Tài liệu Cơ hội & thách thức hội nhập kinh tế quốc tế của ngành mía đường Việt Nam: ... Ebook Cơ hội & thách thức hội nhập kinh tế quốc tế của ngành mía đường Việt Nam
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cơ hội & thách thức hội nhập kinh tế quốc tế của ngành mía đường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PhÇn më ®Çu
Thế giới ngày nay đang sôi động trong một xu thế tất yếu là toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Sau hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, nước ta đã có một diện mạo mới đặc biệt là nền kinh tế. Chúng ta đã có một nền kinh tế với sự phát triển tương đối ổn định, tốc phát triển cao- đây là tiền đề quan trọng đưa chúng ta tiến những bước tiến vững chắc vào hội nhập nền kinh tế thế giới. Muốn hội nhập có hiệu quả chúng ta phải trở thành một nước công nghiệp. Chính vì thế Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là đến năm 2010 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiêp. Để thực hiện mục tiêu đó chúng ta đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình phát triển kinh tế và trong đó không thể không nhắc đến vai trò của chương trình mía đường trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần thực hiện mục tiêu dài hạn đến năm 2020. Mặc dù vậy do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngành công nghiệp mía đường của nước ta mới chỉ đạt được những thành tựu còn nhỏ bé so với tiềm năng, còn bộc lộ những mặt hạn chế.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan về hội nhập kinh tế quốc tế cùng với những nhân tố chủ quan của ngành mía đường Việt Nam việc nghiên cứu “Cơ hội và thách thức hội nhập kinh tế quốc tế của ngành mía đường Việt Nam” là hết sức cần thiết. Từ đó chúng ta sẽ thấy được những cơ hội mở ra, những thách thức gặp phải đồng thời chủ động đưa ra những giải pháp thiết thực để phát huy lợi thế, khắc phục những yếu kém còn tồn tại góp phần đưa ngành mía đường Việt Nam tiến vững chắc trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
PhÇn I
Mét sè vÊn ®Ò chung vÒ c«ng nghiÖp mÝa ®êng ViÖt Nam
1. §Æc ®iÓm cña ngµnh mÝa ®êng ViÖt Nam
1.1 Quy m« c¸c nhµ m¸y nhá víi c«ng suÊt thÊp
Với việc triển khai mạnh việc xây dựng và thành lập các nhà máy đường trên cả nước, cho đến nay trên cả ba miền tổ quốc chúng ta đã xây dựng được các nhà máy đường với quy mô và công suất khác nhau, tuy nhiên hầu hết các nhà máy ở VN đều có quy mô nhỏ hơn 2.000 tấn mía đường/ngày và chỉ có khoảng 5/47 nhà máy có công suất lớn hơn 6.000 tấn mía đường/ngày. So với các nước xuất khẩu đường lớn như Thái Lan. Nam Phi, Trung Quốc, CuBa, Brazil … thì quy mô cũng như công suất hoạt động của các nhà máy đường nước ta là rất thấp. Theo nghiên cứu của Viện Kinh tế Nông nghiệp, hiệu quả sản xuất đường từ mía có thể được tính theo các tiêu chí sau: quy mô nhà máy, hiệu suất thu hồi đường, tỷ lệ tiêu hao mía đường, tỷ lệ tận dụng công suất và yếu tố quyết định là giá thành sản xuất. Trong đó, quy mô của các nhà máy là chỉ số quan trọng về chi phí chế biến đường, bởi vì trong ngành mía đường trên toàn thế giới, tính kinh tế của quy mô nhà máy đường là rất đáng kể. Thông thường, những nước sản xuất đường lớn trên thế giới có quy mô nhà máy bình quân ở mức 7.000 tấn mía/ngày. Thậm chí, ở Australia hay Brazil, Thái Lan, quy mô nhà máy là trên 12.000 tấn. Trong sản xuất công nghiệp, quy mô càng lớn thì giá thành càng thấp. Ở Cuba, bình quân quy mô của mỗi nhà máy là 4.000 tấn mía/ngày, Brazil, Mexico 5.000, Thái Lan 12.000, Australia 10.000 tấn...
Thực tế trên trên xuất phát từ định hướng ban đầu của Nhà nước về việc thiết lập chương trình mía đường rộng khắp cả nước, do sự phân tán địa lý của ngành mía đường nước ta cùng với sự khó khăn về vốn đầu tư cho các nhà máy, chúng ta không thể xây dựng những nhà máy có quy mô và công suất lớn. MÆt kh¸c chóng ta cha x©y dùng ®îc nh÷ng vïng nguyªn liÖu cã quy m« lín ®¸p øng c«ng suÊt ho¹t ®éng cña c¸c nhµ m¸y ®êng do ®ã viÖc x©y dùng c¸c nhµ m¸y cã quy m«, c«ng suÊt nhá lµ ®iÒu dÔ hiÓu.
