghiệp diễn ra không đều. Bảng 1: Tăng trưởng GDP 2001 - 2005 Tỷ lệ % 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 Tốc độ tăng GDP Nông-lâm-thủy sản Công nghiệp-xây dựng Dịch vụ 6,89 2,98 10,39 6,10 7,08 4,17 9,48 6,54 7,34 3,62 10,48 6,45 7,79 4,36 10,22 7,26 8,43 4,04 10,65 8,48 7,51 3,84 10,24 6,97 Nguồn: tổng cục Thống kê và tính toán Viện nghiên cứu Quản lý Trung ương Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân là 6,96%, thấp hơn mục tiêu đề ra của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là 7,5% tuy nhiên năm 2005 có mức tăng trưởng vượt trội đạt 8,48% (năm 2004 là 7,26%, năm 2003 là 6,45%, năm 2002 là 6,54%, năm 2001 là 6.10%). Tốc độ tăng cao so với 4 năm trước thể hiện ở ba nhóm ngành, đó là: nhóm ngành dịch vụ kinh doanh có tính thị trường (8,67%), nhóm ngành dịch vụ sự nghiệp (8,08%), và nhóm ngành dịch vụ hành chính công (7,2%). Bảng 2: Tăng trưởng nhóm ngành dịch vụ Tỷ lệ % 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ tăng trưởng (giá năm 1994) Khu dịch vụ Dịch vụ kinh doanh có tính thị trường Dịch vụ sự kiện Dịch vụ quản lý hành chính công 6,10 6,23 5,85 5,22 6,54 6,57 7,62 3,89 6,45 6,30 7,83 5,24 7,26 7,31 7,65 5,91 8,48 8,67 8,08 7,20 Nguồn: TCTK và tính toán Viện nghiên cứu Quản lý Trung ương Cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sư dịch chuyển của hai nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và công nghiệp - xây dựng. Tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 24,53% năm 2000 xuống còn 20,70% năm 2005 và tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 36,37% năm 2000 lên 40,80% năm 2005. Trong khi đó, tỷ trọng khu vực dịch vụ vẫn giao động trong mức 38-39% Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế 2000 - 2005 Tỷ lệ % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 GDP (giá hiện hành) 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nông-lâm-ngư nghiệp Công nghiệp-xây dựng Công nghiệp chế biến Dịch vụ 24,53 36,73 18,56 38,73 23,24 38,13 19,78 38,63 23,03 38,49 20,58 38,48 22,54 39,47 20,45 37,99 21,81 40,21 20,34 37,98 20,70 40,80 20,70 38,50 Nguồn: TCTK và tính toán Viện nghiên cứu Quản lý Trung ương Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2001 - 2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, cao hơn 1,8% so với mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 5 năm là khoảng 16,1% (năm 2001 tăng 4,1%, năm 2002 tăng 9,5%, năm 2003 tăng 20,08%, năm 2004 tăng 24%, năm 2005 tăng 21,6%) 2.2.1.2. Tình hình chính trị Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh phát triển, quan hệ đối ngoại được mở rộng tạo lợi thế cho Việt Nam khi gia nhập WTO. Cải các hành chính có nhiều bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường một bước, dân chủ trong xã hội tiếp tục đườc phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Tiềm lực quốc phòng an ninh, được tăng cường, đời sống vật chất, tinh thần và trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến phòng thủ thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Viếc kết hợp giữ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh được đảm bảo tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đã phát hiện và ngăn chặn nhiều âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, kiềm chế được tội phạm hình sự, sử lý nghiêm tội tham nhũng. Hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đã giải quyết được một số vấn đề về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với một số quốc gia, chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn thế giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế và khu vực tại Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết, như: Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sành chiến đấu của các lực lượng vũ trang chưa được phát huy đầy đủ. Ở một số địa bàn, còn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo kịp diễn biến của tình hình. Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng và đối ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ. 2.2.1.3. Tình hình văn hoá xã hội Giáo dục và đào tạo tiếp tục được phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí ngày càng cao. Khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách, điều tra đánh giá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp; đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005) còn 7% (năm 2001 là 17%, kế hoạch là 10%). Đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội cho các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc. Trong 5 năm, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Thu nhập bình quân đầu người tăng 5,7 triệu đồng năm 2001 lên trên 10 triệu đồng năm 2005. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt nhiều kết quả: mở rộng mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở, khống chế và đẩy lùi một số bệnh dịch nguy hiểm, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 68 (năm 1999) lên 71,3 (năm 2005). Hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, thể dục thể thao… có tiến bộ trên một số mặt. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người thương binh, gia đình liệt sĩ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện… thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó kết quả xoá đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng dãn ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt. Chất lượng giáo dục đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hoá, nghệ thuật có xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần. Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong y tế, thể dục thể thao còn yếu kém. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn rất nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng, tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và của. 2.2.2. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam Gia nhập WTO là một bước tiến lớn trong quá trình phát triển của nước ta thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Để gia nhập WTO Việt Nam phải mất hơn 10 năm chuẩn bị và đàm phán kể từ thời điểm tháng 1/1995. Theo điều 12 của hiệp định WTO, chúng ta trải qua các giai đoạn chủ yếu sau để gia nhập WTO: Giai đoạn 1: Nộp đơn xin gia nhập Tháng 1/19995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO thành lập ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO để xem xét và đàm phán về những cam kết, nghĩa vụ, quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO (đàm phán đa phương). Giai đoạn 2: Gửi “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam” tới ban công tác. Tháng 8/1996 Việt Nam hoàn thành “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam” và gửi tới ban thư ký WTO chuyển tới các thành viên của ban công tác. Trong “Bị vong lục” gửi tới các thành viên của ban công tác không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Giai đoạn 3: Minh bạch hoá chính sách thương mại. Sau khi nghiên cứu “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam”, các thành viên đặt ra câu hỏi yêu cầu Việt Nam trả lời để hiểu rõ chính sách, bộ máy quản lý, thực thi chính sách của Việt Nam. Ngoài việc trả lời các câu hỏi đặt ra, Việt Nam củng phải cung cấp nhiều thông tin khác theo biểu mẫu do WTO quy định về hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp trong công nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện pháp đầu tư không phù hợp với quy định của WTO, về thủ tục hải quan, về hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ… Giai đoạn 4: Đưa ra các bản chào ban đầu và tiến hành đàm phán. Gia nhập WTO có nghĩa là Việt Nam được quyền tiếp cận tới thị trường của tất cả các thành viên khác trên cơ sở đối xử Tối huệ quốc (MFN). Để được hưởng thuận lợi này Việt Nam củng phải cam kết chấp nhận các nguyên tắc đa biên, cam kết giảm dần mức bảo hộ, giảm thuế nhập khẩu và có lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng nghiêm cấm nhập khẩu, đặt ra hạn ngạch nhập khẩu hay cấp phép nhập khẩu. Mặt khác, Việt Nam củng phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia kinh doanh trong nhiều lĩnh vực dịch vụ với những điều kiện thông thoáng hơn. Mức độ mở cửa thị trường tiến hành thông qua đàm phán với tất cả các thành viên quan tâm. Trước hết Việt Nam đưa ra những bản chào ban đầu về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ để thăm dò phản ứng của các thành viên WTO. Trên cơ sở đó, các thành viên yêu cầu Việt Nam phải giảm bớt mức độ bảo hộ ở một số lĩnh vực. Việt Nam xem xét yêu cầu của họ và nếu chấp nhận được thì có thể đáp ứng hoặc đưa ra mức bảo hộ thấp hơn một chút. Quá trình đàm phán như vậy tiếp diễn cho tới khi mọi thành viên đều chấp nhận với mức độ mở cửa của thị trường hàng hoá và dịch vụ của ta. Để đạt được kết quả đàm phán cuối cùng cho việc gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện các đàm phán đa phương và đàm phán song phương với các đối tác có yêu cầu đàm phán về toàn bộ và từng nội dung nói trên cho tới khi đàm phán thoả mãn mọi thành viên WTO. Giai đoạn 5: Hoàn thành nghị định thư gia nhập. Sau khi kết thúc đàm phán với tất cả các đối tác có yêu cầu đàm phán, một nghị định thư nêu rõ nghĩa vụ của Việt Nam trong khuân khổ WTO được hoàn tất dựa trên các thoả thuận trong các cuộc đàm phán song phương, đàm phán đa phương và tổng hợp các cam kết song phương. Giai đoạn 6: Phê chuẩn nghị định thư. Sau khi nghị định thư được nước ta phê chuẩn, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Để ra nhập ASEAN nước ta cần 2 năm đàm phán, đàm phán ký hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cần 4 năm. Để gia nhập WTO, nước ta vừa phải đàm phán với ban công tác của gần 40 nước thành viên về các cam kết đa phương liên quan đến 16 hiệp định chính của WTO và rất nhiều các quy tắc khác, đồng thời còn phải đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư với 28 thành viên có yêu cầu đàm phán song phương - mà đa số là những thành viên có nền kinh tế mạnh như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ… Cuộc đàm phán để gia nhập WTO khác với tất cả các cuộc đàm phán khác. Các cuộc đàm phán khác là đàm phán “có đi, có lại”, đối tác dành cho ta lĩnh vực này thì ta dành cho họ lĩnh vực khác. Còn đàm phán để gia nhập WTO dường như chỉ là đàm phán một chiều, chúng ta phải căn cứ vào quy định WTO, cam kết của các nước mới gia nhập và yêu cầu của các nước để thương lượng, thuyết phục. Chúng ta tiến hành đàm phán trong điều kiện rất khó khăn, do các nước mới gia nhập cam kết rất cao và các nước càng gia nhập sau cam kết càng phải cao hơn các nước gia nhập WTO trước. Ngoài ra, có nước còn đưa ra yêu cầu cao đối với nước ta với nhiều lý do, mục đích khác nhau. Chính vì vậy, tổng hợp những cam kết về nghĩa vụ của Việt Nam gia nhập WTO là những khó khăn, thách thức lớn mà nước ta cần phải vượt qua. 2.2.3. Những nghĩa vụ của Việt Nam Bên cạnh những lợi ích và cơ hội có được khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải cam kết thực hiện một số nghĩa vụ, bao gồm áp dụng mức thuế thấp cho hàng nhập khẩu, mở cửa thị trường dịch vụ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thiết lập chính sách cho đầu tư nước ngoài, tiếp tục cải cách kinh tế và quản lý nhà nước nhằm tuân thủ theo các yêu cầu của WTO. Đặc biệt hơn, Việt Nam còn phải thực hiện những cam kết được coi như là cam kết “WTO+” - Việt Nam phải tạo thuận lợi cho các thành viên WTO thâm nhập thị trường dưới hình thức giảm thuế nhập khẩu cho hàng nông nghiệp và công nghiệp. Đó là cam kết ràng buộc trong Nghị định thư gia nhập WTO của nước ta. - Việt Nam phải mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà kinh doanh nước ngoài như ngân hàng, bảo hiểm, vân tải, thông tin, kỹ thuật, tư vấn, luật sư…(nằm trong cam kết gia nhập WTO của nước ta). - Việt Nam sẽ phải cam kết bảo vệ ở mức độ phù hợp về sở hữu trí tuệ (phát minh, sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại, các chương trình máy tính…) bằng các thủ tục pháp lý trong nước đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. - Về dịch vụ: Hiện đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP toàn cầu và bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, phục vụ trực tiếp cho sản xuất, tiêu dùng. Thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam phải chấp nhận để các nước thành viên cung ứng dịch vụ theo các phương thức: + Cung ứng qua biên giới: Theo đó các thương nhân đăng ký kinh doanh ở một nước thành viên có quyền cung ứng dịch vụ cho các pháp nhân và thể nhân của các thành viên mà không cần lập hiện diện thương mại tại các nước thành viên đó. Phương pháp này ngày càng phát triển với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet. + Tiêu dùng ngoài lãnh thổ: Theo đó, nước ta phải để cho pháp nhân và thể nhân nước mình được sử dụng dịch vụ do các thương nhân của các nước thành viên khác cung cấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. + Hiện diện thương mại: Nước ta phải để cho các thương nhân cung cấp dịch vụ của các nước thành viên khác lập công ty để kinh doanh dịch vụ bình đẳng như các thương nhân của nước ta. + Hiện diện thể nhân: Đây vừa là phương thức hiện diện thương mại, đồng thời là sự di chuyển thể nhân - về bản chất là để cho công dân các nước thành viên vào hoạt