đặt vấn đề
Trong thời gian vừa qua, chính sách cải cách kinh tế ở nước ta có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng và cấu trúc lại nền kinh tế. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp ổn định nền kinh tế (kiểm soát lạm phát, giảm thiếu hụt ngân sách ... ) với các biện pháp tự do hoá, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã tạo nên những chuyển biến rõ nét về tóc độ tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như là s
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2146 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự nhận thức lại và khắc phục những sai lầm của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Lịch sử phát triển sản xuất xã hội đã cho thấy rằng cơ chế điều tiết nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Song cơ chế thị trường vẫn chưa phải là giải pháp hoàn hảo. Những ảnh hưởng có tính hai mặt của cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải có sự can thiệp để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định và có hiệu quả.
Vai trò định hướng của nhà nước: Trong nền kinh tế vai trò định hướng của nhà nước là nhân tố quan trọng, mức độ can thiệp của nhà nước tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng nước, từng giai đoạn và phụ thuộc vào nhận thức của chính phủ nước đó. Tuy nhiên bất cứ nước nào nhà nước đều thực hiện vai trò quản lý của mình qua hai chức năng cơ bản là định hướng, hướng dẫn hoạt động kinh tế và điều tiết hoạt động kinh tế. Vai trò định hướng của nhà nước là rất cần thiết và quan trọng trọng trong mọi giai đoạn phát triển kinh tế. Thực tiển đã chỉ ra rằng những nước có định hướng đúng đắn sẽ dẫn đến sự phát triển không ngừng của nền kinh tế. Ngược lại nhiều nước có nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, nhưng do định hướng không đúng đã đưa đất nước tới nợ nần, nghèo đói. Việc định hướng nền kinh tế nhằm xác định hướng phân bố tài nguyên, tạo ra cơ cấu kinh tế mới, họp lý bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực.
Vai trò định hướng của nhà nước thể hiện ở chỗ, nhà nước là người hoach định các chương trình phát triển kinh tế xã hội, mà mỗi chương trình là cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất cho các doanh nghiệp.
Bằng việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng, lãnh thổ khai thác và sử dụng có hiệu quả các tài nguyên, đưa thị trường trong nước vào hoà nhập với thị trường thế giới, tạo điều kiện phát triển toàn diện nền kinh tế.
Để thực hiện được vai trò định hướng kinh tế của mình, nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ sau:
Nhà nước định hướng phát triển thông qua xác lập sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, hay nhà nước phải nắm được đầu vào các yếu tố sản xuất.
Định hướng của nhà nước thông qua việc lắm và điều tiết phân phối thu nhập. Nói cách khác là thông qua điều tiết đầu ra của nền kinh tế. Nhà nước định hướng phát triển thông qua kế hoạch hoá định hướng cho nền kinh tế, hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước không chỉ đề ra hoạch định mang tính định hướng, không chỉ giao chỉ tiêu hoạt động mà còn phải điều phối hoạt động theo dự án.
Nhà nước còn định hướng phát triển thông qua việc xác lập các thể chế phát triển, quy định giới hạn kiểm soát phạm vi thị trường cạnh tranh và độc quyền. Đồng thời nhà nước còn định hướng thông qua công cụ pháp luật và hành lang pháp lý cho nền kinh tế.
Ngoài ra nhà nước định hướng phát triển kinh tế thông qua các công cụ chính sách kinh tế như: thuế, lãi xuất, chi tiêu chính phủ, thanh toán, chuyển nhượng, khối lượng tiền tệ, bảo vệ môi trường, cung cấp hàng hoá công cộng, điều tiết thu nhập đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường.
Vai trò xây dựng pháp luật của nhà nước: bên cạnh những chính sách điều chỉnh kinh tế, nhà nước còn thiết lập những khuôn khổ pháp luật và sử dụng nó để điều tiết và ổn định nền kinh tế tạo ra sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải xây dựng các khuôn khổ pháp lý sao cho thoả mãn nhu cầu một mặt phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do cạnh tranh, mặt khác nhà nước vẫn còn phải kiểm soát nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với nhà nước.
Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật tạo ra hành lang pháp luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra các quy định, các chỉ tiêu cho hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh việc xây dựng khung pháp luật tạo môi trường pháp lý thông thoáng tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Nhà nước còn phải xây dựng hệ thống pháp lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động về kinh tế thông qua việc ban hành các đạo luật về thống kê, quyết toán, kiểm toán...
Vai trò điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh: nền kinh tế thị trường với những ưu điểm mà chúng ta đã biết, nó cũng có những mặt hạn chế mà chúng ta rất đáng quan tâm, trong đó quan trọng nhất là xu hướng phát triển tự do vô chính phủ ngày càng ra tăng và sự phân hoá trong xã hội ngày càng lớn. Nền kinh tế luôn bị chấn động bởi các cuộc khủng kinh tế và kèm theo các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát .... trách nhiệm của nhà nước xã hội chủ nghĩa là phải điều tiết toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế theo đúng quỹ đạo đã định và từng bước thực hiện công bằng trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Sự điều tiết này chủ yếu được thông qua đòn bẩy kinh tế như chính sách thuế, chính sách lãi xuất, chính sách mức lương và tiền thưởng, chính sách bảo trợ và bảo hiểm với người sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đã sử dụng công cụ thuế để điều tiết quy mô sản xuất, điều tiết thu nhập và sử dụng ngân sách để đầu tư cho lĩnh vực kinh tế và phi kinh tế. Đông thời dùng chính sách tiền tệ để điều chỉnh mức cung và cầu tiền trong lưu thông để ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, điều tiết chính sách lãi suất cho vay, để kích thích hoặc hạn chế quy mô sản xuất của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó.
Mặt khác nhà nước còn sử dụng chính sách phân phối thu nhập để bảo vệ các thành viên trong xã hội, những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống cho nhân dân.
Vai trò kiểm soát: Nhà nước đóng vai trò kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội. Một mặt khác nhà nước khuyến khích đầu tư và phát triển sản xuất không giới hạn quy mô. Nhưng một mặt nhà nước vẫn tiến hành công tác kiểm soát khiến các xí nghiệp tư nhân ít có quyền độc lập, tự chủ như ở các nước có công nghiệp phát triển. Việc kiểm soát thường mang ý nghĩa tạo điều kiền thuận lợi cho các khu vực này phát triển, bảo hộ công nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và quốc tế và tạo môi trường tài chính thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng mặc dù nhà nước của những nước đang phát triển đã can thiệp rất thành công vào sự hoạt động của thị trường, nhưng nền kinh tế vẫn không tránh khỏi những trục trặc. Vì thế đòi hỏi nhà nước ta phải thường xuyên thay đổi phương thức và công cụ điều tiết, phản ứng linh hoạt trước sự biến động của nền kinh tế. Nhà nước phải thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản của mình, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, nhưng không xâm phạm quyền tự chủ của các doanh nghiệp.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề giảm sút, mà nó còn được tăng lên rất nhiều. Song cái chính giờ đây vai trò nhà nước không được thể hiện bằng mệnh lệnh mà bằng kế hoạch, đòn bẩy kinh tế, hệ thống chính sách và pháp luật chặt chẽ, đầy đủ và đồng bộ.
đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng xhcn ở việt nam.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải xác định nội dung của thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. đây là một vấn đề vừa phức tạp, vừa cấp bách, bởi lẽ thể chế kinh tế mà trong đó thị trường và quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định với sản xuất kinh doanh, phân phối tài nguyên quốc gia với sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần cạnh tranh, có trình độ xã hội cao, thúc đẩy sự kết hợp hài hoà giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế vận hành theo các quy luật khách quan và chính sách kinh tế thích hợp, bảo đảm thị trường thống nhất mở rộng các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, cân bằng và ổn định. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội. Từ đó ta có thể xác định được những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế nước ta là kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo :
Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI và VII nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá phải là một nền kinh tế đa dạng, đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà cần có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Sự quản lý, điều tiết và định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của các khu vực kinh tế của nhà nước. Kinh tế nhà nước luôn phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, hướng dẫn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển hướng theo mục tiêu đã định.
Nhà nước phải là người đứng ra tổ chức và chỉ đạo sự hoạt động của nền kinh tế, phải có sự kết hợp hài hoà giữa năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá nhân và kinh tế tư bản tư nhân, để tạo thành hệ thống phát triển đúng nục tiêu mà chúng ta đã đề ra.
Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội:
Đây là đặc trưng nổi bật nhất của thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường chủ động kết hợp với nhau qua luật pháp, chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Thực hiện phúc lợi xã hội thông qua ngân sách để vừa khuyến khích mọi người làm giầu chính đáng và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. chúng ta phải gắn kinh tế, xã hội, quốc phòng thành một thể thống nhất bảo đảm ổn định chính trị từng quốc gia, từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng mà còn phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống ( tiền lương, thu nhập thực tế tăng mạnh; y tế, giáo dục phát triển ), sự phân hoá giầu nghèo không làm ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn tới sự xuống cấp thậm chí là tha hoá trong lĩnh vực văn hoá xã hội và các quan hệ đạo đức trong xã hội. Vì thế đặc trưng quan trọng và không thể thiếu được của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Phát triển kinh tế ở nước ta phải được phát triển bền vững, mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường:
Đây là một đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đây là điều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường. Phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc chuyển biến cơ chế kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh, đặt nó ở vị trí thực sự đối mặt với thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách lưu thông hàng hoá, xây dựng hệ thống thị trường thông suốt và ổn định. Không chỉ là thị trường hàng hoá dịch vụ mà cả thị trường vốn, kỹ thuật, lao động, chứng khoán,bất động sản...
Tuy nhiên, sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế luôn bảo đảm yếu tố bền vững, tăng trưởng kinh tế là đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời môi trường sinh thái cũng được bảo vệ và phát triển thông qua các dự án môi sinh. Không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài, đi đôi với khai thác phải là bảo vệ và tái tạo nguồn tài nguyên, đi đôi với sản xuất là phải bảo vệ môi trường sinh thái.
Tốc độ phát triển kinh tế cao:
Đây là yêu cầu rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng đây không phải là điều kiện đủ bởi lẽ nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng lại không phải là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống thị trường phải được phát huy đầy đủ, mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động cạnh tranh với nhau và hình thành một thị trường, một mạng lưới sản xuất xã hội có trật tự. Do đặc trưng của cơ chế thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu cạnh tranh, là môi trường cạnh tranh, vì vậy bắt buộc tất cả các chủ thể kinh tế đều phải hoạt động với tốc độ cao để có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này.
Vai trò lãnh đạo, quản lý cuẩ nhà nước:
Đây là một điều kiện quan trọngbảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta. Trong nền kinh tế thị trường chạy theo lợi nhuận, trong môi trường cạnh tranh, cho nên nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp mà chỉ có nhà nước mới có thể giải quyết được. Vì thế chúng ta muốn xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chúng ta không thể không nói tới vai trò quản lý của nhà nước. Vai trò này được thể hiện bằng hệ thống pháp luật bảo vệ quyền tự do, dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng, đồng thời mở rộng và hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước phải hoà nhập với nền kinh tế thế giới:
Xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới là sự phát triển của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã và đang phát triển, nó không phải là vũ khí, quân đội hay dân số mà là tiểm lực kinh tế. Nên kinh tế nước ta là một nền kinh tế mở, có quan hệ với nước ngời dưới nhiều hình thức khác nhau. Nội dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế về vị trí địa lýlao động, tài nguyên thiên nhiên.... Mặt khác, nó cũng làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới để có thể tiếp thu được trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại góp phần đưa nền kinh tế đất nước phát triển nhanh chóng hơn.
mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước.
Mục tiêu
Quản lý vĩ mô của nhà nước về kinh tế là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Thông qua các tác động đối với nền kinh tế, nhà nước một mặt kiểm soát và hỗ trợ sự phát triển của bản thân nền kinh tế và mặt khác thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tạo tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cao hơn và ổn định hơn, đồng thời kết hợp tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Những mục tiêu đã định phải thể hiện được tính tích cực, đồng thời giải quyết được mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Bằng pháp luật và hệ thống những chính sách kinh tế, nhà nước hướng nền kinh tế theo các mục tiêu.