1.2 C¸c nhµ m¸y ®êng ®îc ph©n bè réng trªn c¶ níc
Với đặc điểm và điều kiện tự nhiên ở nước ta, cây mía có thể trồng được khắp các vùng trên cả nước. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành mía đường nói riêng. Với đặc điểm này thì việc đặt nhà máy đường ở đâu trên đất nước là khá dễ dàng. Qua sự phát triển các nhà máy đường nước ta trong những năm qua có thể thấy rõ điều đó
H?u h?t cỏc nhà mỏy du?ng m?i xõy d?ng ? trung du, mi?n nỳi, vựng sõu, vựng xa, phõn b? d?u ? c? ba mi?n, thu hỳt dỏng k? v?n d?u tu nu?c ngoài chi?m 40% t?ng cụng su?t ch? bi?n c?a c? nu?c. Cỏc nhà mỏy này khi xây dựng và đưa vào hoạt động góp phần thúc đẩy nền kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm cho các lao động tại các vùng.
1.3 S¶n xuÊt mÝa ®êng g¾n liÒn víi viÖc b¶o ®¶m nguyªn liÖu
So với một số ngành sản xuất khác, ngành sản xuất mía đường với nguyên liệu chủ yếu là cây mía không thể dự trữ và không có nguyên liệu thay thế. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng của ngành sản xuất mía đường. Với đặc điểm này ngành mía đường phải gắn sản xuất với bảo đảm nguyên liệu. Cụ thể là phải đảm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất bằng cách bình ổn lượng mía cho các nhà máy. Bảo đảm nguyên liệu không chỉ đơn thuần là bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải đảm bảo về chất lượng. Đặc điểm này là yếu tố đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất và người trồng mía. Để làm được điều đó các nhà máy hoặc phải ở gần vùng nguyên liệu hoặc có được những nhà cung cấp đáng tin tưởng với tiềm năng lớn, khả năng ổn định; nhưng để làm được điều đó nhà sản xuất phải gắn liền lợi ích người trồng mía với mình, ràng buộc lợi ích nhà cung ứng với tình hình sản xuất của mình.
1.4 S¶n phÈm ngµnh c«ng nghiÖp mÝa ®êng lµ s¶n phÈm thiÕt yÕu
Ngành mía đường cho ra sản phẩm chủ yếu là đường mía bao gồm đường thô, đường tinh luyện (RE ; RS) và mật mía. Đường và mật mía là nguyên liệu không thể thiếu cho ngành công nghiệp sản xuất bánh kẹo, chế biến hoa quả khô và đóng hộp, sản xuất các chế phẩm từ sữa…đồng thời là sản phẩm sử dụng cho nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người. Có thể khẳng định rằng sản phẩm của ngành công nghiệp mía đường là sản phẩm thiết yếu. Từ đó cũng khẳng định vai trò quan trọng của ngành công nghiệp chế biến mía đường trong đời sống và trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ đặc điểm này ngành mía đường cần đáp ứng được nhu cầu về đường và mật cho sản xuất các ngành chế biến khác đồng thời thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân.
2. Vai trß cña ngµnh mÝa ®êng
2.1 Thóc ®Èy chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng nghiÖp
Từ khi thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ VIII, sản xuất mía đường ở nước ta phát triển mạnh, đến năm 2000 chương trình đã đạt được những mục tiêu cơ bản: Sản xuất một triệu tấn đường, bảo đảm tiêu dùng trong nước, thay thế nhập khẩu; mở vùng nguyên liệu mía lên 300 nghìn ha, trong đó có hơn 170 nghìn ha là đất hoang hóa ở vùng sâu, vùng xa. Ðã hình thành ngành công nghiệp chế biến đường gắn với sản xuất nông nghiệp, nông thôn; tạo việc làm cho hơn một triệu lao động nông nghiệp, hàng chục vạn lao động công nghiệp, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nhiều vùng. Ðã mở rộng, nâng công suất tám nhà máy, xây dựng mới 34 nhà máy, đưa tổng số nhà máy đường lên 44 nhà máy (nay là 38 nhà máy), đủ năng lực chế biến 12-15 triệu tấn mía, sản xuất 1-1,2 triệu tấn đường/năm trở lên. Bước đầu phát triển một số cơ sở chế biến các sản phẩm cạnh đường và sau đường; doanh thu từ sản phẩm này đạt 2.000 tỷ đồng/năm. Các công ty, nhà máy đường nộp ngân sách khoảng 350 tỷ đồng/năm. Những thành tựu nêu trên là to lớn, góp phần đáng kể phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều vùng đất nước.
