Mở bài
Trong xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại thì việc Việt Nam gia nhập WTO dường như là một tất yếu khách quan. Phải chăng chúng ta đã “Gả cô dâu đúng lúc ”Trích lời Bộ Trưởng Bộ Thương Mại.Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam, Của cả nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Có lẽ đó là vấn đề nóng bỏng mà rất nhiều chuyên gia kinh tế, chủ doanh nghiệp đang quan tâm để có những bước xoay mình phù hợp với chuyển đổi kinh tế. Là một bộ phận của tổng thể kinh tế thư
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cơ hội & thách thức của thương mại hàng hoá (Cụ thể ngành da giầy) trong bối cảnh gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng mại hàng hoá đã có nhiều đóng góp tích cực trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, sẽ cũng chịu những tác động không nhỏ..Cũng như tất cả các lĩnh vực khác trong bối cảnh hội nhập. Thương mại hàng hoá sẽ có thuận lợi được cắt giảm thuế quan, cạnh tranh công bằng và tham gia vào một “thế giới phẳng”.Nhưng liệu với trình độ khoa học con thấp kém, trong môi trường cạnh tranh mới lao động rẻ không còn là lợi thế của nước ta, sẽ có những doanh nghiệp phá sản, nhưng nhũng đứa con tồn tại sẽ khoẻ mạnh và cho ra đời những sản phẩm tốt có khả năng cạnh tranh cao.Muốn tập bơi phải nhảy xuống hồ bơi đó là một tất yếu.
Năm 2006 có nhiều sự kiện quan trọng với nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng không ít khó khăn, đặc biệt là ngành da giầy (Bị EU áp dụng thuế chống phá giá đối với giầy mũi da). Đó chỉ là những khó khăn ban đầu, hội nhập sự tràn vào của hàng hoá nước ngoài với đầy đủ chủng loại, giá thanh rẻ. Liệu ngành thương mại hàng hoá (Cụ thể ngành da giầy) sẽ phải làm giì.
Dưới sự hướng dẫn của giảng viên Ngô Mỹ Hạnh, emi xin được trình bày đề tài “Cơ hội và thách thúc của thương mại hàng hoá (Cụ thể ngành da giầy) trong bối cảnh gia nhập WTO”
Do sự nhận biết còn hạn chế nên còn nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp, cũng như nhận xét từ phía người đoc.
Xin chân thành cảm ơn Giảng Viên Ngô Mỹ Hạnh giúp em hoàn thành đề tài môn học này.
Phụ lục
Chưong I:WTO và thương mại hang hoá
I.Giới thiệu về tổ chức WTO
1.Từ GATT đến WTO
2.Một số cam kết nước ta gia nhập WTO
2.1.Cam kết đa phương
2.2.Cam kết thuế quan
II.Thương mại hàng hoá nước ta trong bối cảnh gia nhập WTO
1.Thương mại hàng hoá trong bối cảnh gia nhập WTO
1.1. Thuế quan
1.2.Phi thuế quan
1.3.Đầu tư
2.Thương mại hang hoá từ 1986 tới nay
2.1.Trong lĩnh vự xuất nhập khẩu
2.2.Thị trường nội địa
2.3.Nhập khẩu và cán cân thương mại
3.Cơ hội và thách thức thương mại hang hoá nước ta trong bối cảnh gia nhập WTO
3.1. Cơ hội
3.2. Thách thức
Chương II:Cơ hội và thách thức ngành da giầy nước ta trong bối cảnh hội nhập WTO
I.Tổng quan da giầy Việt Nam
1.Thuận lợi
1.1.Năng lực sản xuất
1.2.Thị trường
1.3.Tình hình xuất nhập khẩu
1.4.Mở rông hợp tác
1.5.Xúc tiến thương mại
2.Khó khăn
2.1.Mẫu mã nguyên liệu
2.2.Đội ngũ thiết kế
2.3.Vấn đè xuất nhập khẩu
II.Cơ hội và thách thức da giầy trong bối cảnh hội nhập WTO
1.Cơ hội
2.Thách thức
2.1.Đội ngũ lao động
2.2 Sức ép cạnh tranh
2.3.Hệ thống phân phối
III.Giải pháp để nâng cao hiệu quả ngành xuất khẩu ngành da giầy trong bối cảnh hội nhập
1.Vấn đề nguồn nhân lực
2.Nguyên vật liệu
3.Chính sách nhà nước
4.Mở rộng thị trường
5.Kiểm soát chi phí
CHƯƠNG I: WTO VÀ THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ
I. Giới thiệu về tổ chức WTO
1. Từ GATT đến WTO:
Khái niệm WTO:WTO là tên viết tắt của tổ chức thương mại thế giới.WTO được chính thức thành lập từ ngày 1/1/1995 theo hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Ma -rốc) ngày 15/4/1994
GATT tồn tại suốt 46 năm (1948-1994) nhưng sự ra đời của nó là một điều không định trước. Ngay từ khi chiến tranh thế giơí thứ hai chưa kết thúc, các nước đã nghĩ đến việc thiết lập các định chế chung về kinh tế để hỗ trợ công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Lúc đó một tổ chức chung về thương mại cũng được đề xuất thành lập với tên gọi Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (ITO). ếnĐể ràng buộc về một nhóm ưu đãi thuế quan, một nhóm 23 nước quyết định lấy một phần về chính sách thương mại trong dự thảo hiến chương ITO, biến nó thành Hiệp Định chung về thuế quan và thương mại ( GATT)
Trong những năm đầu tiên của GATT chủ yếu là các cuộc đàm phán xin gia nhập và cuộc họp đánh giá vào giữa những năm 1950 dẫn đến sự chỉnh sửa hiệp định. Bắt đầu giữa những năm 1960 các vòng đàm phán thương mại đa phương dần mở rộng phạm vi của GATT bao trùm nhiều chính sách phi thuế quan. Tuy nhiên, đến vòng đàm phán Uruguay, vẫn chưa có tiến triển về nông nghiệp hoặc về may mặc. Cách quy định này cuối cùng cho phép các ngành áp dụng nguyên tắc đa phương, gồm việc xây dựng quy chế về thương mại dịch vụ và thực hiện quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) và sự thành lập WTO.
Có nhiều điểm tương đồng giữa GATT và WTO nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giống nhau. WTO tiếp tục hoạt động với sự đồng thuận và do các thành viên quy định. Tuy nhiên, cũng có những thay đổi lớn điều rõ nhất là phạm vi bao trùm của WTO rộng hơn rất nhiều. Một sự thay đổi rất quan trọng đối lập với GATT đó là Hiệp định WTO là một hiệp định “thực hiện đồng nhất ” các quy định của nó áp dụng cho mọi thành viên. Trong GATT có sự linh hoạt cho các nước có thể “không tham gia vào” các nguyên tắc mới, và trên thực tế nhiều nước đang phát triển không ký các hiệp định cụ thể về các vấn đề như sự đánh giá của hải quan hoặc trợ cấp. Điều này bây giờ không còn là một vấn đề nữa khi WTO có vai trò quan trọng hơn nhiều đối với các nước đang phát triển khác. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đã có sự thay đổi quan trọng trở nên “tự động” hơn với việc chấp nhận một nguyên tắc “đồng thuân tiêu cực”.
2.Một số cam kết của nước ta khi gia nhập WTO
2.1.Cam kết đa phưong
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí…
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ.
Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty
Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ ,ngành
Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.
2.2Cam kết về thuế nhập khẩu
Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. V
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối.
II.Thương mại hàng hoá nước ta trong bối cảnh gia nhập WTO
1.Thương mại hàng hoá trong bối cảnh gia nhập WTO
Gia nhập WTO có nghĩa là được quyền tiếp cận tới thị trường của tất cả các thành viên khác trên cơ sở đối xử MFN. Nhưng để được hưởng lợi nhuận này, các nước mới gia nhập cũng phải cam kết chấp nhận các nguyên tắc đa biên, đồng thời giảm mức bảo hộ của mình.