Bảo đảm kinh tế phát triển ổn định, không có biến động xấu: nền kinh tế phải có sự tăng trưởng một cách ổn định, không xuất hiện khủng hoảng gây ảnh hưởng xấu. Một mặt chúng ta chủ trương phát triển nển kinh tế ở tốc độ phát triển cao, mặt khác chúng ta cũng cần tới vai trò của nhà nước để giữ cho nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định.
Bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội: nền kinh tế không chỉ cần có sự tăng trưởng ổn định mà còn phải thực hiện các chỉ tiêu nhà nước đạt ra. Biểu hiện của nó chính là sự phát triển của sản xuất, của năng xuất lao động, của sự ổn định trật tự xã hội, kỷ cương phép nước được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng cao những vẫn bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Giải quyết được những vấn đề xã hội nẩy sinh của con người trong quá trình phát triển: đây choính là mặt trái của kinh tế thị trường, hỏi sự can thiệp của nhà nước bằng các chính sách kinh tế xã hội phù hợp. Nội dung của nó là sự đi đôi giữa tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội ( đảm bảo phúc lợi xã hội, giải quyết công ăn việc làm .... ) giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái.
Chức năng
Trong cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò khống chế vĩ mô để định hướng cho sự phát triển nền kinh tế ổn định, có hiệu quả và công bằng xã hội. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển, bảo đảm ổn định vè chính trị, duy trì thực hiện luật pháp điều tiết, khống chế lạm phát, ngăn ngừa đột biến xấu của nền kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng bảo đảm điều kiện cho hoạt động của nền kinh tế; mở rộng, khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước quan hệ qua lại với các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời kiểm soát, quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, tạo ra sự công bằng xã hội thông qua việc thực hiện chính sách phân phối lại thu nhập.
Chức năng ổn định chính trị: Đây là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Chính trị và kinh tế là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, ngược lại kinh tế phát triển sẽ góp phần làm ổn định chính trị. Vì thế chức năng đầu tiên của nhà nước là giữ vững chính trị. Nhà nước cần điều hoà các mối quan hệ về kinh tế, chính trị giữa các tổ chức kinh tế xã hổitong nước cũng như ngoài nước để tránh các xung đột ( biểu tình, đảo chính, những mâu thuẫn trong nội bộ nhà nước ).
Chức năng ban hành hệ thống pháp luật phục vụ kinh doanh: nhà nước phải tạo hành lang pháp luật cho các hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Khống chế lạm phát: vấn đề lạm phát là một vấn đề nan giải ở tất các nước có nền kinh tế thị trường đòi hỏi nhà nước phải có những biện pháp thích hợp để giải quyết. Bằng các chính sách tài chính tiền tệ, tín dụng, nhà nước kiểm soát cho phù hợp với tình hình phát triển sản xuất trong và ngoài nước. Bảo đảm cho sự ổn định tiền tệ nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Xây dựng cơ sở hạ tầng: chỉ có nhà nước mới đủ khả năng để xây dựng cơ sở hạ tầng, kết cấu kinh tế xã hội bảo đảm yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Thông qua nguồn vốn trong nước và các dự án đầu tư nước ngoài, nhà nước cần phải đầu tư hệ thống giao thông và các yếu tố khác để phục vụ quá trình sản xuất.
Chức năng bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên: tài nguyên là một yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doan, tạo nên lợi thế so sánh giữa các vùng, các quốc gia. Vì thế nhà nước cần thông hệ thống pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua các ngành có liên quan để đánh giá chính xác nguồn tài nguyên quốc gia, từ đó đề ra chiến lược khai thác và sử dụng một cách hợp lý, bảo vệ nguồn tài nguyên đồng thời cũng là bảo vệ môi trường sinh thái.
Các giải pháp cơ bản đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ta hiện nay
Đổi mới nhanh chóng bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước chính là một công cụ quan trọng để nhà nước phát huy vai trò điều phối, điều tiết và kiểm soát kinh tế của mình. Bộ máy nhà nước ta hiện nay quá kồng kềnh và kém hiệu lực, bởi vậy cần khẩn trương kiện toàn nó theo hướng cơ bản là bảo đảm chức năng hướng dẫn hoạt động kinh doanh. Chúng ta phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự là của dân, do dân, vì dân. việc kiện toàn bộ máy nhà nước phải bảo đảm tính khoa học và chất lượng, sự biến động chỉ mang tính tách nhập.