2.2 §¸p øng nhu cÇu to lín cña thÞ trêng trong níc
Từ năm 2000 trở lại trước, ngành công nghiệp mía đường ở nước ta chưa phát triển nhiều trong khi nhu cầu thị trường gần 80 triệu dân hết sức to lớn trong nước cũng như nhu cầu của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cũng ngày một cao. Sau Đại hội VIII, chương trình mía đường tại nước ta được triển khai rộng khắp trên cả nước. Chúng ta đã xây dựng được nhiều nhà máy đường, phân bổ rộng trên khắp cả nước. Hiện nay năng lực chế biến tại các nhà máy sản xuất đường trong nước đạt 12-15 triệu tấn mía, sản xuất 1-1,2 triệu tấn đường/năm, năm năm trở lại đây sản lượng đường đã đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của cả nước với trên 1 triệu tấn đường/năm, chấm dứt cảnh hằng năm Nhà nước bỏ ra hàng trăm triệu USD để nhập khẩu đường.
2.3 N©ng cao ®êi sèng vµ t¹o c«ng ¨n viÖc lµm cho ngêi d©n
TriÓn khai ch¬ng tr×nh mÝa ®êng, x©y dùng c¸c nhµ m¸y trªn kh¾p c¶ níc tõ trung du ®Õn miÒn nói, vïng s©u, vïng xa, mçi nhµ m¸y ®êng ®îc x©y dùng t¹o c«ng ¨n, viÖc lµm cho hµng tr¨m c«ng nh©n t¹i ®Þa ph¬ng n¬i cã nhµ m¸y x©y dùng. TÝnh ®Õn nay ngµnh c«ng nghiÖp mÝa ®êng níc ta ®· tạo việc làm cho hơn một triệu lao động nông nghiệp, hàng chục vạn lao động công nghiệp, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Bên cạnh việc xây dựng nhà máy là xây dựng vùng nguyên liệu tại địa phương. Người nông dân được hỗ trợ vốn, phương pháp gieo trồng để chuyển đổi diện tích canh tác sang trồng mía hoặc tận dụng diện tích hoang hoá để trồng mía. Cho đến nay đã tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trong nông nghiệp, hàng chục vạn lao động trong công nghiệp. So với trồng lúa thu nhập của người dân trồng mía cao gấp hai đến ba lần. Đời sống của người dân ngày một được nâng cao, có việc làm và thu nhập ổn định hơn. Thực hiện chủ trương liên minh công nông - trí thức, đây cũng là một trong những mục tiêu của chương trình mía đường mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra.
2.4 Thay thÕ nhËp khÈu, híng tíi xuÊt khÈu:
Nhu cầu đường nước ta là rất lớn, trung bình hàng năm là. Trước khi chương trình mía đường ở nước ta được triển khai thì hàng năm nhà nước phải bỏ ra hàng trăm triệu đô la để nhập khẩu đường các loại đáp ứng các nhu cầu trong nước. Chương trình mía đường được triển khai, chúng ta từng bước tự cung cấp cho thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu tiệu thụ trên 1 triệu tấn đường một năm.
3. C¸c nh©n tè ¶nh hëng ®Õn sù ph¸t triÓn ngµnh mÝa ®êng ViÖt Nam
3.1 ChÝnh s¸ch ph¸t triÓn ngµnh mÝa ®êng
Tháng 8/1994, trước những yêu cầu về tình hình thực tế trong nước Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã trình Chính phủ chương trình phát triển sản xuất mía đường ở Việt Nam đến năm 2000 với yêu cầu sản xuất từ 1 đến 1,1 triệu tấn đường/ năm và được Chính phủ chấp nhận. Từ năm 1995, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã tiếp nhận 42 dự án, trong đó 38 dự án được chấp thuận. Và hiện tại, tính cả số nhà máy cũ lẫn nhà máy mới xây dựng thì cả nước đã có 44 nhà máy đường, với tổng công suất thiết kế là 82.950 tấn mía/ngày, gấp hơn 8 lần so với năm 1994. Nhiều tỉnh có tới 2 – 3 nhà máy đường cùng hoạt động.
Việc xác định chương trình mía đường nước ta lúc bấy giờ là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với những yêu cầu thực tế của đất nước. Với những mục tiêu đưa ra, chính sách phát triển chương trình mía đường của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Chính phủ đã khuyến khích và xây dựng thêm được nhiều nhà máy đường trên khắp cả ba miền tổ quốc. Với ban đầu là 4 nhà máy, hiện nay cả nước có 44 nhà máy, như vậy sau hơn mười năm thực hiện số nhà máy hoạt động trong ngành tăng lên gấp 11 lần. Điều này cho thấy Chính phủ đã có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mía đường.
3.2 Vïng nguyªn liÖu cho ph¸t triÓn ngµnh mÝa ®êng
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành sản xuất mía đường đó là quá trình sản xuất gắn liền với việc bảo đảm nguyên liệu, đây là đặc điểm quan trọng căn cứ vào đó để tiến hành sản xuất được liên tục. Với đặc điểm này chúng ta có thể thấy vấn đề bảo đảm nguyên liệu là hết sức quan trọng để ngành mía đường có thể tồn tại và phát triển. Việc phát triển các nhà máy sản xuất phải được tiến hành song song với việc phát triển nguyên liệu trên địa bàn địa phương nơi đặt nhà máy.