1.1. Thuế quan:WTO thừa nhận thuế quan (Thuế nhập khẩu) là công cụ hợp pháp duy nhất để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Các hàng rào bảo hộ phi thuế phải được bãi bỏ. Có như vậy thuế quan mới trở thành biện pháp bảo hộ ít bóp méo thương mại nhất và cũng là biện pháp mang tính minh bạch hơn cả.
Thuế quan chia làm nhiều loại khác nhau. Thuế phần trăm là một số phần trăm nhất định trên giá trị hàng hóa nhập khẩu (ví dụ 5%). Thuế cụ thể quy định một khoản tiền cố định phải nộp trên một đơn vị hàng hóa (Ví dụ: 1.000 đồng/kg). Ngoài ra, còn có thuế thay thế có thể áp dụng hoặc thuế phần trăm hoặc thuế cụ thể tùy theo loại thuế nào cao hơn (Ví dụ: 5% hoặc 1.000 đồng/kg, tùy loại nào cao hơn). Trong khi đó, thuế kết hợp buộc người nhập khẩu phải trả cả hai loại thuế phần trăm và cụ thể (Ví dụ: 5% và 1.000 đồng/kg). Tuy nhiên, thuế phần trăm là loại thuế mang tính rõ ràng hơn cả nên được WTO khuyến khích dùng hơn các loại thuế khác. Trong các trường hợp áp dụng các loại thuế khác, cần phải đưa ra mức thuế phần trăm tương đương nhằm xác định được mức bảo hộ tương ứng.
Thuế quan phải được áp dụng trên nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) cho tất cả các thành viên WTO.
Một số phương thức kỹ thuật áp dụng cho các biện pháp thuế quan của WTO:
- Thuế hóa: Do tính dễ dàng và dễ đàm phán cắt giảm của thuế quan, các thành viên WTO thỏa thuận một cách thức mới cho việc tiếp cận thị trường nông sản là "chỉ sử dụng thuế quan". Các biện pháp hạn chế số lượng tồn tại trước Vòng Uruguay nay phải tiến hành "thuế hóa" tức là chuyển biện pháp phi thuế thành một mức thuế quan bổ sung có tác dụng tương đương. Trong nông nghiệp người ta còn sử dụng hạn ngạch thuế quan. Hạn ngạch thuế quan là cơ chế cho phép duy trì mức thuế suất thấp áp dụng với hàng nhập trong phạm vi hạn ngạch và mức thuế suất cao hơn đối với hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch. Mức thuế đạt được sau khi thuế hóa sẽ tiếp tục được ràng buộc và cắt giảm thông qua đàm phán.
- Ràng buộc thuế: Khi một nước thành viên cam kết "ràng buộc" về thuế suất với một dòng thuế, thành viên đó sẽ không được nâng thuế nhập khẩu cao hơn mức ràng buộc đó.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp các nước thành viên cam kết ràng buộc thuế quan đối với toàn bộ các mặt hàng. Trong lĩnh vực công nghiệp, các nước phát triển ràng buộc thuế 99% số mặt hàng. Các con số tương ứng của các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi là 73% và 98%. Các con số này đảm bảo mức độ tiếp cận thị trường an toàn hơn cho các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế.
Các mặt hàng không nằm trong Biểu cam kết sẽ phải chịu mức thuế suất ràng buộc. Tuy nhiên, ngay cả đối với các mặt hàng này vẫn phải tuân thủ nguyên tắc MFN.
- Cắt giảm thuế quan hơn nữa.
Sau khi ràng buộc thuế, các nước sẽ phải không ngừng cam kết cắt giảm thuế quan. Ví dụ tại Vòng đàm phán Uruguay, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nước phát triển cam kết cắt giảm trung bình 36% tính gộp với tất cả các dòng thuế, cắt giảm tối thiểu 15% một dòng, tiến hành trong 6 năm kể từ 1/1995. Trong lĩnh vực công nghiệp, tuy không phải ràng buộc toàn bộ các dòng thuế nhưng xu hướng cắt giảm diễn ra mạnh mẽ "thuế quan theo ngành" và "hài hòa thuế quan". Thuế quan của tất cả các mặt hàng trong ngành cắt giảm theo các hình thức này có mức thuế suất rất thấp (thậm chí bằng 0%). Đó trước hết là sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, một số sản phẩm kim loại, gỗ, bột giấy....
1.2. Phi thuế:WTO thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp sản xuất trong nước. Ngoài thuế quan ra, các hàng rào cản trở thương mại khác phải bị loại bỏ. Tuy nhiên, các thành viên khác có thể sử dụng các biện pháp phi thuế để hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, văn hóa truyền thống, môi trường, sức khỏe con người...
Hạn chế định lượng nhập khẩu: Các thành viên không được duy trì các biện pháp hạn chế định lượng như cấm, hạn ngạch mà không có lý do chính đáng theo đúng các quy định của WTO
Doanh nghiệp có đặc quyền thương mại: Trong WTO, các doanh nghiệp được ban hành các đặc quyền thương mại gọi là các doanh nghiệp thương mại nhà nước dù cho chúng thuộc sở hữu nhà nước hay sơ hữu tư nhân. Ví dụ về các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp thuộc loại "đầu mối" nhập khẩu, hay là những doanh nghiệp có khả năng tiếp cận tới các nguồn tài chính hay ngoại tệ.
WTO cho phép các thành viên duy trì doanh nghiệp thương mại nhà nước với điều kiện các doanh nghiệp này sẽ hoạt động hoàn toàn trên tiêu chí thương mại. Các vấn đề về trị giá tính thuế hải quan và các phụ thu tại cửa khẩu.
WTO quy định giá trị tính thuế hải quan là trị giá giao dịch (Trong giao dịch đơn giản thông thường là giá trị hợp đồng). Trong trường hợp không áp dụng được giá trị giao dịch thì phải sử dụng các cách tính khác, nhưng không được xác định giá trị tính thuế một cách tùy tiện, chẳng hạn sử dụng giá nhập khẩu tối thiểu để tính thuế.
Ngoài ra hải quan chỉ được thu các khoản phí và lệ phí tương ứng với các chi phí cần thiết cho thủ tục thông quan. WTO không cho phép thu các khoản phí và phụ thu vì các mục đích bảo hộ hay thu ngân sách.
Thủ tục cấp phép nhập khẩu: WTO quy định cấp phép nhập khẩu phải đơn giản, rõ ràng và dễ dự đoán. Các chính phủ phải công bố thông tin đầy đủ cho các nhà kinh doanh biết giấy phép được cấp như thế nào và căn cứ để cấp. Khi đặt ra các thủ tục cấp phép nhập khẩu mới hay thay đổi các thủ tục hiện tại, các thành viên phải thông báo theo những quy định cụ thể cho WTO. Việc xét đơn nhập khẩu cũng phải tuân thủ các quy định chặt chẽ.
Các biện pháp bảo vệ tạm thời: thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng và hành động tự vệ khẩn cấp.Việc ràng buộc thuế quan không được tăng và áp dụng chúng một cách bình đẳng với mọi đối tác thương mại (MFN) là công cụ chủ yếu để đảm bảo thương mại toàn cầu được tiến hành thuận lợi. Tuy nhiên, trong một số bối cảnh nhất định, WTO cho phép một nước thành viên có thể không tuân thủ các nguyên tắc này
Phá giá xảy ra khi một công ty xuất khẩu một sản phẩm với giá thấp hơn giá thông thường tại nước sản xuất. Không phải khi nào phá giá cũng tạo ra cạnh tranh không công bằng. Khi hành động phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất của một thành viên. WTO cho phép thành viên đó dặt ra thuế chống bán phá giá để khắc phục những thiệt hại do phá giá gây nên. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân thủ theo những thủ tục chặt chẽ và phức tạp.