Hệ thống pháp luật
Vai trò: trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ bao nhiêu thì việc quản lý nhà nước càng chặt chẽ và thuận lợi bấy nhiêu. Vì thế đổi mới hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế là một việc làm rất quan trọng để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước.
Thực trạng: hiện nay hệ thống pháp luật của nhà nước ta chưa đồng bộ và thực hiện còn rất lỏng lẻo. Nền kinh tế đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, nhưng luật kinh doanh còn non kém, những luật rất cơ bản như luật lao động, luật thuê mướn công nhân, luật phá sản, luật doanh nghiệp nhà nước, luật cạnh tranh chống độc quyền... vẫn chưa cóhoặc chưa hoàn thiện. Vì vậy nên cách giải quyết công việc hàng ngày của các cơ quan chức năng nhà nước còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. cũng do chưa có luật cho nên một số cơ quan nhà nước buông lỏng việc quản lý, để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp hoạt động gây thiệt hại cho nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy dẫn đến việc quản lý nhà nước đối với nên kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp.
Giải pháp: muốn tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước thị hệ thống pháp luật phải đồng bộ và thực thi pháp luật phải nghiêm minh. Một mặt chúng ta phải hoàn thiện những điều luật trong bộ luật đã có đồng thời nhanh chóng ra những văn bản luật còn thiếu. Tiếp tục rà soát sửa đổi bổ xung và xây dựng mới các vằn bản pháp luật cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới. phấn đấu có đủ các đạo luật để điều chỉnh các lĩnh vực về hoạt động kinh tế, quản lý hành chính nhà nước. Yêu cầu quan trọng đầu tiên của văn bản pháp luật là phải thể chế hoá đường nối của đảng bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật cần bổ xung và hoàn thiện thêm.
Trong sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản,thị trường vốn, thị trường chứng khoán, mua bán các giấy tờ có giá trị, công ty tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ xung, sửa đổi luật thuế tránh chồng chéo, phấn tán theo hướng mở rộng diện tích thu thuế, nhưng giảm mức thu thuế nhằm khuyến khích tích cực, tự giác của người đóng thuế cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khuyến khích đầu tư trong nước, nhất là khu vực sản xuất nhỏ, rộng lớn, sửa đổi bổ xung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước, các hiệp định đa phương, song phương, bảo vệ lợi ích đất nước và doanh nhân Việt Nam trong hợp tác quốc tế.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý nhà nước bằng pháp luật. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là nhưng người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức.
Chính sách tài chính tiền tệ - tín dụng
Là bộ phân cấu thành quan trọng trong tổng thể chính sách vĩ mô có tác động mạnh mẽ và hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế điều hoà mức cung cầu về tiền tệ trong lưu thông, giữ cho giá cả ổn định và kiểm soát lạm phát thông qua thuế và lãi xuất cho việc điều tiết quy mô sản xuất góp phần bảo đảm ổn định nền kinh tế.
Thực trạng: Nhà nước bằng việc thực hiên một cách linh hoạt và mềm dẻo các chính sách thuế, tín dụng, nới lỏng hàng rào thuế quan, giảm thuế, có lãi suất ưu đãi với hàng xuất khẩu. Từ đó sẽ kích thích sản xuất và xuất khẩu.
Tuy nhiên hiện nay ngân sách nhà nước còn bất ổn, bội chi lớn, việc phân phối thu chi ngân sách chưa hợp lý. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn chậm phát triển. Tài sản quốc gia, tài chính công và tài chính doanh nghiệp nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ dẫn đến nhiều thất thoát.
Mặt bằng lãi suất chung chưa phản ánh linh hoạt quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế, lãi suất cho vay tới người tiêu dùng còn cao. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp, mất cân đối về cơ cấu với việc sử dụng và bên cạnh đó rủi ro tín dụng ngân hàng cũng còn là điều lo ngại.