Mía là nguyên liệu chính để sản xuất đường ở nước ta. Với những điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiênM, cây mía có thể trồng khắp trên toàn lãnh thổ nước ta. Diện tích cũng như sản lượng mía hàng năm tăng lên đáp ứng từng bước nhu cầu cho ngành sản xuất mía đường. Đây là điều kiện thuận lợi riêng của chúng ta. Tuy nhiên hiện nay vấn đề bảo đảm nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất vẫn là một vấn đề nan giải và cần được quan tâm nhiều hơn nếu chúng ta muốn tồn tại và phát triển trong xu thế cạnh tranh.
3.3 Tr×nh ®é cña c¸c nhµ qu¶n lý t¹i c¸c doanh nghiÖp s¶n xuÊt mÝa ®êng
Với những chính sách khuyến khích cho ngành mía đường phát triển, trong những năm qua chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp của ngành mía đường. Bên cạnh những vấn đề về quản lý vĩ mô, trình độ các nhà quản lý tại các doanh nghiệp mía đường cũng là một trong những vấn đề góp phần vào sự thành công hay không của các doanh nghiệp này.
Với đặc điểm hầu hết các doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhà nước, do đó thường ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của các cơ quan nhà nước, vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế xin – cho, mong chờ vào sự giúp đỡ của nhà nước do đó các doanh nghiệp này luôn ở trong tình trạng bị động, làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ lớn nhưng lại không muốn bị đóng cửa nhà máy.
Sự bị động và mong chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ của nhà nước cho thấy cho thấy sự yếu kém về mặt năng lực cũng như tổ chức của ban giám đốc của doanh nghiệp. Có thể nói hiện nay trình độ các nhà quản lý tại các doanh nghiệp mía đường nhà nước hiện nay chưa thể đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới.
3.4 Vèn ®Çu t cho s¶n xuÊt c¸c nhµ m¸y ®êng
Mía đường là một trong những ngành có vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư máy móc khá lớn. Đây là ngành hiện nay không còn mới ở nước ta tuy nhiên đây được coi là ngành khá mạo hiểm đối với các nhà đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng những yêu cầu về vốn. Chính vì vậy khi phát triển chương trình mía đường ở nước ta, Chính phủ và các cấp có liên quan đã tìm cách huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Trong đó chủ yếu là vốn tín dụng Nhà nước, vốn ODA, vốn vay từ các tổ chức nước ngoài khác.
Sử dụng các nguồn vốn đầu tư xây dựng nhà máy cũng như quy hoạch là một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của nhà máy bởi vì nó liên quan đến lãi suất phải trả của nguồn vốn. Doanh nghiệp căn cứ vào đó để sử dụng có hiệu quảS, áp dụng các phương pháp tạo đòn bẩy sử dụng vốn, định mức khấu hao để tính toán chi phí trong giá thành sản phẩm.
Trong các nguồn vốn thì vốn vay từ các tổ chức nước ngoài chiếm một phần rất lớn, đây là một trong những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp mía đường Việt Nam vì nó làm cho chi phí tăng lên đáng kể, trong khi hội nhập kinh tế chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng trong đó có mặt hàng đường xuống mức 0% - 5%.
PhÇn II.
Thùc tr¹ng Ph¸t triÓn ngµnh mÝa ®êng níc ta
1.Thµnh phÇn c¸c doanh nghiÖp mÝa ®êng chñ yÕu lµ c¸c doanh nghiÖp nhµ níc.
Chương trình mía đường do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Chính Phủ phê duyệt, chương trình được bắt đầu thực hiện bằng việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của ngành đường đòi hỏi một lượng vốn lớn trong khi các doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa đáp ứng được. Chính vì vậy việc Chính phủ quyết định thành lập các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành mía đường là đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
Hiện nay cả nước có khoảng 44 doanh nghiệp mía đường, trong đó có 3 doanh nghiệp nước ngoài. Trong số đó, doanh nghiệp nhà nước là 35; 15 doanh nghiệp thuộc 2 Tổng công ty, và 20 doanh nghiệp do địa phương quản lý. Chính vì là doanh nghiệp nhà nước do đó các doanh nghiệp thường ỷ lại, chông trờ vào sự bảo hộ của nhà nước. Tình trạng này tồn tại ở hầu hết các doanh nghiệp mía đường trong cả nước, tạo nên một sự bị động của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay. Làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nhiều năm liên tiếp, mong chờ nhà nước xoá nợ … là những vấn đề bất cập nhất trong các doanh nghiệp mía đường hiện nay. Vấn đề cần giải quyết cấp bách hiện nay đó là đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ, cần thể có thể phá sản doanh nghiệp.