Trợ cấp có thể được sử dụng để hỗ trợ cho một ngành sản xuất non trẻ vươn lên chiếm lĩnh thị trường hoặc vì các mục đích khác. Hầu như ngành nào cũng sử dụng trợ cấp. Tuy nhiên một số hình thức trợ cấp bị cấm trong WTO, đặc biệt là trợ cấp xuất khẩu nông sản. Khi hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành công nghiệp của một thành viên, thành viên có thể đặt ra thuế đối kháng để hại chế thiệt hại do hành động trợ cấp gây ra.
Khi nhập khẩu một mặt hàng nào đó tăng lên đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất, WTO cho phép các thành viên bị thiệt hại có thể sử dụng biện pháp tự vệ tạm thời kể cả hạn chế định lượng khác đẻ khắc phục thiệt hại do nhập khẩu gây ra. Nước áp dụng tự vệ khẩn cấp phải có nghĩa vụ thông báo về biện pháp mà mình đang áp dụng và tiến hành tham vấn với các nước bị ảnh hưởng.
1.3. Đầu tư: Cùng với quá trình phát triển của thương mại thế giới, dòng lưu chuyển vốn đầu tư cũng tăng không ngừng. Thực tế đã vượt xa tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các nước. Cho đến nay, 1/3 thương mại trên thế giới là trao đổi giữa các công ty có liên hệ với nhau về sở hữu, hay nói một cách khác, 1/3 thương mại thế giới ngày nay gắn liền với đầu tư.
Cuối thập niên 40 khi xây dựng nên hệ thống thương mại đa biên, người ta cũng nghĩ đến cơ chế điều tiết đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên ý tưởng trên khi đó chưa thực hiện được.
Cho đến tận Vòng đàm phán Uruguay thì vấn đề đầu tư mới được đề cập như là vấn đề riêng trong WTO. Hiệp định các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) là một bước tiến lớn, mặc dù nhiều ý kiến cho rằng Hiệp định này chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển hay đang phát triển.
Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa mà không áp dụng cho các lĩnh vực khác. Hiệp định TRIMs cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi phạm nguyên tắc "Đãi ngộ quốc gia" và các biện pháp có tác dụng hạn chế thương mại bao gồm:
Các biện pháp bắt buộc hay điều kiện về quy định một "tỷ lệ nội địa hóa" đối với doanh nghiệp; Các biện pháp "cân bằng thương mại " buộc doanh nghiệp phải tự cân đối về khối lượng và trị giá xuất nhập khẩu, về ngoại hối....
Theo quy định của Hiệp định TRIMs, các nước có nghĩa vụ phải thông báo các biện pháp này và phải tiến hành loại bỏ trong vòng 2 năm đối với các nước đang phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển, 7 năm đối với nước đang phất triển
2.Thương mại hàng hoá nước ta từ 1986 tới nay
Trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi. Chuyển từ nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá, thay đổi triết lí kinh doanh của ngành của doanh nghiệp. Trước năm 1986 triết lí của nền sản xuất :nền kihn tế hiện vật, sản xuất vì giá trị sử dụng trên hết hiệu quả không cao .
Sau 1986 kinh tế hàng hoá triết lí, sản xuất để bán để kiếm lời ,mua về để bán .
Chuyền nền kinh tế từ ưu tiên phát triển tư liêu sản xuất sang phát triển đồng htời 3 chương trình kinh tế lương thực, xuất khẩu, hang tiêu dung bước vào thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá .
Chuyển từ nền kinh tế có hai hình thức sở hữu là quốc doanh và tập thể sang phát triển kinh tế nhiều thành phần vớ nhiều hình thức sở hữu và xu hướng chung trong thương mại -dịch vụ khu vực ngoài nhà nước chiếm tỉ trọng chủ yếu ở nước ta
Chuyển từ cơ chế tập trung khi các vấn đề khin doanh hoàn toàn được giải phóng thong qua mối quan hệ qua lại giữa giới sản xuất và giới tiêu thụ tên thị trường.
Đến nay, sau 20 năm thực hiện đường lối cải cách mở cửa hoạt động thương mại nói chung và hoạt động thương mại hàng hoá nói riêng đạt đươc những thành tựu đáng tự hào.
2.1.Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, xây dựng môi trường pháp lí cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu,nhập khẩu vận hành theo cơ chế thị trường ,góp phần khơi dậy mọi tiềm năng, sức sang tạo, tính chủ động của các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Từ chỗ hàng năm nhà nước phải bù lỗ cho hoạt động XNK thì đến nay ngân sách nhà nước có nguồn thu đáng kể từ hoạt động XNK.
Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết khủng hoảng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, đặc biệt khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ ,nguồn thiết bị, nguyên vật liệu quan trọng ,hàng thiết yếu chủ yếu bằng vay nợ và viện trợ không còn.
Từ chỗ chỉ được nhập khẩu, xuất khẩu những hàng hoá mà bộ thương mại cho phép đến nay thương nhân được xuất khẩu,nhập khẩu tất cả các mặt hàng trừ những mặt hàng cấm, hàng có điều kiện .Hoạt động XNK tăng nhanh, trang trải nhu cầu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên liệu, hàng tiêu dùng cho phát triển kinh tế và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 ( 32,442 tỷ USD) bằng gần 40 lần năm 1986. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 gần 36,9 tỷ USD bằng 23 lần năm 1986. Năm 1986 nhập siêu ở mức 300%, trong 5 năm gần đây được khống chế ở mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng vượt bậc, từ chỗ chủ yếu trong nội bộ khối Xã hội chủ nghĩa (trước năm 1986) đến năm 2005, hàng hoá nước ta đã vươn lên hầu hết các vùng, lãnh thổ trên thế giới.
2.2.Thị trường nội địa:
Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ, chuyển sang cơ chế lưu thông mới, khắc phục tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, hình thành thị trường thống nhất suốt trong cả nước.
Hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, nâng cao về chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Kiềm chế được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Từng bước hình thành các kênh lưu thông của một số mặt hàng chủ yếu.
Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.
Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia thị trường khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Quản lý nhà nước về thương mại có sự đổi mới từ Trung ương đến địa phương, cả về tư duy, nội dung và phương pháp quản lý, môi trường pháp lý.
Từ những chủ trương, đường lối và lộ trình thích hợp, lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế đã thu được nhiều thành quả đáng tự hào:
Khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế.
Mở rộng thị trường thu hút đầu tư.
Được hưởng những ưu đãi thương mại, tạo dựng được môi trường phát triển kinh tế.
Nâng cao vị thế của đất nước góp phần gìn giữ hoà bình.
Tiếp thu trình độ quản lý và chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Từ những thực tiễn hoạt động của Thương mại Việt Nam trong 60 năm qua (1946-2006) chúng ta có thể rút ra một số đánh giá tổng quát sau:
Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển Thương mại Việt Nam luôn gắn chắt với lịch sử oanh liệt của dân tộc: từ công cuộc chống Pháp, đến những năm tháng khôi phục sau chiến tranh, thời kỳ miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, cũng như thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mỹ và 20 năm đổi mới.
Là một bộ phận của nền kinh tế, cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, thương mại có vai trò quan trọng đặc biệt trong từng chặng đường lịch sử, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để phản ánh đầy đủ cơ chế mới và tận dụng theo các quy luật của nó (quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị) nền thương mại nước ta có nội dung ngày càng đa dạng và phong phú.
Chính sách, thể chế thương mại nước ta là yếu tố quan trọng hàng đầu dẫn đên những thành tựu trong lĩnh vực thương mại, nó không tách rời xu thế khách quan của thời đại, đồng thời phải thích hợp với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa còn là mô hình tương đối mới mẻ đối với nước ta vì vậy phải có những điều chỉnh bổ sung, phát triển về chủ trương, biện pháp, giải pháp sáng tạo xuất phát từ thực tiễn. Phải tạo lập đồng bộ các yêu tố thị trường, hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam.