Phương hướng: xây dựng một chính sách tài chính tiền tệ lành mạnh thu chi đúng, đủ, chống thất thu. Thực hiện tốt hệ thống ngân hàng 2 cấp: ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại, đưa chúng ta đi vào hoạt động có nề nếp. Củng cố sức mua của đồng tiền Việt Nam, góp phần ổn định giá cả, khống chế và kiểm soát lạm phát ở mức bình thường và đề phòng những hiện tượng tái phát bằng cách chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân sách hoặc ngân sách vây ngân hàng, không dùng ngân sách nhà nước để chi cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái tự do có sự điều chỉnh và can thiệp của ngân hàng nhà nước, xây dựng và thi hành chính sách kiểm soát ngoại hối. Đồng thời đổi mới và đa dạng các hoạt độngtín dụng ngân hàng trung ương, phải kiểm soát được số lượng và chất lượng tín dụng, phải có chính sách tín dụng khuyến khích đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu ( cho vay với lãi suất thấp)
Chính sách đầu tư
Vai trò: là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều tiết vốn đầu tư và lưu thông trao đổi hàng hoá giữa thị trường trong nước và nước ngoài.
Thực trạng: về đầu tư, hiện nay mức độ thu hút vốn đầu tư còn kém, chính sách đầu tư còn nhiều lỏng lẻo, nhiều kẽ hở nên hoạt động không mấy hiệu quả. Việc phân phối vốn đầu tư giữa các ngành, cùng chưa hơp lý đẫn đến tình trạng mất cân đối.
Giải pháp: cần nghiên cứu xây dựng các chính sách huy động vốn, hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khoán và có chính sách ưu đãi cho đầu tư nước ngoài, có một chương trình để xây dựngtừ nay tới cuối thập kỷ một luật đầu tư thống nhất cả trong lẫn ngoài nước. Mặt khác, coi trọng các công cụ tài chính và tín dụng vì nó có vai trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư, có thể là kích thích hoặc kìm hãm đầu tư ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhà nước nên điều chỉnh lại chính sách đầu tư, cần tập chung đầu tư cho những ngành, những vùng tạo nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao, những sản phẩm có khối lượng sản xuất và xuất khẩu lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhà nước cũng cần đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ cho sản xuất và đời sống chung của cả nước, đặc biệt là hệ thống giao thông, thông tin, điện, nước... Cần đầu tư cho giáo dục và khoa học nhiều hơn nữa. Đó là các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả nhất.
Chính sách xuất nhập khẩu
Vai trò: Là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước về điều tiết lưu thông, trao đổi háng hoá giữa các thị trường, phát huy lợi thế so sánh của nước ta, tạo điều kiện tích luỹ trong nước.
Thực trạng: Hiện nay các chính sách xuất nhập khẩu đều ưu tiên hướng vào các mặt hàng chuyền thống có khả năng cạnh tranh thu về ngoại tệ. Chú trọng đến việc nhập khẩu trang thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất. Những chính sách nhập khẩu hiện nay còn lỏng lẻo, gây nhiều hiện tượng tiêu cực như: lâu thuế, tham nhũng....
Phương hướng: cần xây dựng đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách xuất nhập khẩu. Có chính sách ưu tiên để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu, nâng sức cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu trên thị trường.
Phát triển nhanh xuất khẩu dịch vụ, giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu công nghệ hiện đại, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Củng cố và phát huy các thị trường quen thuộc, tìm thị trường và bạn hàng mới.
Chính sách phân phối thu nhập
Vai trò: Là một trong những công cụ có hiệu lực nhất để định hướng một nền kinh tế. Việc điều tiết hợp lý và có hiệu quả của nhà nước đối với tổng thể sản phẩm làm ra, sẽ tạo ra sự công bằng, góp phần khắc phục những thất bại của nền kinh tế thị trường.
Thực trạng: Chính sách tiền lương, bảo hiểm đối với người lao động ngày càng được đổi mới, từng bước xoá bỏ phân phối bình quân. Nhưng vẫn còn tình trạngbất bình đẳng trong phân phối giữa các tầng lớp đẫn đến sự phân hoá giầu nghèo.
Giải pháp: xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của người giầu giúp đỡ người nghèo, khuyến khích làm giầu hợp pháp. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối hiệu quả lao động là chủ yếu. Có chính sách hỗ trợ để giúp đỡ người nghèo hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó sẽ nâng cao thu nhập và mức sống của nhân dân.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0487.doc