2. Quy m« vµ tèc ®é ph¸t triÓn cña c¸c nhµ m¸y ®êng nh÷ng n¨m gÇn ®©y.
2.1 Quy m«:
Hầu hết các nhà máy ở VN đều có quy mô nhỏ hơn 2.000 tấn mía đường/ngày và chỉ có khoảng 5/47 nhà máy có công suất lớn hơn 6.000 tấn mía đường/ngày. Theo các chuyên gia, với quy mô như vậy, chi phí sản xuất đường của Việt Nam sẽ luôn cao hơn nhiều so với các nước, ít nhất là 50%. Đơn cử, trong khi giá thành sản xuất của Thái Lan chỉ vào 205 USD/tấn, thì ở Việt Nam là 337 USD/tấn.
Thậm chí, ông Philippe Lombard, Tổng giám đốc Công ty TNHH Mía đường Bourbon Tây Ninh, dẫn chứng, một số nước châu Âu đã đóng cửa các nhà máy đường kém hiệu quả và chỉ tập trung sản xuất cho các nhà máy lớn. Hiện EU chỉ tồn tại những nhà máy củ cải đường có công suất trên 10.000 tấn/ngày, công suất trung bình khoảng 15.000 tấn.
Cã thÓ thÊy, víi quy m« hiÖn nay t¹i c¸c nhµ m¸y ®êng níc ta th× khi gia nhËp nÒn kinh tÕ chóng ta sÏ thÊt b¹i, ngay c¶ khi trªn s©n nhµ còng vËy. ChÝnh v× vËy vÊn ®Ò ®Æt ra cho chóng ta ®ã lµ viÖc tËp trung x©y dùng c¸c nhµ m¸y cã quy m«, c«ng suÊt lín ®Ó tiÕn tíi gi¶m gi¸ thµnh s¶n phÈm, Ýt nhÊt lµ h¹ gi¸ thµnh b»ng víi møc trung b×nh trªn thÕ giíi nh vËy c«ng nghiÖp mÝa ®êng níc ta míi cã thÓ tån t¹i vµ ph¸t triÓn trong tiÕn tr×nh héi nhËp nÒn kinh tÕ thÕ giíi.
2.2 Tèc ®é ph¸t triÓn:
Theo các chuyên gia ngành mía đường trong nước và quốc tế nhận định, trong giai đoạn 2006 – 2010, mức tiêu dùng đường của thế giới dự báo sẽ tăng bình quân 1,7%/năm. Đến năm 2010 sẽ đạt khoảng 22 kg đường/người/năm. ở níc ta tốc độ tăng sản lượng đường vµo khoảng 34%/năm, nhu cầu tiêu dùng tăng trung bình khoảng 5%/năm và dự báo đến năm 2020 Việt Nam cần khoảng 2 triệu tấn đường.
Mặt khác chúng ta đang từng bước hội nhập nền kinh tế mà trước mắt là khu vực mậu dịch ASEAN, chúng ta sẽ có thêm thị trường tiêu thụ nếu chúng ta tạo được sức mạnh trong cạnh tranh. Thị trường tiêu thụ tănglên bụôc phải mở rộng quy mô và công suất các nhà máy hiện nay. Đây đang là vấn đề hết sức khó khăn đặt ra cho chúng ta hiện nay trên con đường hội nhập.
3. Vïng nguyªn liÖu cho s¶n xuÊt
3.1 Quy ho¹ch vïng nguyªn liÖu
Đã có rất nhiều phân tích về hiện tượng quy hoạch treo gây lãng phí về nguồn lực cũng như về cơ hội. Tuy nhiên còn một hiện tượng nữa cũng gây lãng phí không kém, đó là sự vỡ vụn của quy hoạch mà thường được nhìn nhận bằng một thuật ngữ nhẹ nhàng hơn là “quy hoạch thiếu đồng bộ”. Điều này thể hiện rất rõ trong ngành mía đường của nước ta hiện nay.