Trong năm 2006, kim ngạch xúât khẩu 2006 đạt 39,6 tỉ USD bằng 104,9% so với kế hoạch, tăng 7,5 tỷ so với năm 2005 trong đó doanh nghiệp có vống nước ngoài chiếm 57,7%. Về mặt hàng có thêm cà phê, cao su đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD,nâng tổng số mặt hàng có kim ngạch trên 1tỷ là 9.Thị trưòng xuất khẩu tăng ở tất cả các khu vực trên thế giới .Châu Âu 27%,châu Mĩ 33,4 %, châu Á 19% so với năm 2005.Vè quy mô châu Á là thị trường nhập khẩu hàng hoá lớn nhất ở Việt Nam 20,84 tỷ USD :châu mĩ 9,2 tỷ ,châu Phi –Tây Nam Á đạt gần 2,1 tỷ USD
Xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 5,1 tỷ USD ,tăng 19,6% so 2005 .Trong đó có một số dịch vụ đạt tỷ trọng cao đạt mức tăng trên 20%như du lịch tăng 23,9% vận tải hàng không tăng 35,5% ,dịch vụ hnàg hoá tăng.
2.3.Nhập khẩu và cán cân thương mại :
Kim ngạch cả năm đạt trên 44,4 tỷ USD ,tăng 20,1% so với năm 2005 ,vượt 4,5% so với dự báo đầu năm.Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt gần 26,36 tỷ USD ,chiếm 36,8% tổng KNNK của cả nưứoc ,tăng 19,9% so với cung kì năm 2005
Nhập khẩu máy móc thiết bị và hầu hết các vật tư ,nguyên liệu cho sản xuất trong nước đều tăng so với năm trước ,đặc biệt là nhiều loại vật tư chủ yếu (trừ xăng dầu ,phôi thép)có lượng nhập khẩu tăng khá .Nhập khẩu máy móc thiết bị tăng 24,1%,xăng dầu nhập giảm 3,8% ;chất dẻo tăng 26,8% ; riêng nguyên phụ liệu dệt may ,da gảim 14,1% và có xu hướng giảm do tăng sản xuất thay thế trong nước ,sắt thép 2,9 tỷ USD giảm 0.9%,nhưng lượng tăng 1,8% nhỏ giá giảm .
Thị trưòng nhập khẩu năm 2005 tập trung chủ yếu vào châu Á .Theo số liệu về thị trường nhập khẩu 11 tháng đầu năm ,nhập khẩu từ châu Á chiếm tới 81% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước .Nhập siêu năm 2006 khoảng trên 4,8tỷ USD (dự báo đầu năm là doang nghiệp 100% vốn nước ngoài nhập siêu 10,3 tỷ.Doanh nghiệp FDI nhập siêu 5,55 tỷ USD )băngf 12,1% tổng kim ngạc xuất khẩu của cả nước .
Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,12 tỷ USD tăng 14,3% so với năm trước ,trong đó du lịch tăng 16,7%.Cán cân thương mại .
Năm 2006 ước tính đạt 580,7 nghìn tỷ đồng tăng 20,9% so với năm trước. Trong tổng mức ,kinh tế nhà nước tăng 8,2% ,kinh tế tập thể tăng 25% ,kinh tế coa vốn đầu tư nước ngoaì tăng 21,5 %.Theo số liệu của tổng cục thống kê chi phí tháng 12 chỉ tăng 0,5% so với tháng 11 ,đưa mức tăng chung cả năm lên 6,6% ,thấp hơn cả mức ngân hàng nhà nước dự kiến và thấp hơn chỉ tiêu mà Quốc Hội đề ra.Chỉ số gía tiêu dùng năm 2006 tăng 6,6% thấp hơn mức tăng 8,4% của năm 2005 và cũng là năm thứ 3 liên tiếp CPI có xu hướng giảm.
Kim ngạch XNK của Việt Nam qua các năm (đơn vị triệu USD)
Chỉ tiêu \năm
Tổng kim ngạch XNK
Xuất khẩu
Nhập khẩu
2000
29508.0
14308.0
15200.0
2002
36439.0
16706.0
19733.0
2004
47700.0
21700.0
26000.0
2006
80000.0
40400.0
39600.0
II.Thương mại Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO
1.Thời cơ
Trong số 148 thành viên của WTO, có khoảng ba phần tư là các nước đang phát triển và kém triển và trong thời kì quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị truờng. Những quốc gia này càng có via trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, và việc xúc tiến thương mại quốc tế như một giải pháp sống còn trong nỗ lực phát triển đất nước. Đối với các nước đang phát triển, cần có cách nhìn nhậ và áp dụng quy chế hoàn toàn khác biệt. ._.Do đó trong quy chế của WTO tại chương 6 có những quy định giành riêng cho các nưứoc đang phát triển, với cơ chế “thời gian thoáng hơn”
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, với thu nhập bình quân tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp. Mặc dù đã có những bước tăng trưởng vượt bậc trong những năm qua, nhưng đến nay nước ta vẫn là một nước có nền kinh tế chư phát triển, cơ câú các ngành nghề chưa cân đối, tỷ trọng nhập khẩu quá lớn so với xuất khẩu …việc gia nhập WTO là một trong những nỗ lực nhằm tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo tiền đề hội nhập và phát triển nền kinh tế .Gia nhập WTO và những hiệp định thương mại song phương và đa phương được kí kết với các nước thành viên WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển .Những lợi ích này được nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau, như về phía nhà nước, về phía doanh nghiệp, về phía người tiêu dùng, nhưng có thể tổng hợp lại thành những lợi ích sau.
Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ có cơ hội mở rộng thị truờng tiêu thụ sản phẩm .Khi chư gia nhập WTO, với nền kinh tế mở cửa, khuyến khích đầu tư nước ngoài .Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới.Trong mối quan hệ thương mại này nước ta với nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tay nghề cao, chiếm ưu thế trong gia công sản phẩm xuất khẩu nhưng trong những mối quan hệ thương mại quốc tế thì vẫn là nước chịu nhiều thiệt thòi do chưa thiết lập được hiệp định thương mại song phương và đa phương với những đối tác của mình, đặc biệt là thị truờng lớn như thị trường mậu dịch tự do Bắc Mỹ, thị trường mậu dịch tự do EU. Một minh chứng điển hình là việc xuất khẩu cá da trơn, tôm vào thị truờngMỹ ,giày dép vào thị trường EU.Với giá xuất khẩu rẻ ,các doanh nghiệp Việt Nam bị các nước này áp đặt là bán phá gía .Các quốc gai này đã “bảo vệ sản xuất”, bằng cách áp dụng chính sách baỏ hộ thông qua thuế nhập khẩu rất cao gây bất lợi rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam, khi tham gia WTO Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 nước thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả các quốc gia đó. Hàng hoá có thể thâm nhập thị trường khổng lồ này mà không gặp bất cứ trở ngại nào, miễn là không vi phạm nhưng quy chế và cam kết đã kí, đủ sức cạnh tranh với hàng hoá thay thế.
Thứ hai, tham gia WTO sẽ nâng cao khả năng tiếp nhận công nghệ tiên tiến, những thị truờng tài chính hàng đầu, tiếp thu và vận dụng cho chiến lược phát triển .Thành viên WTO có những quốc gia là những nền kinh tế hàng đầu với công nghệ khoa học kĩ thuật, trình độ quản lí kinh tế hệ thống tài chính, tiền tệ phát triển ở mức độ cao. Gia nhập WTO, chúng ta có cơ hội tiếp nhận công nghệ mới, tiếp thu và ứng dụng vào sản xuất, điều hành, quản lí, rút ngắn khonảg cách giữn các nước thành viên WTO, đồng thời tiếp nhận được được nguồn nhân lực và vật lực lớn từ những nước này .Bên cạnh đó WTO còn có những chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ về kĩ thuật và đạo tạo, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết những vướng mắc trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo cơ hội cho những nước đang phát triển mở rộng thị trưòng thương mại quốc tế thông qua việc thâm nhập những thị trường lớn như dệt may ,dịch vụ;yêu cầu các nước thành viên WTO phải bảo vệ lợi ích của các nước này áp dụng chính sách bảo hộ sản xuất trong nuớc hoặc những chính sách đối ngoại như chống bán phá giá ,áp dụng những rào cản kĩ thuật trong thương mại quốc tế.