động dịch vụ ở nước mình. Tuy nhiên, do phương thức này tác động trực tiếp đến việc làm của từng nước, nên trong vòng Urugoay - vòng đàm phán để thành lập WTO - các nước chưa đạt được thoả thuận cụ thể. Trong vòng đàm phán Doha hiện nay, một số nước đang yêu cầu đưa nội dung này vào cam kết. - Mở cửa thị trường đầu tư: Yêu cầu đặt ra là nước ta phải mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư mà không hạn chế lĩnh vực, quy mô đầu tư, trừ những lĩnh vực có liên quan trực tiếp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, đến truyền thống văn hoá dân tộc. Điều này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển công nghiệp của các nước đang phát triển như nước ta. Khi mở cửa thị trường theo ba lĩnh vực nêu trên, nước ta cũng phải tuân thủ các nguyên tắc: + Không phân biệt đối xử, gồm: Không phân biệt đối xử giữa hàng hoá nước này với hàng hoá nước khác, giữa doanh nghiệp nước này với các doanh nghiệp nước khác về các chính sách thuế, giá hàng hoá - dịch vụ và các biện pháp tiếp cận thị trường (đối xử Tối huệ quốc - MFN). Không phân biệt đối xử giữa hàng hoá nước mình với hàng hoá nước khác, giữa doanh nghiệp nước mình với doanh nghiệp các nước khác (đối xử Quốc gia - NT) + Thực hiện minh bạch, công khai trong cơ chế, chính sách để mọi thương nhân, mọi người có quyền và cơ hội tiếp cận thông tin như nhau, tạo ra điều kiện bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. + Thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (nghĩa vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Hiệp định các vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). + Tuân thủ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và sự phán xử của cơ quan tài phán quốc tế do tổ chức này thiết lập. - Ngoài ra, nước ta cũng như các nước thành viên WTO còn phải tuân thủ rất nhiều Hiệp định và quy định, thông lệ khác của WTO. 2.3. Những khó khăn, thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 2.3.1. Khó khăn của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn rất thấp, còn đang trong quá trình chuyển đổi, kinh tế thị trường mới còn đang trong giai đoạn phát triển sơ khai, các yếu tố cơ bản đồng bộ của một thị trường chưa phát triển đầy đủ. Điều đó dẫn đến khả năng kinh doanh và cạnh tranh của các chủng loại hàng hoá, các chủng loại dịch vụ của từng doanh nghiệp rất yếu kém. Thị trường thế giới để cho hàng hoá nước ta tiêu thụ rất hạn hẹp, có lúc, có chỗ ta vừa chiếm lĩnh được, ta vừa đặt chân tới thì đã bị thôn tính. Trong bối cảnh quốc tế tự do buôn bán, tự do đầu tư, chúng ta đang ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hàng hoá cho nước ngoài. Mặt khác chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn như: Phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách cho phù hợp với quy định WTO, nguồn thu ngân sách trước mắt sẽ bị suy giảm do cắt giảm thuế nhập khẩu, vấn đề an sinh xã hội sẽ phức tạp do phải cắt giảm lao động trong nhiều ngành nghề do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả phải phá sản, do khoảng cách giàu nghèo gia tăng… Hiện nay, trong xã hội, trong đảng, trong bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là nhận thức về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều chính sách, cơ chế và quy định của nước ta không phù hợp với các quy định của quốc tế, dẫn tới rất nhiều phiền toái trong giao dịch thương mại, nhiều khi mất thời cơ, mất hàng hoá, mất tiền. Đến nay, chiến lược về hội nhập kinh tế đang được hình thành, ngày 27/ 11/ 2001 Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra nghị quyết số 07 về hội nhập kinh tế. Phải khẳng định đây là một quốc sách quan trọng của Đảng ta, nhưng trong 5 năm qua trong quá trình hành động cụ thể, thì bước tiến còn rất chậm chạp. Thành thử trong hành loạt các vấn đề liên quan đến quản lý xã hội, quản lý kinh tế cần phải được nhanh chóng giải quyết để tạo đà cho hội nhập vẫn chưa được đồng bộ tháo gỡ và phát triển. Ví dụ: Chúng ta chưa xây dựng hệ thống tổ chức kinh tế đối ngoại đủ mạnh, chưa chuẩn bị được một đội ngũ cán bộ đủ sức đối đầu và cạnh tranh trên thương trường. Đặc biệt là việc ngăn ngừa, hạn chế những tác động xấu về văn hoá, lối sống… 2.3.2. Thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Thách thức lớn nhất khi gia nhập WTO chúng ta phải tuân theo các quy định hiện hành của WTO gồm 16 hiệp định. WTO yêu cầu chúng ta phải minh bạch hoá tất cả các chính sách kinh tế, thương mại, rà soát và có chương trình xây dựng pháp luật để đảm bảo khi gia nhập có khả năng thực thi các cam kết. Thách thức thứ hai: 18 nước mới gia nhập WTO đều cam kết rất cao. Về mức thuế nhập khẩu trung bình, hầu hết các nước cam kết dưới 20%, thậm chí có một số nước cam kết dưới 10%, những nước gia nhập gần đây cam kết càng thấp hơn. Đối với dịch vụ họ cũng cam kết mở cửa thị trường cao hơn các thành viên cũ. Đối với trợ cấp nông nghiệp là lĩnh vực nhạy cảm nhất, một vài nước mới gia nhập thậm chí đã cam kết bỏ trợ cấp xuất khẩu. Bảng 4: Mức cam kết của các thanh viên gia nhập WTO Mức cam kết trung bình của các thành viên mới gia nhập Tên nước (xếp theo thứ tự thời gian gia nhập) Thuế quan trung bình cho tất cả các mặt hàng Thuế quan trung bình cho nông sản Thuế quan trung bình cho hàng phi nông sản 1. Ê-cu-a-do 20.95 25.8 20.1 2. Bun-ga-ri 17.62 34.9 12.6 3. Mông Cổ 19.44 18.4 20 4. Pa-na-ma 13.44 26.1 11.5 5.Kư-rơ-gư-xtan 9.33 11.7 6.7 6. Lat-vi-a 12.65 33.6 9.3 7. E-xtô-ni-a 7.93 17.7 6.6 8. Gioóc-đa-ni 16.28 25 15 9. Gru-di-a 6.61 12.1 5.8 10. An-ba-ni 6.92 10.6 6 11. Ô-man 13.51 30.5 11 12. Crô-a-ti-a 5.82 10.4 5 13. Lít-va 9.34 15.6 8.2 14. Môn-đô-va 6.65 12.4 5.7 15. Trung Quốc 9.73 15 8.9 … Việt Nam 26.3 31.4 25.5 Nguồn: Bản chào thuế nhập khẩu của Việt Nam Thách thức thứ ba: Vòng đàm phán mới Đôha đã được huy động và các nước đang thúc đẩy để có thể kết thúc theo lộ trình vào ngày 1/ 1/ 2005. Vòng đàm phán này yêu cầu các nước đàm phán toàn diện cả hàng hoá và dịch vụ, thực thi các cam kết cũ và có cơ chế giải quyết tranh chấp… Trong nông nghiệp, sẽ đàm phán giảm trợ cấp nông nghiệp và tiến tới bỏ trợ cấp xuất khẩu. Một số lĩnh vực mới được đưa vào đàm phán như: Gắn thương mại với môi trường, thương mại với điều kiện lao động, cạnh tranh trong thương mại, hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo, vấn đề sở hữu trí tuệ như: thuốc chữa bệnh liên quan đến sức khỏe cộng đồng… Đây là sức ép rất lớn đối với ta trong khi nền kinh tế của ta vẫn ở tình trạng kém phát triển, năng lực cạnh tranh yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa số. Hội nhập kinh tế quốc tế là một công việc hết sức mới mẻ, khó khăn và không ít thách thức. Xây dựng một chiến lược hội nhập với những kế hoạch cụ thể với một hệ thống tổ chức chặt chẽ và hệ thống chính sách thông thoáng, cởi mở, một đội ngũ cán bộ giỏi, thạo việc là những điều kiện cần phải có để nước ta gia nhập WTO. 2.4. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 2.4.1. Lợi thế về kinh tế 2.4.1.1. Lợi thế về thương mại - dịch vụ 2.4.1.1.1. Lợi thế về hoạt động xuất nhập khẩu Nhờ chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường, cạnh tranh có sự điều tiết bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước ngành xuất khẩu của ta như: dệt may, giầy dép, gạo, cà phê, hải sản… đã phát tiển rất nhanh, đẩy xuất khẩu của ta từ quy mô hàng triệu lên hàng tỷ USD tạo ra nhiều lợi thế cho nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO. Nền kinh tế của ta đã thực sự hướng ngoại đáng kể, 2/3 nền kinh tế hiện nay là liên quan đến xuất khẩu trong đó 1/3 hàng hoá làm ra để xuất khẩu còn 1/3 sản xuất của ta phụ thuộc vào nguồn vật tư thiết bị cung cấp từ nguồn nhập khẩu. Việc hội nhập đã giúp xuất khẩu đạt hàng chục tỷ USD trên 1/3 GDP, tính chung 5 năm (2001 - 2005) tổng kim ngạch xuất khập khẩu đạt 109,1 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 16,2% (đạt chỉ tiêu tăng trưởng 16% do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra). Kim ngạch xuất khẩu bình quân người năm 2005 đạt gần 370 USD. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đều có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, tính bình quân 5 năm 2001 - 2005 nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 12,7% và chiếm tỷ trọng 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu: nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 20,8% chiếm tỷ trọng 40,2%; nhóm hàng nông lâm, thuỷ sản tăng 14,6% chiếm tỷ trọng 27%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất đã dần chiếm ưu thế trong tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2005 ngoài dệt may và dầu thô có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD còn có thêm 05 mặt hàng đạt kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, giầy dép, hàng điện tử, sản phẩm gỗ và gạo. Các mặt hàng gạo và cà phê tiếp tục duy trì vị trí thứ 02 thế giới riêng hạt tiêu đứng đầu thế giới còn hạt điều đứng thứ 03 thế giới. Trong tiến trình hội nhập của mình chúng ta đã bước đầu thực hiện mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng bước nâng lên, năng lực cạnh tranh được cải thiện. Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 - 2005 đạt 21,1% tỷ USD tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm bằng khoảng 19% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và xấp xỉ với mức bình quân thế giới (bình quân thế giới là 20%). Trong đó một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính - ngân hàng, du lịch. Trong thời gian qua cơ cấu trị trường xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường Châu Á, đặc biệt thị trường Châu Âu. Việt Nam đã có những bước tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt vào thị trường Mỹ (theo thống kê tổng xuất khẩu của ta vào Mỹ tăng gấp 6 lần trong 5 năm, đặc biệt các mặt hàng tăng mạnh nhất là giày dép, dệt may, máy móc, điện tử, nông sản chế biến) đây là thời kỳ chuyển hướng thị trường và thay đổi cơ cấu kinh tế. Thời kỳ này chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mà chúng ta có ưu thế về thủ công và lao động giá rẻ như giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bước đầu phát triển máy móc và hàng chế biến cao. Bảng 5: Một số mặt hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ năm 2000 và 2005 Đơn vị: tỷ USD Mặt hàng Năm 2000 Năm 2005 So sánh Giày dép 230 1000 435% Hàng may mặc 84 1000 1190% Thuỷ sản 200 200 100% Nông sản chế biến 62 100 161% Cà phê hạt 162 200 123% Tổng 738 2500 339% Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2.4.1.1.2. Lợi thế về hoạt động thương mại Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từ năm 1986 đến nay nền kinh tế thương mại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ở tất cả các ngành nghề kéo theo các chuyển biến tích cực về văn hoá - xã hội tạo ra rất nhiều lợi thế khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong công nghiệp các doanh nghiệp nhà nước được trao quyền tự chủ, thực hiện hoạch toán kinh tế mở rộng sản xuất, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi được ban hành đã tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn, góp phần nâng cao năng lực sản xuất. Thời kỳ này, thương mại được coi là then chốt ._.g thể triển khai thực hiện trong cuộc sống được, mà phải chờ đợi. Đối với dịch vụ bảo hiểm, ra soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật về dịch vụ bảo hiểm và đối chiếu với những quy định quốc tế (cụ thể là các nguyên tắc và quy định của GATS). Trên cơ sở đó, từng bước sửa đổi , bổ sung, thậm chí ban hành mới các văn bản luật và dưới luật điều chỉnh dịch vụ bảo hiểm theo hướng vẫn giữ được định hướng chính trị, bản sắc văn hoá dân tộc mà vẫn có thể tương thích với các quy định bắt buộc của GATS khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Ngay trước mắt chưa thể sửa đổi, bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 vì luật này có hiệu lực từ tháng 4 - 2001. Tuy nhiên, nước ta cần xây dựng lộ trình cam kết mở cửa thị trường về dịch vụ bảo hiểm, dựa vào đó để ban hành các văn bản dưới luật chứa đựng những quy định tương ứng về mở cửa dần dịch vụ bảo hiểm. Ví dụ: Từng bước cho phép các công ty bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động sâu rộng hơn trên thị trường bảo hiểm nước ta. Đến năm 2010 xoá bỏ hạn chế việc mở chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc. Đến năm 2015 xoá bỏ các hạn chế về đối tượng khách hàng, phạm vi kinh doanh của doang nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với dịch vụ tài chính, công việc trước mắt hiện nay là nước ta cần xoá bỏ các chính sách trái với các nguyên tắc của GATS, trái với cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ tài chính. Ví dụ: Chính sách về quản lý ngoại hối, trong điều kiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn thấp thì việc kiểm soát và quản lý ngoại hối là yêu cầu bứt buộc. Tuy nhiên, trong quản lý cũng cần phân loại, tách biệt giữa những biện pháp mang tính chất thận trọng nhằm bảo đảm dự trữ ngoại hối với những biện pháp gây cản trở thượng mại. Loại bỏ dần chính sách thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đây xem là hạn chế lớn của môi trường đầu tư Việt Nam. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, rõ ràng và minh bạch các hệ thống pháp luật về dịch vụ tài chính. Loại bỏ tình trạng mâu thuẫn lẫn nhau trong các văn bản. Chẳng hạn như luật doanh nghiệp quy định trường hợp thành lập công ty kiểm toán cần tối thiểu 1 kiểm toán viên, nhưng trong Nghị định 07/CP về kiểm toán độc lập thì quy định tối thiểu là 5 kiểm toán viên. Hoặc đã ban hành luật nhưng lại thiếu các văn bản hướng dẫn gây tình trạng thiếu đồng bộ, những tác động không tốt tới hiệu quả thực thi luật. Ví dụ: Khi quy định các loại hình công ty bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 59.3) đã chỉ rõ bao gồm cả các tổ chức bảo hiểm tương hỗ, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể, nên cho tới nay vẫn chưa có một tổ chức bảo hiểm nào tương hỗ đi vào hoạt động. Điều đó đã hạn chế sự đa dạng hoá các loại hình công ty bảo hiểm ở Việt Nam. Đối với dịch vụ ngân hàng, ngay trước mắt chưa thể sửa đổi, bổ sung Luật ngân hàng Nhà nước vì luật này mới sửa đổi tháng 6/2003. Tuy nhiên, để gia nhập GATT/WTO cũng như việc thực hiện các quy định về dịch vụ bảo hiểm của GATT/WTO sau khi gia nhập, nước ta cần thiết xây dựng lộ trình cam kết mở của thị trường về dịch vụ ngân hàng, nên chúng ta phải sửa đổi Luật ngân hàng Nhà nước và Luật tổ chức tín dụng theo hướng bảo đảm sự bình đẳng chi các chủ thể khai thác dịch vụ ngân hàng, tính minh bạch rõ ràng của pháp luật, thể hiện được các hình thức cung cấp các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Các điều kiện đặt ra cho phép việc cấp phép đặt chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như vốn pháp định, thời hạn đã hoạt động kinh doanh cho đến thời điểm xin phép, yêu cầu phát triển kinh tế thị trường tài chính Việt Nam… cần được loại bỏ dần và đến năm 2015 thì loại bỏ hoàn toàn. Đến đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam cũng như ngoại tệ từ dân cư. Trước mắt, cần loại bỏ sự khác biệt về mức phí cấp phép mở chi nhánh. Văn phòng đại diện của ngân hàng liên doanh, của tổ chức tín dụng phi ngân hàng (theo Nghị định số 13/1999/NĐ-CP) để không còn phân biệt đối xử quốc gia về mức phí này. Bên cạnh đó cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số văn bản về nghiệp vụ ngân hàng có liên quan như: Sửa đổi Pháp lệnh kế toán, bổ sung những quy định mới về lập chứng từ kế toán, hoạch định theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chứng từ ngân hàng điện tử, chữ ký điện tử… để tiến tới công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, công nhận tính pháp luật của các văn bản điện tử ở các hợp đồng thương mại… Đối với dịch vụ viễn thông, Pháp lệnh bưu chính - viễn thông được Quốc hội thông qua ngày 25/ 5/ 2002, trong đó đã thể hiện những quan điểm lớn của Đảng và Chính phủ nêu trong Nghị quyết 07/NQ-TW của Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương 3, khoá IX là: “Đảm bảo chủ quyền, phát huy nội lực, thể hiện thiện chí mở cửa, hội nhập”. Vì vậy, trước mắt cần tiến hành xây dựng mới những văn bản dưới luật phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, tăng cường tính minh bạch và công khai của các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông theo hướng loại bỏ độc quyền kinh doanh. 3.2.1.2 Cải cách hành chính Sắp xếp lại các cơ quan nhà nước theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp thương mại, các lực lượng quản lý thị trường. Cơ cấu lại bộ máy chính phủ theo hướng giảm dần các mối phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm dần cấp phó, bỏ các cấp trung gian, giảm bộ phận phục vụ trong cơ quan hành chính, chuyển sang hình thức hợp đồng dịch vụ, phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với việc hướng dẫn thực hiện thanh tra của cấp trên. Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp, nghiên cứu việc giảm bớt hội đồng nhân dân cấp quận ở đô thị. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính để loại bỏ các loại giấy tờ, thủ tục giấy tờ không cần thiết, công bố công khai. Minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, người chiụ trách nhiệm và thời hạn giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước, các đơn vị cung cấp dịch vụ công để các doanh nghiệp và người dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện, cải cách thủ tục, cơ chế trong lĩnh vực thuế, hải quan, đẩy mạnh thực hiện chương trình và lộ trình thực hiện hải quan, điện tử. Ban hành hệ thống phân cấp mới theo một đề án tổng thể của chính phủ bảo đảm tính hệ thống, sự tương thích trong các lĩnh vực, ban hành cơ chế kiểm tra việc thực hiện phân cấp, gắn phân cấp với công tác kiểm tra, giám sát. Xây dựng cơ chế thẩm vấn đối với các đối tượng được quản lý, các doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật theo nguyên tắc công khai, minh bạch của WTO. Hoàn thiện tiêu chuẩn công thức theo yêu cầu hội nhập, đào tạo, xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và hiện đại, hoàn thiện pháp luật về công chức, trong đó chú trọng việc tăng quyền hạn cho người đứng đầu đơn vị. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và doanh nghiệp, những người không đủ năng lực và thiếu trách nhiềm khi thực thi công vụ. Kiện toàn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, tăng cường cán bộ am hiểu về kinh tế và thương mại quốc tế, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao, phát huy vai trò chủ động của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong việc phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan trong nước để phát triển thị trường, xuất khẩu, xúc tiến du lịch và thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong các vụ tranh chấp thương mại. Tổ chức cơ quan đại diện của Việt Nam tại WTO đủ số lượng, nâng cao chất lượng để phối hợp với các cơ quan trong nước, hoạt động hiệu quả và tham gia đàm phán đa phương và song phương với các đối tác trong WTO. Tiến hành đánh giá lại vai trò và hiệu quả của uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế sau khi gia nhập WTO, xây dựng đề án về cơ chế và tổ chức phối hợp liên ngành trong đàm phán quốc tế về hợp tác song phương, đa phương bảo đảm hiệu quả, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. 