Bảng diện tích mía của các vùng trong cả nước trong các năm:
Đơn vị: Nghìn ha
Năm
Vùng
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Cả nước
224,8
237,0
257,0
283,0
344,2
302,3
290,7
320,0
313,2
287,0
ĐB Sông Hồng
4,0
4,5
4,1
3,8
3,2
3,0
2,9
2,7
2,9
2,8
Đông Bắc Bộ
8,7
10,2
12,2
13,7
17,2
17,9
15,0
16,2
16,0
13,9
Tây Bắc Bộ
6,2
7,5
9,8
10,2
12,2
10,5
10,6
12,3
12,2
10,9
Bắc Trung Bộ
10,6
15,5
21,7
32,5
50,1
53,4
50,6
58,6
62,7
56,2
Duyên hải NTB
42,0
47,4
48,5
55,3
62,0
57,2
53,0
56,8
55,4
52,8
Tây Nguyên
14,5
20,1
22,4
20,3
31,0
25,5
27,2
31,6
31,6
30,1
Đông Nam Bộ
40,8
39,8
49,5
54,3
65,9
53,7
55,0
61,5
57,7
55,3
ĐB S.Cửu Long
98,0
92,0
88,8
92,9
102,6
81,1
76,4
80,3
74,7
65,0
(Nguồn số liệu: Tổng Cục Thống Kê)
Bảng sản lượng mía của các vùng trong cả nước
Đơn vị: Nghìn tấn
Năm
Vùng
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Cả nước
10711
11430
11920
13843
17760
15044
14656
17120
16854
15879
ĐB Sông Hồng
198,4
190,4
159,8
148,9
140,3
137,5
130,1
139,5
144,4
142,7
Đông Bắc Bộ
239,3
352,4
446,6
488,3
681,4
703,0
593,6
685,5
687,3
608,1
Tây Bắc Bộ
239,1
330,2
441,5
395,1
555,7
481,0
508,0
596,0
606,3
547,7
Bắc Trung Bộ
566,2
790,3
1220,1
1529,5
2648,0
2743,0
2693,5
3175,6
3221,4
3164,0
Duyên hải NTB
1711,3
2081,9
2075,2
2451,0
2865,5
2496,9
2345,0
2407,7
2354,7
2408,6
Tây Nguyên
606,5
946,6
918,3
820,0
1530,7
1091,8
1190,8
1339,4
1534,1
1485,4
Đông Nam Bộ
1754,6
1680,3
2231,5
2472,1
3009,6
2432,4
2765,9
3217,4
3106,2
3007,6
ĐB S.Cửu Long
5395,7
5058,2
4427,9
5538,6
6329,1
4958,7
4430,0
5558,9
5200,3
4515,5
(Nguồn số liệu: Tổng Cục Thống Kê)
Nguyên nhân lớn nhất làm cho sản xuất mía đường kém hiệu quả là do nhiều nhà máy không đủ mía cho sản xuất. Điều bất hợp lý rõ nhất là sự phát triển nhà máy đường không gắn với vùng nguyên liệu, yếu kém trong khâu quy hoạch vùng nguyên liệu, và sự thiếu gắn kết giữa nhà nông và doanh nghiệp trong vấn đề bao tiêu sản phẩm, nên nhìn chung mía cũng như nhiều loại nông sản khác đều rơi vào tình trạng "mất mùa mới được giá".
3.2 C¸c chÝnh s¸ch ®¶m b¶o nguyªn liÖu
3.2.1 Thµnh lËp c¸c n«ng trêng, c«ng ty cung øng nguyªn liÖu
Ngay từ khi bắt đầu xây dựng các nhà máy đường, việc xây dựng và phát triển các khu cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chưa được tiến hành song song cũng như quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định. Chính vì lý do trên mà hiện nay hầu hết các nhà máy đường trên cả nước không đủ nguyên liệu cho công suất hoạt động của máy móc.
Nguyên nhân sâu sa của tình trạng trên đó là việc quy hoạch vùng nguyên liệu là do địa phương quản lý chứ không phải Trung ương quản lý. Chưa thực sự coi trọng phát triển và tạo sự ổn định vùng nguyên liệu cho địa phương của mình thể hiện sự nhỏ lẻ, phân tán trong các vùng nguyên liệu; năng suất mía rất thấp. Mặc dù một số vùng tỷ lệ người dân tham gia trồng mía cung cấp cho nhà máy tại địa phương tuy nhiên sản lượng cũng như số lượng cung cấp cho nhà máy là rất thấp, không đủ cho công suất hiệu quả của máy móc.
Từ những tình hình thực tế trên, hiệp hội mía đường Việt Nam đã có chủ trương thành lập một số công ty, nông trường lớn cung cấp nguyên liệu mía cho nhà máy tuy nhiên chỉ trong vòng bán kính 50 km. Mặc dù vậy thì tình trạng thiếu nguyên liệu vẫn xảy ra ở các nhà máy, các nhà máy hoạt động không hết công suất, thời gian nghỉ máy dài làm cho các chi phí như: chi phí quản lý, lương công nhân trực tiếp, chi phí sửa chữa, chi phí khấu hao …
Bên cạnh đó có tình trạng tranh nhau mua nguyên liệu của người dân làm tăng giá nguyên liệu đầu vào làm cho giá thành sản phẩm đã cao nay tăng lên nhiều hơn nữa. Điều nay đã làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp mía đường nước ta.
Trước những tình hình trên thì việc xúc tiến nhanh việc thành lập các công ty, nông trường lớn chuyên cung cấp nguyên liệu cho ngành mía đường là hết sức khẩn trương và cần thiết để bình ổn giá nguyên liệu, cung cấp ổn định cho các nhà máy hoạt động.
3.2.2 ChÝnh s¸ch hç trî n«ng d©n trång mÝa
Nông sản là hàng hóa đang được kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, tự do hóa thương mại. Tuy nhiên, quốc tế vẫn xếp vào loại nhạy cảm đụng chạm mạnh đến lợi ích của nông dân là những người sản xuất nhỏ có vị thế quá yếu cần được bảo vệ. Vì vậy, Chính phủ các nước đều có chính sách trợ cấp, ưu đãi và nhiều hình thức hỗ trợ nhằm giảm nhẹ rủi ro cho nông dân.