Thứ ba, tham gia WTO, vị thế của Việt Nam sẽ được nâng cao trong các mối quan hệ quốc tế, tạo nên thế và lực mới, sánh ngang hàng với quốc gia thành viên của WTO trong việc biểu quyết những vấn đề liên quan đến WTO, đặc biệt trong giải quyết những vấn đề tranh chấp thương mại quốc tế
Thứ tư, tham gia WTO góp phần cải thiện mức sống người dân. Cùng với việc mở cửa thị trường hàng hóa, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ là bộ phận của thị trường toàn cầu. Luồng hàng hoá sẽ được chu chuyển qua thị trường Việt Nam cũng như tất cả các thị trưòng khác. Khi hàng hoá các nước khác sẽ xâm nhập thị trường Việt Nam, để đủ sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển, các doanh nghiểp trong nước phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, áp dụng công nghệ mới ..Điều này ssẽ khiến người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi, vì cùng một mức thu nhập, họ có nhiều sự lựa chọn hơn với những hàng hoá được sử dụng, và đương nhiên là mức sống được nâng cao .Thị trường ô tô là một thí dụ dễ thấy .Khi bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan và giải pháp cấm nhập khẩu, giá ô tô trong nước rất cao, gấp hai đến ba lần các nước trong khu vực và trên thế giới .
Thứ năm, gia nhập WTO là cơ hội để chính phủ có thể xem xét những chính sách kinh tế, các cơ quan quản lí nhà nước hoàn thiện hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh .Đây là cơ hội để chính phủ hoàn thiện chính sách kinh tế ,tham khảo và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam ,đồng thời tuân thủ quy chế WTO sẽ giảm bớt hiện tượng tham nhũng, hối lộ trong hệ thống các cơ quan quản lí nhà nước .Với tiêu chí tự do hoá thương mại, WTO kiên quyết xoá bỏ những rào cản bất hợp lí trong thương mại quốc tế, trong đó các nước thành viên đều phải tuân theo .Những rào cản có thể là chế độ hạn ngạch ,chính sách cấm xuất, cấm nhập, bảo hộ thuế quan .Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tìh trạng tham nhũng như mua bans hạn ngạch ,gian lận thuế ,gian lận thương mạ, làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh do9anh thương mại quốc tế .Xoá bỏ rào cản chính là xoá bỏ những tiền đề nảy sinh tham nhũng, hối lộ, làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách kinh tế của chính phủ.
Bên cạnh đó, sự chuyển dịch về lao động giữa các khu vực kinh tế, các địa phương và ngành nghề cũng đang diễn ra khá lành mạnh, tạo nên sự ổn định về mặt số lượng cho thị trường.
2.Thách thức
Tuy nhiên, những thách thức khi tham gia hội nhập sâu rộng cũng không phải là nhỏ. Và nếu không sớm khắc phục được những điểm yếu này, sự đổ vỡ hay phát triển thiếu cân đối của thị trường lao động – việc làm sẽ dẫn đến nguy cơ đe doạ đến nền kinh tế chung.
Khó khăn thứ nhất được các chuyên gia tham gia soạn thảo báo cáo đề cập đến chính là hạn chế về trình độ chuyên môn, tay nghề của phần lớn lao động. Điều này có thể thấy rõ ở chỗ, đại đa số lao động Việt Nam hiện nay là lao động phổ thông, lượng lao động có tay nghề qua các trường hoặc trung tâm đào tạo nghề và đa số được nhận ngay khi ra trường.Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội, hiện có đến 74,7% lực lượng lao động chưa qua đào tạo, tập trung ở khu vực nông thôn khu vực kém phát triển.
Cùng với vấn đề về tay nghề, người lao động Việt Nam (trong đó nổi cộm là lao động thuộc diện chính sách giải phóng mặt bằng tại các khu công nghiệp) có ý và chấp hành pháp luật chưa cao.
Khó khăn thứ hai xuất phát từ việc di chuyển lao động giữa các vùng, nhất là thức, tác phong, thái độ làm việc từ nông thôn ra đô thị, khu công nghiệp tập trung, di chuyển lao động trong và ngoài nước.
Khó khăn thứ ba là hiện nay việc thực hiện theo pháp luật lao động ở các doanh nghiệp còn thấp. Trong đó đáng chú ý là vấn đề vi phạm về chế độ đãi ngộ cho nhân công, công tác an toàn – vệ sinh lao động, thậm chí nhiều doanh nghiệp không thành lập tổ chức công đoàn theo quy định. Thực trạng này thực tế cũng xuất phát từ việc pháp luật lao động hiện có phạm phi điều chỉnh hẹp và phạm vi điều chỉnh chưa cao.
Thứ tư, các hoạt động dịch vụ liên quan đến lĩnh vực lao động và thị trường lao động hiện chưa thật sự hoàn thiện, quy mô thị trường lao động còn hạn chế, chưa tương xứng với sự phát triển. Số người tham gia thị trường lao động Việt Nam mới chỉ chiếm 20% lực lưỡng lao động.
Cuối cùng là khó khăn về nhận thức của một bộ phận người lao động và người sử dụng lao động, trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức về hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế. Có thể thấy rằng, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn khá “mù mờ” về khái niệm hội nhập, WTO hay toàn cầu hóa, còn ở đại đa số người lao động thì tình trạng này còn đáng ngại hơn.
Chương II:Tác động WTO đối với thương mại hàng hoá (Cụ thể ngành da giầy)
I:Tổng quan về ngành da giầy Việt Nam
1.Thuận lợi
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng được thoả mãn, đồng thời những yêu cầu ngày càng cao. Cùng với nó thì nhu cầu về dày giép cũng ngày càng phát triển, nó không chỉ để thoả mãn nhu cầu tối thiểu của con người là bảo vệ sức khỏe mà còn là “nhu cầu bản ngã, sự khẳng định mình của những đại gia, của những chủ doanh nghiệp …
1.1 Năng lực sản xuất
Việt Nam là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ 4 và là 1 trong 10 nước sản xuất giày dép lớn nhất thế giới, 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu da giày Việt Nam đạt khoảng 882 triệu USD, mức tăng trưởng bằng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu giày da trong tháng 7/2005 ước đạt 11,5 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với mức kim ngạch trung bình trong 6 tháng đầu năm 2005 và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2004.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp đã chủ động hoặc sử dụng 100% đế giầy sản xuất trong nước (trừ một số rất ít loại đặc biệt vẫn phải nhập). Sản phẩm giầy vải đã sử dụng 95-98% nguyên, phụ liệu trong nước.Nhiều công ty đã hình thành các bộ phận, các trung tâm mẫu mốt để có thể tự thiết kế các loại giầy dép và đang từng bước chuyển dần từ phương thức gia công sản xuất cho đối tác trung gian nước ngoài sang tự sản xuất và xuất khẩu trực tiếp.
Bên cạnh sự phát triển cua ngành da giầy nói chung thì các doanh nghiệp ,tổng công ty cũng có những đóng gốp không nhỏ.
14 năm xây dựng và phát triển, các doanh nghiệp trong Tổng công ty đã góp phần vào việc hình thành và phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật sản xuất và xuất khẩu giầy dép, là một trong những ngành quan trọng thu được nhiều ngoại tệ và giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Tổng công ty có quan hệ thương mại với 150 công ty của 50 nước trên thế giới; từ năm 1993, khi có sự dịch chuyển sản xuất giầy dép từ các nước trong khu vực sang Việt Nam đến nay, các doanh nghiệp trong Tổng công ty đã sản xuất và xuất khẩu được trên 203 triệu đôi giầy dép, trên 21 triệu chiếc vali, túi cặp, đã sản xuất gần 20 triệu mét vuông da thuộc thành phẩm để trực tiếp xuất khẩu phục vụ xuất khẩu và sử dụng trong nước.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2000: 610 tỷ đồng (tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996- 2000: 10,5%lnăm).- Tổng doanh thu năm 2000: 892 tỷ đồng đãng trưởng bình quân thời kỳ 1996-2000: 10,5%/năm).