3.2.1.3. Tuyên truyền quảng bá về định chế WTO Nhà nước cần tổ chức, nghiên cứu quán triệt Nghị quyết làm cho cán bộ, công chức, viên chức và toàn dân nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đặt ra khi Việt Nam là thành viên của WTO, phát huy ý chí tự lực tự cường huy động nội lực, tận dụng tối đa lợi thế của Việt Nam, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Đại hội lần thứ X của đảng đã đề ra đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Sử dụng đa dạng các kênh thông tin và phương tiện truyền thông, các lớp tập huấn để phổ biến các định chế, cũng như nội dung các cam kết cụ thể cho các đối tượng có liên quan: Cơ quan nhà nước, chủ thể sản xuất, kinh doanh, hiệp hội ngành nghề nhằn nâng cao hiểu biết về nội dung các cam kết cũng như các công việc phải làm. Định hướng thông tin phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời chấn chỉnh thông tin sai lệch về tác động của WTO. Sử dụng các phương tiện truyền thông để hỗ trợ các doanh nghiệp nắm vững chính sách phát triển kinh tế xã hội của nuớc ta và các quy tắc , luật lệ của WTO. Ngoài ra nhà nước cần sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo, tuyên truyền qua các hội thảo, các chương trình giáo dục trong nhà trường… nhằm giới thiệu rộng rãi các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cho mọi người dân trong cả nước. Tập huấn cho các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư, bảo đảm quy trình thẩm định đầu tư và cấp giấy chứng nhận theo đúng các cam kết quốc tế của Việt Nam. 3.2.1.4. Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực Cải cách chương trình giáo dục, đào tạo, cách dạy và học phải được coi là yêu cầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo. Hệ thống đào tạo phải đáp ứng được mục tiêu phát triển con người toàn diện. Theo nghĩa đó bên cạnh các môn học cơ bản, các chương trình giáo dục, đào tạo cần dành một tỷ lệ thích đáng cho các môn học cung cấp các loại tri thức mang tính công cụ tối thiểu của thời đại, các kỹ năng phản ứng với thị trường lao động. Đặc biệt, cần chú trọng hơn nữa giáo dục thể lực cho học sinh, sinh viên coi đó là bộ phận cấu thành không thể thiếu trong chương trình giáo dục -đào tạo ở tất cả các cấp bậc học. Cách dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức cũng như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề. Cụ thể hơn nữa, cần xem xét và giảm bớt phần lý thuyết, tăng phần thực tiễn trong bậc giáo dục phổ thông. Đối với giáo dục đại học hoặc trên đại học: Để làm tăng năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng với công việc sau khi ra trường của sinh viên, việc gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa lý thuyết với thực hành cần được hết sức chú trọng. Năng lực cạnh tranh và hội nhập của đội ngũ lao động Việt Nam chỉ có thể được nâng cao một khi khoảng cách hiện tại giữa các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động và nhu cầu thực tế của thị trường lao động được thu hẹp. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật, bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề (đào tạo lại) và đào tạo ngành mới phải được hết sức chú trọng. Để có thể thu hẹp dần khoảng cách giữa các hoạt động đào tạo, bồ dưỡng tay nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, những biện pháp nên được xem xét lại. Xác định rõ ràng (theo tín hiệu thị trường) các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ và kỹ năng cần thiết để có thể quy hoạch lại hệ thống đào tạo nghề theo hướng đồng bộ từ cơ cấu ngành đến cơ cấu vùng, địa phương, giúp xử lý hài hoà quan hệ đào tạo với các ngành công nghệ cao (thông tin, bưu chính viễn thông, cơ - điện tử, dầu khí,…) với các ngành sử dụng nhiều lao động (may mặc, giày da, chế biến nông sản,…) hoặc giữa đào tạo nghề cho thành thị, với đào tạo nghề cho nông thôn. Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề được đăng ký chính thức và các loại văn bản chứng chỉ do họ cấp phải được các cơ quan quản lý Nhà nước công nhận. Có sự phối hợp chặt chẽ trong khi hoạch định chính sách đào tạo bồi dưỡng và chính sách điều chỉnh cơ cấu, nhất là cấp địa phương. Việc hợp tác, phối hợp giữa các bên tham gia thị trường lao động (các xí nghiệp có nhu cầu về lao động, về tay nghề mới của người lao động, cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) có thể làm cho hoạt động đào tạo xích gần hơn với những như cầu thực tế của các xí nghiệp về lao động và các loại ngành nghề. Kết hợp đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản ở các trường dạy nghề, các trường THCN và cao đẳng với việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Huy động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung đào tạo đại học và giáo dục nghề. Nâng cao và đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học Bổ sung, sửa đổi, ban hành các chính sách đối với người quản lý, người dạy và người học nghề, xây dựng ban hành hệ thống danh mục nghề và các tiêu chuẩn kỹ năng nghề thông qua các giáo trình chuẩn. Kết hợp giáo dục đào tạo với các biện pháp kinh tế và hành chính để nâng cao đạo đức, kỷ luật lao động công nghiệp. Nâng cao thể lực người lao động Đổi mới hệ thống y tế, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một trong những hướng chủ yếu để nâng cao chất lượng lao động. Một số giải pháp trước mắt là: Xây dựng mạng lưới y tế đến tận cấp thôn, đảm bảo để 100% xã có trạm xá, củng cố và nâng cao mạng lưới y tế ở nông thôn. Tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ. Trong đó ưu tiên cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cho các biện pháp phòng bệnh, nhất là các bệnh dịch như sốt rét, bại liệt, bướu cổ. Các chương trình cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm đã thu hút sự tham gia của các khu vực tư nhân vào lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ người lao động. Mở rộng hoạt động đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ y tế cho các vùng nông thôn miền núi. Tăng cường giáo dục thể lực trong trường lớp, cơ sở đào tạo: Nâng cao chất lượng và tăng thời lượng cho giáo dục thể lực, đặc biệt ngay từ bậc trung học phổ thông. Phát huy tiềm năng hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ “lao động chất xám” Hiện nay ở nước ta việc áp dụng các công cụ khuyến khích thích hợp đối với lao động chất xám, kể cả lao động KHCN và lao động quản lý, có thể giúp phát huy mạnh hơn nữa các tiềm năng của lao động chất xám, làm tăng khả năng cạnh tranh của loại lao động này trên thị trường lao động. Để đạt được mục tiêu này, các biện pháp có thể được xem xét là: Khuyến khích (cả bằng vật chất lẫn tinh thần) sự sáng tạo của cá nhân và tập thể các nhà KHCN, các nhà quản lý kinh doanh bằng cách tạo điều kiện tố về cuộc sống và làm việc cho lực lượng này trên tinh thần trọng dụng nhân tài. Áp dụng các hình thức biểu dương, tôn vinh các nhà khoa học có thành tích và chuyên gia hàng đầu. Khuyến khích và trân trọng những tìm tòi khám phá khoa học, những kiến nghị giải pháp về các vấn đề của tự nhiên, kỹ thuật cũng như kinh tế - xã hội khác nhau. Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho các phòng thí nghiệm, một số viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn ở các trường đại học ở mức tiên tiến trong khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện cho các trường đại học, các viện nghiên cứu. Việc tạo lập thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ của lao động KHCN và quản lý cũng là một trong những yếu tố có thể làm tăng tính cạnh tranh của phạm trù lao động này. Tính chất thị trường trong các chính sách và biện pháp quản lý hoạt động lao động chất xám cần được thể hiện sao cho các sản phẩm của hoạt động công nghệ, nghiên cứu cũng như triển khai, được trao đổi như hàng hoá. Việc hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả cũng là một vấn đề cấp bách cần sớm được giải quyết. Sự thiếu hoàn chỉnh của hệ thống này đã và đang là rào cản trở lớn đối với sáng tạo Khoa học Công nghệ. 3.2.1.5. Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư Ban hành các cơ chế, chính sách nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư và hình thức đầu tư; tạo cơ chế đặc biệt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng. Ban hành quy định phân cấp đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung hơn để bảo đảm hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Xây dựng đề án điều chỉnh chiếm lượng tổng thể phát triển các ngành sản xuất hàng hoá, xây dựng hệ thống mã số về dịch vụ và chiến lược tổng thể phát triển các ngành dịch vụ, tiến hành điều chỉnh lại chiến lược phát triển các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh để định hướng đầu tư của doanh nghiệp. Ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư gián tiếp để tạo khả năng đa dạng hoá nguồn đầu tư, gia tăng tính linh hoạt và khả năng kết nối của thị trường vốn nước ta với thị trường vốn quốc tế, bảo đảm an toàn và ổn định kinh tế vĩ mô. 3.2.1.6. Hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghiên cứu bổ xung các quy định của pháp luật khuyến khích các mô hình hợp tác xã, xác lập mối liên kết giữa các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, nuôi trông thuỷ sản, khai thác thuỷ sản với nhau và với các cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại nhằm hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn gắn với việc quản lý quá trình tăng trưởng, quản lý chất lượng và cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng chính sách thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất gắn với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành khác. Ban hành chính sách khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Ban hành chính sách khuyến khích nông dân mua cổ phần trong các cơ sở chế biến nông - hải sản, tạo ra đồng sở hữu của người sản xuất nguyên liệu trong các cơ sở chê biến, qua đó tăng thu nhập cho nông dân, bảo đảm chất lượng và sự ổn định trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiêp sử dụng người lao động chưa qua đào tạo để tạo thêm việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực lao động ở thành phố lớn, đồng thời ban hành chính sách thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở dạy nghề để chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn. Tiến hành công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn song song với việc thực hiện chính sách xã hội, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng kết hợp với xoá đói, giảm nghèo và dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn. Xây dựng kho tàng, chợ đầu mối để mở rộng thị trường nông thôn, tăng khả năng điều tiết lộ hàng hoá lưu thông trên thị trường. Xây dựng và thực hiện các chương trình đồng bộ phát triển kinh tế xã hội ở những vùng khó khăn, vùng núi và vùng đồng bào dân tộc để hỗ trợ người dân ở các vùng này phát triển sản xuất, cải thiện điều kiện ăn, ở, đi lại… nâng mức hưởng thụ văn hoá, tiếp cận thông tin cho đồng bào nhằm hạn chế và tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với các vùng khác. 3.2.1.7. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường. Rà soát lại các tiêu chuẩn môi trường và điều chỉnh, bổ sung theo hướng tiếp cận dần với tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng và triển khai các đề án bảo vệ môi trường các lưu vực sông, bảo tồn biển và ven biển, nâng cao năng lực quan trắc môi trường, phát triển công nghệ môi trường và ngành công nghiệp môi trường. Nghiên cứu, ban hành chính sách nhằm đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, thành lập các hiệp hội về môi trường, xây dựng hệ thống thông tin và báo cáo môi trường, đẩy mạnh công tác truyền thông môi trường. 3.2.1.8. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá dân tộc Xây dựng và áp dụng cơ chế cảnh báo sớm và có chế tài xử lý sự xâm nhập các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, làm phương hại đến sự phát triển của đát nước, giữ gìn truyền thống văn hoá và con người Việt Nam. Thiết lập cơ chế thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, hỗ trợ đầu tư, tài trợ, đặt hàng phù hợp để phát triển văn hoá, bảo vệ sự đa dạng văn hoá của Việt Nam. Đẩy mạnh thực thi pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường thuận lợi nhât cho sự sáng tạo các giá trị tinh thần của xã hội. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống thông tin đại chúng, chú trọng phát triển mạng lưới truyền hình, xuất bản, phát hành sản phẩm văn hoá, tăng cưòng chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí, nâng cao hiệu quả và cải thiện chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin, sửa đổi, hoàn thiện Luật báo chí. 3.2.1.9. Bảo đảm an ninh - quốc phòng Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trong quá trình hội nhập. Xây dựng các phương án đấu tranh chống lại âm mưu diễn biến hoà bình, chuyển hoá của các lực lượng thù địch, bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, ổn định trật tự và an toàn xã hội trước những biến đổi nhanh, phức tạp của xu thế toàn cầu hoá vừa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế cũng như gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. 3.2.2. Giải pháp vi mô Để phát huy các lợi thế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO mọi doanh nghiệp đều phải quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư cho khoa học công nghệ, hoạt động maketing, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào sản xuất - quản lý… Các bộ ngành cũng hết sức khuyến khích tạo điều kiện để phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp khuyến khích việc hợp tác trực tiếp các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tận dụng lợi thế của mỗi bên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để mở cửa thị trường. Trên thực tế, các giải pháp cho tiến trình này ở mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi nhóm doanh nghiệp, mỗi nhóm ngành là có mức độ khác nhau. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua các chiến lược ứng phó của các nhóm ngành doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam như: Chế tạo, ngân hàng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải biển. Trước hết, các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành chế tạo có chiến lược đối ứng linh hoạt bằng cách điều chỉnh đáng kể chiến lược kinh doanh như đầu tư công nghệ, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, tham gia vào các hiệp hội, đào tạo lao động và đầu tư Maketing. Đó là các chiến lược mà đa số các doanh nghiệp trong ngành chế tạo sử dụng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn đưa ra ý kiến sát nhập các doanh nghiệp lại để tăng quy mô kinh doanh hoặc chuyển hướng kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng lại có những giải pháp hết sức đặc trưng: Tiếp thu, chuyển giao các sản phẩm hoặc dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, tăng cường năng lực cạnh tranh trong các khâu như nguồn nhân lực, vốn, công nghệ thông tin, mạng lưới chi nhánh và cơ cấu quản trị công ty, có chiến lược khách hàng rõ ràng. Nâng cao năng lực cạnh tranh: Xây dựng đề án nâng cao năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia, xây dựng đồng bộ chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, và chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở phân tích khả năng của ngành, lĩnh vực, các Bộ quản lý Nhà nước đối với ngành và hiệp hội ngành hàng lựa chọn một số doanh nghiệp điển hình để phân tích khả năng cạnh tranh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong ngành tự phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Cụ thể: Một là, từng doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế sao sánh đã có và tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình. Để nâng cao cạnh tranh, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, nước ta còn có một lợi thế quan trọng. Đó là giá nhân công lao động rẻ so với nhiều nước trong khu vực nhất là so với các thành viên phát triển. Công lao động ở nước ta giá chỉ bằng một nửa của họ, thậm chí có ngành còn thấp hơn, trước hết chúng ta tận dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp thành viên WTO khác. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật có trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế trí thức cần đến. Do vậy, đông và rẻ không còn là lợi thế của ta. Cần phải tự tạo ra lợi thế mới, lợi thế mới này mỗi doanh nghiệp phải tự tìm và tạo ra cho mình từ chính những nguồn lực của mình. Hai là, biết kết hợp tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp khác trong hệ thống. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng để có thể thắng trong cạnh tranh, thay vì mạnh ai đấy làm. Mỗi doanh nghiệp đều phải nỗ lực tiến nhanh hơn đồng đội, đó là yêu cầu của cạnh tranh nhưng cũng sẵn sàng hợp tác với đồng đội lúc cần thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh. Làm được điều đó, chúng ta tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất. Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ thương mại. hiện nay, nước ta đã có một số mặt hàng có sức cạnh tranh ở thị trường một số nước trên thế giới như: Gạo, cà phê, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ… Song, còn nhiều mặt hàng khác tuy còn có thế mạnh sản xuất nhưng chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu,…do đó chưa cạnh tranh được thị trường thế giới, nhất là thị trường các thành viên WTO có nền công nghiệp tiên tiến, đông dân cư và có sức tiêu thụ lớn. Để hàng hoá và dịch vụ trên có sức cạnh tranh cao ở thị trường WTO, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, tăng cường các biện pháp quản lý để đạt mục tiêu chất lượng cao, giá thành hạ và tương đối ổn định, thương hiệu rõ ràng, hấp dẫn, dễ nhớ để thu hút đông đảo người tiêu dùng. Từ thực tế cho thấy doanh nghiệp nào chọn hướng đầu tư đúng và biết cách quảng bá thương hiệu, chiếm được niềm tin khách hàng thi đó là sức mạnh của doanh nghiệp để cạnh tranh ở thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Coi trọng phát triển những sản phẩm có thế mạnh và xây dựng được những thương hiệu mạnh, tổ chức phục vụ thuận tiện, văn minh cho người tiêu dùng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Kinh nghiệm cho thấy thương hiệu hàng hoá mạnh là một trong những giải phát cơ bản thực hiện cạnh tranh lành mạnh, giúp cho doanh nghiệp thắng lợi lớn. KẾT LUẬN Việc gia nhập WTO là một lợi thế nền kinh tế Việt Nam phát triển, hoà nhập với nền kinh tế chung của thế giới, từ đó dần nâng cao vị thế của kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ tạo lợi thế cho nền kinh tế tiếp cận với thị trường thế giới từ đó tạo điều kiện cho thương mại Việt Nam có được sân chơi bằng bình đẳng với các nước thành viên khác. Nhưng hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa vị kinh tế, đặc điểm xã hội - chính trị là một nước đang phát triển. Tuy nhiên với sự nỗ lực của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, tạo sự đồng thuận trong nhận thức ở tất cả các cấp về công cuộc đổi mới nói chung, về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đến việc tiếp tục đổi mới hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, đổi mới hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Từ đó biến các lợi thế đó để hoàn thành mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Toàn cầu hoá và khu vực hoá. Cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - 2000. 2. Tự do hoá và toàn cầu hoá. Rút ra những kết luận đối với công cuộc phát triển, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW -2000. 3. PTS. Đỗ Đức Định. Các nền kinh tế đang phát triển trong tiến trình tham gia WTO. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới. Số 3 (59) 1999. 4. Phan Thị Thanh Hà, Hội nhập kinh tế quốc tế với việc điều chỉnh một số chính sách thương mại, tạp chí Kinh tế và dự báo - số 4/2000. 5. Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hoá & vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế trong các nước đang phát triển và chuyển đổi, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số 5 (61) /1999. 6. “Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới” của NXB Lao động năm 2004 7. “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi gia nhập WTO” của Nhà xuất bản Lao động năm 2004. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT052.doc
Tài liệu liên quan