Tuy nhiên ở nước ta thì việc quy hoạch nguyên liệu là do địa phương quản lý và tình trạng buông lỏng quản lý này thể hiện ở những vùng nguyên liệu nhỏ lẻ phân tán. Người dân trồng mía theo các hợp đồng của các nhà máy sản xuất đường hay do thấy được nguồn thu cao hơn trồng mía. Tuy số lượng người dân trồng mía nhiều nhưng khối lượng mía cung cấp cho nhà máy lại rất thấp và không đủ do năng suất trồng mía là rất thấp, bên cạnh đó khi được mùa thì lại mất giá, khi xẩy ra mất mùa, thiên tai thì không được sự hỗ trợ từ phía các doanh nghiệp sản xuất mía đường. Trước tình trạng đó nhiều người dân đã chặt cây mía trồng cao su, cà phê, bạch đàn … chính vì nguyên nhân này mà các nhà máy thường thiếu nguyên liệu để sản xuất.
4. Tr×nh ®é trang bÞ c«ng nghÖ t¹i c¸c nhµ m¸y
Trong khi không đủ mía cho sản xuất thì một thực trạng khác cũng rất nan giải là phần lớn các nhà máy đường có công nghệ rất lạc hậu. Theo Cục Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), hiện nay, thiết bị công nghệ sản xuất mía đường của VN còn lạc hậu, khả năng thu hồi đường thấp, tỷ lệ phế phẩm cao.
Theo thống kê, cả nước hiện có 37 nhà máy đường nhưng chỉ có 6 nhà máy từ nguồn vốn FDI, có công suất khoảng 6 ngàn tấn mía đường/ngày là đủ năng lực cạnh tranh. Phần còn lại, chủ yếu dùng các thiết bị của Trung Quốc, chỉ có công suất từ 1 đến 2 nghìn tấn mía/ngày, chất lượng sản phẩm thấp. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là không có một quy chuẩn kỹ thuật tối thiểu hay tối đa nào cho các nhà máy sản xuất đường.
5. YÕu kÐm trong qu¶n lý
Đặc điểm kỹ thuật và kinh tế xã hội của ngành mía đường đòi hỏi phải xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà máy và người sản xuất mía. Tuy nhiên, sự hợp tác này cũng còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Phải nhìn nhận rằng, đường là thực phẩm nhạy cảm trong an ninh thực phẩm. Các chính phủ đều nắm chặt chỉ đạo và định hướng chặt chẽ. Do vậy, mọi liên kết đều phải đặt dưới sự chỉ đạo, định hướng của Nhà nước, bao gồm các bộ, ngành kế hoạch, khoa học, nông nghiệp, tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay chúng ta chưa tạo ra được sự liên kết giữa các ban ngành, kết hợp giữa các cơ quan quản lý.
Nổi cộm lên là vấn đề buông lỏng quản lý, đã làm cho chương trình mía đường mang tính chất phong trào, và đây cũng là cơ hội mưu lợi cho một số cá nhân có quyền lực trong chương trình. Đơn cử như nhà máy đường ở Thừa Thiên - Huế được xây dựng do đây là quê hương của một cán bộ chủ chốt Tổng công ty mía đường II, hay nhà máy đường Linh Cảm (Hà Tĩnh) cũng trong trường hợp tương tự như vậy.
Chính sách điều hành vĩ mô cân đối cung cầu đường còn bị động: thiếu thì nhập khẩu và được bổ sung bằng nhập lậu. Thừa thì nông dân thay mía bằng lúa, ngô hay trồng cây khác, cơ quan chức năng luôn tỏ ra yếu thế trong chống buôn lậu.
Nghiêm trọng hơn là việc xác định tổng mức đầu tư không chính xác, dẫn đến phải thay đổi, điều chỉnh tăng trong quá trình thực hiện đầu tư, tăng suất đầu tư. Thực tế, rất nhiều nhà máy phải điều chỉnh tổng mức đầu tư đến 3 lần (Quảng Nam, Bia rượu Viger, Sơn La, 333…), thậm chí ở Công ty mía đường Quảng Nam, tổng mức đầu tư lên tới 78.199 triệu đồng (tăng 179%), Xí nghiệp Vị Thanh - Công ty Mía đường Cần Thơ) con số thực là 92.308 triệu (tăng 213%)… Theo nhận định chung, hầu hết các nhà máy không thẩm định lại dự án trước khi phê duyệt, có nơi không cần ý kiến của Bộ KH&ĐT mà đã duyệt điều chỉnh tổng mức đầu tư lần 2 vượt quá tổng mức đầu tư đã được thoả thuận.