Tổng doanh thu năm 2000: 892 tỷ đồng (tăng trường bình quân thời kỳ 1996-2000: 13%/năm).
Giá trị xuất khẩu từ 26 triệu rúp đôla (1986) tăng lên 100 triệu rúp - đôla (1990) và 168 triệu USD (năm 2000). Từ năm 1995 đến 2000, toàn Tổng công ty đã tạo giá trị xuất khẩu 1.100 triệu USD.
Tổng số lao động toàn Tổng công ty năm 2000: 25.000 người.
Trong những năm gần đây (1996-2000), để phát triển sản xuất ổn định và mở rộng thị trường tăng cường kim ngạch xuất khẩu... Tổng công ty đã chú trọng khâu đầu tư chiều sâu, mở 1 rộng và đầu tư mới các cơ sở sản xuất (tổng số vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000 là 694 tỷ đồng, vốn tham gia liên doanh với các công ty nước ngoài là 44,512 tỷ đồng, vốn tham gia cổ phần 1,7 tỷ đồng) tăng cường hợp tác sản xuất với các công ty nước ngoài, tiếp nhận một số cơ sở sản xuất da - giầy thuộc các địa phương sáp nhập thành các đơn vị trực thuộc Tổng công ty hoặc của các công ty thành viên.
Tình hình phát triển của Tổng công ty thời kỳ 2000-2005, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư bổ sung, thay thế một số thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, mở rộng sản xuất các cơ sở hiện có, Tổng công ty sẽ tập trung hình thành các cụm công nghiệp giầy và nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy ở cả hai phía Bắc - Nam, hình thành những cơ sở sản xuất giầy có công nghệ cao, chú trọng đầu tư các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu cao cấp phục vụ cho sản xuất giầy dép, vali, túi cặp... tổ chức lại lĩnh vực thuộc da trong toàn Tổng công ty, nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu về da thuộc cho sản xuất giầy và đồ dùng bằng da phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.'
Hình thành một số trung tâm mẫu mốt khu vực có đủ điều kiện thích hợp với sự biến động vế nhu cầu thị hiếu, đa dạng phong phú của thị trường giầy thế giới và trong nước.
Tổng công ty Da - Giầy Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn, sự cạnh tranh gay gắt của thị trường giầy thế giới và trong nước. Bên cạnh đó, còn có những cơ hội mới để tiếp tục phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, từng bước thực hiện tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.nhà cung cấp giày dép lớn thứ ba (sau Trung Quốc và Italia) tại thị trường Hồng Công.
Bên cạnh đó thi Việt Nam không ngừng cải tiến mẫu mã đểngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường:
VISI-Shoes là một phần mềm thiết kế giày tự động, sử dụng công cụ cực mạnh trong VISI-Modelling, cộng thêm các chức năng tạo mặt, nâng cao để tạo ra các form giày và dáng giày rất nhanh chóng. Toàn bộ qui trình thiết kế từ form giày hoặc từ dữ liệu 2D, sau đó hoàn thiện phần giày từ đế ngoài đến đế trong, gót và khuôn đều được tạo ra rất dễ dàng.
Giầy thể thao vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt nam với 381 tri đôi, trị giá 2,63 tỷ USD chiếm 73 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, giầy nữ với số lượng 87 triệu đôi đạt trị giá 538 triệu USD chiếm gần 15% . Giầy vải vẫn tiếp tục được duy trì , đặc biệt các loại giầy vải cao cấp thêu, in nổi và các loại giầy vải có mũ từ da được nhiều khách hàng quan tâm. Năm 2006 đạt 25 triệu đôi, trị giá 217 triệu USD chiếm 6,4 % tổng kim ngạch. Tuy số lượng giầy vải không tăng so với 2005 song giá trị XK lại lớn hơn, điều đó cho thấy DN Việt nam đã XK giầy vải cao cấp thay thế các loại giầy vải thấp cấp như trước đây. Các loại khác như: dép đi trong nhà, sandal, dép đi biển đạt 75 triệu đôi, trị giá 202 triệu USD chiếm 5,6% tổng kim ngạch XK.
Cho đến nay dòng sản phẩm giầy dép xuất khẩu có lợi thể cạnh tranh của Việt nam là hang tầm trung và tầm cao, tập trung vào 4 loại chính: Giầy thể thao mặt hang chủ lực, giầy vải, giầy da nam nữ và dép các loại. Đến hết năm 2006, toàn ngành đã trang bị trên 750 dây chuyền đồng bộ sản xuất các loại giầy dép hoàn chỉnh với công suất 715 triệu đôi/năm, theo thống kê trong 10 đôi giầy tiêu thụ trên thế giới có tới 2 đôi sản xuất tại Việt nam vì vậy Việt nam vẫn tiếp tục được xếp vào thị trường sản xuất giầy dép của thế giới chỉ đứng sau Trung quốc và Ấn độ ở khu vực châu á.
Năng lực sản xuất các ngành da giầy Việt Nam năm 2006
Số đôi (triệu đôi)
số tiền (USD)
tỷ trọng
thể thao
381
2,63 tỷ
73%
Giày nữ
87
538 triệu
15%
Giày vải
25
217 triệu
6,4%
Các loại giày dép khác
75
202 triệu
5,6%
1. 2. Thị trường
EU: Là một trong những ngành xuất khẩu chiếm tỉ trọng cao của nền kinh tế ,từ năm 2000 đến 2006 ,ngành da giầy luôn đạt kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước với mức tăng bình quân 18% năm và đạt ở mức cao nhất là 3,59 tỷ USD vào năm 2006 ,xấp xỉ 10% kim ngạch xuất khẩu .Giai đạo 2005-2006 ,do tá đọng của vụ kiện chống phá giá các loại dàu mũi da cá xuất sứ từ Việt Nam ,Trung Quốc xuất khẩu sang EU ,tình hình sản xuất của ngành da giầy có chững lại ,nhưng nhìn chung 6 năm qua ,toàn ngành đã có tốc độ phát triển cả về số lượng ,chất luượng và chủng loại.
Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam đạt 3,59 tỷ USD, tăng bình quân 0,403 tỷ USD/ năm trong giai đoạn 2001-2006. Thị trường chủ yếu của ngành đến nay vẫn là các nước thuộc EU, chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện tại, Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc về xuất khẩu giày dép sang EU và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
Đối với Mỹ :Mỹ là thị trường nhập khẩu giày dép lớn thứ hai của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập
Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục gia tăng với kim ngạch XK năm 2006 đạt 802 triệu USD tăng 30% so với năm 2005, chủ yếu do các công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt Nam gia công xuất khẩu những thương hiệu lớn như NIKE, Addidas, Rebook…và XK qua hệ thống kênh phân phối chính của Mỹ, một số các DN có quy mô nhỏ tự sản xuất mẫu mã và chào hàng trực tiếp tới các nhà nhập khẩu qua các hội chợ triển lãm tại . Mỹ hiện đang bước đầu triển khai song kết quả vẫn còn rất hạn chế. Các sản phẩm xuất khẩu chính vào thị trường này là giầy thể thao, giầy da nam nữ, dép đi trong nhà, dép đi biển. v.v... Ngoài ra, thị trường Nhật với thị phần XK chiếm hơn 3% vào năm 2006 và các thị trường khác (20%) vẫn duy trì ở mức như những năm trước đây, các đối tác Nhật đang có xu hướng tìm kiếm các đối tác thuộc da và SX giầy tại Việt nam.
Trong thời gian tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam, với các sản phẩm xuất khẩu chính là giày thể thao, giày da nam nữ.
Theo Trung tâm Thông tin Thương mại (Bộ Thương mại), Việt Nam đã vượt qua Mỹ để trở thành nhà cung cấp giày dép lớn thứ ba (sau Trung Quốc và Italia) tại thị trường Hồng Công.
Thị truờng khác :Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu giày da trong tháng 7/2005 ước đạt 11,5 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với mức kim ngạch trung bình trong 6 tháng đầu năm 2005 và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2004.
Trong đó, xuất khẩu giày sang thị trường Hà Lan tháng 7/2005 đạt khoảng 1,5 triệu USD, tăng 2 lần so với tháng 6/2005. Tuy nhiên, mức kim ngạch này mới chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2004. Giá xuất khẩu trung bình sang Hà Lan cao hơn 1 USD/đôi so với mức giá cùng kỳ năm 2004.
Xuất khẩu giày da sang thị trường Đài Loan cũng tăng nhẹ đều trong 2 tháng trở lại đây và đạt trên 1,5 triệu USD trong tháng 7/2005, tăng gấp 2 lần so với kim ngạch trong tháng 7/2004. Đơn giá xuất khẩu sang thị trường Đài Loan đạt mức trung bình cao nhất 25 USD/đôi, cao hơn 0,7 USD/đôi so với mức giá trung bình trong tháng 4.
Nhật Bản cũng có xu hướng tăng nhập khẩu giày da từ Việt Nam, đặc biệt là giày da có chất lượng tốt. 4 tháng đầu năm 2005, xuất khẩu giày da sang thị trường Nhật Bản đạt gần 700 nghìn USD. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản trong 3 tháng trở lại đây đều đạt trên 500 nghìn USD/tháng. Xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Anh, Canada cũng đang trong xu hướng tăng.
1.3. Tình hình nhập khẩu:
* Nguyên phụ liệu và da thuộc thành phẩm:
Năm 2006 nhập khẩu da thuộc đạt 545 triệu USD với sản lượng 377 triệu Từ năm 2000 ngành công nghiệp sản xuất giầy dép phải nhập khẩu từ 80 -85% nguyên phụ liệu của thế giới, qua một quá trình phát triển đến 2006, riêng sản xuất giầy thể thao với sản lượng chiếm tới 70% sản xuất thì đã chủ động được 70% nguyên liệu tại chỗ. Các nhà máy sản xuất đế, thuộc da, nhựa…. trong nước đã có thể cung ứng đầy đủ. Các DN chỉ phải nhập khẩu những nguyên vật liệu có hàm lượng chất xám cao như Da cao cấp của Ý và một số loại nguyên phụ liệu đặc chủng của Hàn quốc, Đài loan. Như vậy qua 5 năm ngành đã giảm việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ 80% xuống còn 60%.
Máy móc thiết bị: Chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ các nước như Ý, Hàn quốc, Đài loan và Trung quốc. Năm 2006 tổng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị là 57 triệu USD.
1.4.Mở rộng hợp tác
Các doanh nghiệp theo đó cũng đang có chiều hướng phát triển thuận lợi hơn bằng cách chuyển hướng thị trường xuất khẩu. Ngoài thị trường cộng đồng châu Âu, VN đang tiến tới những thị trường đầy tiềm năng khác như Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Malaysia, Brazil... “VN có điểm yếu là vật tư nguyên liệu không dồi dào nhưng đổi lại có thế mạnh về sức lao động tốt và rẻ. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp thử sức và dấn tới nhiều thị trường khác”.
Ngày 24/10/2006 đã diễn ra buổi hội thảo giao lưu giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và các doanh Nghiệp Việt Nam. Đoàn doanh nghiệp Trung Quốc gồm 40 người dẫn đầu là các Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Da giày Trung Quốc, Chủ tịch Hội Da Giày Trung Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản Trị Cty TNHH Da Tấn Giang và các Giám đốc đại diện các doanh nghiệp đến từ 12 tỉnh của Trung Quốc như Triết Giang, Tấn Giang, Quảng Đông,… với mục đích tìm kiếm cơ hội đầu tư về lĩnh vực ngành da bò, da heo.
Bên cạnh đó, các Doanh nghiệp Trung Quốc muốn tìm hiểu về thuế, đất đai, các chính sách ưu đãi, luật đầu tư ở Việt Nam,… và muốn giúp các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng công nghệ xử lý da của Trung Quốc. Buổi hội thảo đã diễn ra thành công tốt đẹp, phía Việt Nam các doanh nghiệp cũng đang tham khảo giá cả da heo, và tìm hiểu thêm về công nghệ phía doanh nghiệp bạn. Sau buổi làm việc này đoàn Trung Quốc sẽ ra miền Bắc tìm hiểu các doanh nghiệp ngành da giày ở đây
1.5.X úc ti ến th ư ơng m ại
Hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) và phát triển thị trường được Hiệp hội và các DN quan tâm, đặc biệt từ năm 2003 với sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia, có thể thấy:
Trong hơn 2 năm qua, Hiệp hội đã tổ chức gần 15 đoàn các DN tham gia trưng bầy sản phẩm và khảo sát thị trường tại Đức, ý, Pháp, Mỹ, Trung Quốc với sự tham gia của trên 200 lượt DN trong phạm vi cả nước. Kết quả các hoạt động nêu trên đã giúp các DN tiếp cận trực tiếp với các khách hàng tiềm năng, giới thiệu quảng bá các sản phẩm và nâng cao hình ảnh DN, nắm bắt sâu hơn nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng ở từng khu vực khác nhau trên thị trường quốc tế.
Các DN đã chú trọng tới việc chuẩn bị mẫu mã, các bộ sưu tập mới để trưng bày tại các gian hàng tham gia, có tính toán kỹ về giá cả, chi phí thực hiện các đơn hàng để ký kết hợp đồng ngay tại hội chợ. Sự hiện diện của các DN, gian hàng chung của Hiệp hội đã tạo dựng được hình ảnh ngành CN Da- Giầy VN trên thị trường quốc tế và tại hội chợ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế: Mẫu mã chưa phong phú, chưa có các bộ sưu tập ấn tượng và các sản phẩm còn đơn giản, đôi khi trùng lặp, khâu trang trí chưa thực sự ấn tượng, nổi bật...
Hai năm qua, Hiệp hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm, marketing, kinh doanh, xuất nhập khẩu và các khóa dành cho các DN vừa và nhỏ hướng tới để các DN vượt qua các rào cản, đảm bảo thực hiện những yêu cầu của các nhà nhập khẩu (về môi trường, an toàn sức khoẻ và thực hiện tốt TNXHDN). Hiệp hội tập trung công tác đào tạo vào 2 đối tượng chính: Đội ngũ cán bộ thiết kế và phát triển sản phẩm, đội ngũ marketing, XNK và kinh doanh giỏi. Hai lực lượng này là nhân tố quyết định giúp cho việc đáp ứng mẫu mã và thời hạn giao mẫu chào hàng. Song hành với các hoạt động trên, công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá sản phẩm và giới thiệu hình ảnh DN cũng đã được ý thức và quan tâm...
2.Những khó khăn tồn tại
2.1.Mẫu mã nguyên liệu-thương hiệu
Theo LEFASO, tổng lực lượng ngành giày dép cả nước hiện có trên 270 doanh nghiệp với 500.000 lao động, chưa kể các cơ sở nhỏ và hộ gia đình. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành da giày Việt Nam đạt 2,19 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2003. Tuy nhiên, niềm ưu tư lớn nhất lâu nay của ngành giày da Việt Nam vẫn là sự nghèo nàn về mẫu mã và thiếu thốn về thương hiệu. Năm ngoái, 11 gian hàng giày Việt Nam tham gia hội chợ Duseldorf tại Đức, đã phải lép vế trước trên 200 gian hàng của người khổng lồ Trung Quốc. Mẫu giày Việt Nam hầu như na ná nhau, giá lại cao hơn của Trung Quốc 20-30%.