Đánh giá chuyện "lộng quyền" và "xuê xoa" trong "phong trào xây dựng nhà máy đường", một quan chức Kiểm toán Nhà nước khẳng định: "Việc quản lý, giám sát của chủ đầu tư ở hầu hết các dự án thiếu chặt chẽ, khiến giá trị thanh toán cho nhà thầu lớn hơn giá trị thi công. Nghiệm thu không đúng thủ tục" và cho ví dụ: Dự án Công ty đường Bến Tre, chủ đầu tư nghiệm thu cả khi đơn vị thi công tự ý thay đổi nguyên vật liệu, mác bê tông sử dụng làm công trình mà không cần ý kiến tư vấn giám sát. Qua kiểm tra 34/44 nhà máy đường được sinh ra từ "phong trào mía đường", ngành chức năng còn phát hiện một số dự án không có quyết định giao đất hoặc thuê đất, nhưng vẫn được thi công, công tác khảo sát, lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế, dự toán nhiều sai sót, gây lãng phí… Tìm hiểu tại Công ty mía đường Trà Vinh, ngành chức năng phát hiện Dự án không thẩm định thiết kế kỹ thuật thi công và tổng dự toán.
Như vậy chúng ta có thể thấy việc buông lỏng trong quản lý của các cấp, các ban ngành có liên quan tạo điều kiện cho những cá nhân mưu lợi cho riêng mình, gây ra những dư luận xấu trong nhân dân và làm cho chương trình mía đường trở thành “ phong trào” mà trong đó không coi trọng phát triển chiều sâu và lâu dài.
6. Vèn ®Çu t x©y dùng c¸c nhµ m¸y
Theo nghiên cứu của Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), chi phí nhà máy trong giá thành đường (bao gồm chi phí khấu hao) ở Việt Nam cao hơn gấp 3,05 lần so với Thái Lan, 1,86 lần so với Ấn Độ và 2,89 lần so với Australia. Chúng ta xây dựng chương trình mía đường bên cạnh vốn đầu tư của nhà nước, chúng ta đã tìm kiếm các nguồn vốn vay từ nước ngoài. Do phải vay vốn đầu tư, vốn lưu động từ nhiều nguồn trong và ngoài nước với lãi suất thương mại càng làm cho chi phí đầu tư chồng chất lên các nhà máy.
Nhược điểm lớn nhất của chương trình mía đường khi đầu tư cho các nhà máy là nhà hoạch định chính sách không tính đến lãi suất vay ngân hàng cao gấp 3 lần bình thường và thời hạn thanh toán ngắn (chỉ 7-10 năm thay vì 15-20 năm). Tại thời điểm vay vốn đầu tư chương trình mía đường, lãi suất của các tổ chức tài chính quốc tế là 2,5%, trong khi đó, các nhà máy đường phải vay ngân hàng với lãi suất hơn 9%/năm.
Ngoài ra, do chênh lệch tỷ giá tiền vay giữa USD và tiền đồng Việt Nam, từ 10.500-11.000 đồng/USD lên trên 16.000 đồng/USD nên nợ vay ngân hàng càng nhiều hơn. Một công ty đường ở vùng Đông Nam Bộ vay 300 tỷ đồng để xây dựng nhà máy, phải trả trong 3 năm (1999-2001) là 121 tỷ đồng (hơn 30% vốn cố định), rốt cuộc sản xuất chỉ để lo trả nợ. Đại diện Nhà máy Đường Quảng Nam cho rằng, vốn vay xây dựng một nhà máy đường, sau 3 năm, cả tiền lãi vay và gốc phình to ra bằng 3 nhà máy mới
Có thể thấy ngành mía đường còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Sự yếu kém do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan; trong đó có nguyên nhân bất cập về cơ chế tài chính trong đầu tư, vốn đầu tư chủ yếu là vốn vay, tỷ giá ngoại tệ thay đổi, bất lợi, lãi suất tiền vay cho đầu tư quá cao, thời hạn vay vốn ngắn, phải khấu hao nhanh, phát sinh nhiều khó khăn. Mặc dù đã được Thủ tướng Chính phủ và các ngành có nhiều giải pháp tháo gỡ những tồn tại về tài chính, tổ chức, xóa bỏ những bất hợp lý, nhưng ngành mía đường vẫn chưa thoát khỏi khó khăn
PhÇn III
C¬ héi vµ th¸ch thøc - gi¶i ph¸p ph¸t triÓn trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
I. C¬ héi cho c¸c doanh nghiÖp mÝa ®êng trong níc
1. C¸c ®iÒu kiÖn vÒ nguån lùc trong níc
1.1 §iÒu kiÖn tù nhiªn
Mía là loại cây trồng nhiệt đới phù hợp với khí hậu, thời tiết ở Việt Nam, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nơi nào cũng trồng được mía, nhưng không phải nơi nào cũng có thể xây dựng vùng nguyên liệu mía, nuôi sống được các nhà máy đường hiện đại. Trong các văn bản, kế hoạch, quy hoạch đều đề cập đầy đủ mục tiêu năng suất, chất lượng mía, tiến độ thay đổi giống mới, thủy lợi hóa, tiến độ cung cấp nguyên liệu đều đạt mức cao.
1.2 ThÞ trêng tiªu thô trong níc réng lín
Nước ta là một nước có dân số lớn trên tám mươi triệu dân, nhu cầu về đường hàng năm là rất lớn. Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng năm tăng, mức t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0161.doc