Từ trước đến nay, các sản phẩm giày được sản xuất trong nước chủ yếu theo mẫu mã nước ngoài và xuất hiện trên thị trường quốc tế dưới nhãn hiệu của các nước khác. Do vậy, vấn đề then chốt có tính chất quyết định tới sự phát triển của ngành giày là phải tạo dựng được một lực lượng thiết kế mẫu chuyên nghiệp, có đủ năng lực, trình độ tự thiết kế được khách hàng trong và ngoài nước chấp nhận”. Theo nhận xét của giới kinh doanh da giày, trên thị trường thế giới không hề thấy bóng dáng một đôi giày mang nhãn hiệu Việt Nam. Một trong những nguyên nhân cơ bản, theo các doanh nghiệp là do ngành da giày Việt Nam hiện chỉ làm hàng gia công xuất khẩu chứ chưa trực tiếp xuất dưới thương hiệu của mình
2.2.Đội ngũ thiết kế
Đươc đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào tuy nhiên chủ yếu lao động thủ công ,thiếu hẳn một lực lưỡng thiết kế, là ngành duy nhất không có trường lớp đào tạo kỹ thuật hay cử nhân thiết kế tạo mẫu. Hiện nay ngành giày thiếu vắng hẳn một lực lượng là những kỹ sư phác họa, mỹ thuật công nghiệp. Thiếu đội ngũ này thì không thể nào nói đến có được các mẫu mã sáng tạo, thời trang, không thể cạnh tranh với hàng các nước, càng không thể nói đến các thương hiệu nổi tiếng như Nike, Adidad... Hiện tại, chỉ có một số rất ít nhân viên học mỹ thuật công nghiệp ra và làm việc tại các phòng kỹ thuật của doanh nghiệp, như công ty giày An Lạc, 32, Công ty Xuất nhập khẩu da giày Sài Gòn…
Theo nhận xét của LEFASO, đội ngũ thiết kế tạo mẫu giày hiện nay ở ta còn rất thiếu và yếu. Gọi là các “nhà tạo mẫu” cho sang trọng, nhưng phần lớn xuất thân từ công nhân, sau thời gian làm các dây chuyền sản xuất, được lựa chọn bồi dưỡng tại chỗ để làm ở bộ phận ra mẫu và phát triển sản phẩm. Những nhân viên này không được đào tạo có bài bản chuyên về thiết kế tạo mẫu giày, một số khác chỉ được tiếp thu trực tiếp qua các chuyên gia, các khóa ngắn hạn do doanh nghiệp cử đi học.
Hiện tại, nhu cầu về đội ngũ này ở các doanh nghiệp rất lớn. Chỉ riêng ở Công ty Biti’s Đồng Nai, đội ngũ cán bộ thiết kế, tạo mẫu, kỹ thuật viên tới trên 100 người. Các doanh nghiệp khác có quy mô lớn cần có số lượng tương tự.
2.3 Tình hình xuất khẩu-nhập khẩu
Tuy nhiên, xuất phát từ nội tại sản xuất nhiều năm qua, ngành da giày Việt Nam còn nhiều tồn tại chưa được khắc phục. Dù là nước xuất khẩu lớn, nhưng các doanh nghiệp ngành da giầy Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu theo phương thức gia công, không chủ động được nguồn nguyên liệu, bị hạn chế về vốn và công nghệ. Khoảng 60% nguyên vật liệu, hóa chất vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, đã xây dựng được ngành công nghiệp hỗ trợ như ngành sản xuất nguyên phụ liệu và các trung tâm phát triển mẫu mốt nằm cạnh các khu công nghiệp sản xuất giầy dép, rất thuận lợi cho việc đáp ứng nhu cầu triển khai mẫu mã mới của khách hàng. Với những thuận lợi đó, Trung Quốc hiện đang chiếm lĩnh thị phần thống trị tại các thị trường lớn như 83,5% tại Mỹ, hơn 64% tại EU. Đây thực sự là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp ngành giầy Việt Nam.
Đối với thị trường nội địa, sản phẩm giày dép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất đang phải cạnh tranh với giày da giá rẻ nhập lậu từ Trung Quốc. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. So với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế hơn về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý sản xuất, kỹ thuật công nghệ, tiếp thị xuất khẩu... Vì vậy, sản phẩm của họ có lợi thế cạnh tranh hơn sản phẩm của doanh nghiệp trong nước về chất lượng, giá trị và thị trường xuất khẩu. Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện chiếm trên 55% tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm giày dép.
Ngoài những thách thức và áp lực trong cạnh tranh, mức thuế 10% mà EC đang áp dụng đối với mặt hàng giầy mũ da xuất xứ Việt Nam (từ tháng 10/2006) đã khiến nhiều doanh nghiệp ngành da giầy gặp khó khăn trong đàm phán, tiếp nhận các đơn hàng mới và đứng trước nguy cơ bị mất đơn hàng, mất luôn cả khách hàng.
90% trong tổng doanh thu xuất khẩu da giày 2,8 tỷ USD năm 2004 bắt nguồn từ gia công cho đối tác nước ngoài. Tình trạng gia công hàng chẳng những đã làm biến mất thương hiệu da giày Việt Nam trên thương trường quốc tế mà còn ảnh hưởng mạnh đến ngành sản xuất nguyên phụ liệu da giày nội địa
Ông Vũ Văn Chầm, Chủ tịch Hội da giày TP HCM nói vui mà chua chát: "Ngành da giày Việt Nam hiện đang bị xâm lăng bởi hàng ngoại, từ nguyên phụ liệu, mẫu mã cho đến giày thành phẩm". Theo ông, ở nước ngoài, giày Việt phải mượn danh thương hiệu khác mới tồn tại được. Trong khi đó, tại thị trường nội địa, cơn lốc giày dép Trung Quốc đang cuốn đi các cơ sở sản xuất nhỏ, kinh doanh theo phương thức tiểu thủ công và đặt ra những thách thức cho các doanh nghiệp da giày lớn.
Theo giới kinh doanh da giày, 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất da giày là chất liệu da và giả da; đế; các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhãn hiệu, gót... thì đến 70-80% là nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... Riêng đế giày, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại.
Cũng như nhiều ngành nghề khác, ngành da giày đang phải chịu áp lực giá nguyên liệu đầu vào tăng 30-40% so với năm 2004, nhưng vẫn phải gồng mình chịu đựng chứ không thể tăng giá đầu ra được. "Thậm chí có đơn hàng chúng tôi phải giảm giá chào mới cạnh tranh nổi với đối thủ Trung Quốc", ông Nguyễn Văn Độ, chủ cơ sở giày dép da Hoàng Diệu cho biết. Các doanh nghiệp ngành da cho rằng, nếu giải quyết được vấn đề nguyên vật liệu trong nước thì khả năng cạnh tranh của giày da Việt sẽ cao hơn rất nhiều.
Hàng loạt khó khăn đang đặt ra cho giày Việt: xuất khẩu vào thị trường EU giảm 7,5% do khả năng bị EU cắt ưu đãi thuế quan khi kim ngạch xuất vượt quá 20%; hàng Trung Quốc đang lấn sân vào các thị trường chủ lực của giày Việt bằng giá thành và mẫu mã...
10% là mức thuế cao cho sản phẩm giày mũ da VN, khiến các doanh nghiệp (DN) VN phải đối phó với cả 2 vấn đề là cạnh tranh trên thị trường cộng đồng châu Âu và lợi nhuận của DN. Trong đó vấn đề nổi cộm nhất chính là việc tác động đến đời sống của 500.000 lao động đang làm việc trong ngành da giày.Việc Ủy ban châu Âu đưa ra đề nghị mức áp dụng 10% đã làm cho một số nhà máy ở VN phải đóng cửa. Tập đoàn CLACH của Anh đặt hàn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0005.doc