Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam

A:Phần mở đầu Việc nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin về nền kinh tế thị trường là cần thiết không chỉ đối với người nghiên cứu khoa học kinh tế, đối với cán bộ quản lý kinh doanh, với những người có nhiệm vụ hoạch định đường nối phát triển kinh tế của đất nước, mà nó rất cần thiết đối với mỗi con người, mỗi gia đình trong xã hội. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là một nội dung hết sức to lớn và rất quan trọng trong học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin. Tr

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong điếu văn đọc trước mộ Mác -ăng ghen đã khẳng định, cùng với lý luận về giá trị phạm dư, học thuyết hình thái kinh tế xã hội, thì lý thuyết về nền kinh tế thị trường là một phát kiến vĩ đại của Mác mà sau này đã được Lênin phát triển toàn thiện, nó là hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, lý thuyết này vẫn ngời sáng, cho đến ngày hôm nay và mai sau. Trong bối cảnh đầy biến động của thị trường thế giới nói chung cũng như thị trường Việt Nam nói riêng. Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Để có cơ sở hiểu hơn lý thuyết của Mác Lênin, có cơ sở cho thống nhất cao hơn đướng lối của Đảng ta, vấn đề nghiên cứu, nắm vững lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác Lênin là hết sức cần thiết. Em chọn đề tài: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với đề tài này, bước đầu nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết nền kinh tế thị trường qua đó làm rõ hơn xây dựng thêm lòng tin về đường lối mới của Đảng ta. B. Phần nội dung I: Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường. 1: Quá trình chuyển hoá từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá a.Những khái quát chung về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử nến kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hóa là hai hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đã tồn tại từ lâu. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Với nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Từ sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật nhất của nền kinh tế tự nhiên.Mục đích là tạo ra giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, chính vì thế nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu. Đó chính là khâu tự nhiên đều mang chung một hình thái hiện vật. Những ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá so với kinh tế tự nhiên. trong nền kinh tế hàng hoá do sự phát triển của phân công lao động thị trường thì ngày càng được mở rộng. Chính điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy việc cải tiến công cụ lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật, học hỏi, áp dụng kết quả khoa học kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất; Thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất không phải là để tiêu dùng cho chính bản thân người sản xuất mà là để thoả mãn nhu cầu cang tăng của thị trường đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá thì người tiêu dùng được coi là thượng đế được quyền tự do lựa chon hàng hoá phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán và thị hiếu của mình trên cơ sở là chất lượng và giá cả của hàng hoá, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao thì kích thích sản xuất phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. - Kinh tế hàng hoá cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh tranh đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm tới tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm… Mục đích thu lợi nhuận đươc nhiều hơn. Cũng chính từ cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận sẽ làm cho lực lượng sản xuất có những bước tiến bộ lâu dài và vững chắc trong quá trình sản xuất . - Cũng trong nền kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển. Quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng, cho lên sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, việc giao lưu văn hoá, kinh rế giữa các vùng, các địa phương, các đơn vị kinh tế và các quốc gia ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần và văn hoă của nhân dân ngày được một nâng cao. b. Những nền đề tạo cơ sở cho quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên lên nền kinh rế hàng hoá. Qua những ưu điềm của nền kinh tế hàng hoá ta thấy sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ là xuất hiện đến tiền đề của kinh tế hàng hóa. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá- tiền đề tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước một nhảy vọt của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: + Phân công lao động xã hội. + Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất. + Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền đề. + Hệ thống thông tin và giao thông vận tải. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho lên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành nghề nhất định. Những nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau cho cuộc sống. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải nương tựa vào nhau, trao đổi và quan hệ với nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nha Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất., cho lên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn, họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Để giải quyết những mâu thuẫn này buộc phải trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá. Sản xuất hàng hoá gia đời khi trao đổi trở thành tập quán và là mục đích của sản xuất. Như ta thấy phân công lao động xã hội phát triển từng nào thì quan hệ chao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phong phú, phức tạp hơn nhiều. Phân công lao động xã hội phát triển cũng hấp dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Đôi khi thương nghiệp ra đời thì phân công lao động xã hội và quan hệ trao đổi có sắc thái mới, cũng chính nhờ thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Đó là nguyên nhân của sự mở rộng quan hệ trao đổi giữa các vùng, đồng thời liện kết với người sản xuất lại với nhau, tập chung họ chạy theo sự phát triển nhanh chóng của kinh tế hàng hoá. Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải, cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũng phải mở rộng và phát triển. Đây chính là cơ sở vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. 2.Những bước chuyển biến từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. a.Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá.Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá ở trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Khi kinh tế hàng hóa phát triển điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sức chứa của thị trường và cơ cấu của thị trường đươc mở rộng và ngày càng hoàn hảo hơn. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá, đến khi đó thì kinh tế hàng hoá mới được coi là kinh tế thị trường. b.kinh tế thị trường là hình thành trên những điều kiện sau. Kinh tế thị trường hình thành và phát triền được là nhờ vào những điều kiện cơ bản sau đây : Sự suất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động.Chúng ta phải khẳng định rằng sự suất hiện của hàng hoá sức lao động là một sự tiến bộ lịch sử. Con người lao động được tự do, người lao động có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là một chủ thể bình đẳng trong các mối quan hệ làm ăn, sản xuất với người khác. Sự hoạt động của quy luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, sự phân hoá này diễn ra chậm chạp, cho lên cần phải có sự can thiệp bạo lực của nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra nhanh hơn. Cũng chính là từ sự phân hoá giàu nghèo tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hoá lao động và thị trường sức lao động. Nhờ sự suất hiện của hàng hoá lao động và thị trường sức lao động và tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế xã hội. Cùng với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Khi có kinh tế thị trường ra đời. Phải tích luỹ một số tiền nhất định và số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vấn đề tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Khi có lợi nhuận thì mới kích thích sự sản xuất phát triển, nó mới trở thành động lực thực sự. Như ta đã bắt kinh tế thị trường là kinh tế của tiền tệ, cho lên vai trò của đồng tiền vô cùng quan trọng. Nhưng để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thêt có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính tín dụng cần ngân hàng còn quá yếu ớt và đơn giản, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mà đảm bảo được lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi rễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, riêng đối với nước ta là điều kiện có tính quyết định để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhờ có ngân hàng và hàng hệ thống pháp luật đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. đồng thời Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tích cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điêù tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm giải quyết hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với sự tác động của những tiêu đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hôị hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Chính vì vậy mà những quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. 3. Những đặc điểm trưng chung của kinh tế thị trường có sự quản lý của nha nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội, quá trình đó phù hợp với su thế của thời đại và su thế của nhân dân ta. Trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đòi hỏi những đặc điểm của mô hình kinh tế hướng tới. Đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn , mô hình kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà liên bang Đức, kinh tế thị trường sang màu sắc Trung Quốc… Khi xét đều kinh tế thị trường, nền kinh tế thị trường các nước đang và đã trải qua đều mang những đặc trưng sau đây: Một là. Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình, các chủ thể được tự do liên kết liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là một đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động. Hai là: trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn cả kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. Ba là: giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện thành tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua với giá thấp, đối với người bán luôn bán với giá cao, ngườimua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn danh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người bán, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Bốn là: cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tông tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đèu phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nhằm thu lợi nhuận sưu nghạch. Trong nên kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh mọt khía cạnh của mô hình kinh tế thị trường. II. thị trường và cơ chế thị trường 1.Thị trường và cạnh tranh thị trường a.Thị trường : Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó mà có nhiều cách thức định nghĩa về thị trường. Theo nghĩa ban đầu thì thị trường gắn liền với một địa điểm nhát định. Nó là nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thê là hội chợ các địa dư hoặc các khu tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú; thị trường được mở rộng. Nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh vực trao đổu hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Khi nói tới thị trường chúng ra phải nói tới các yếu tố cấu thành thị trường đó là hàng và tiền (H và T) người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua bán, cung cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. Nhưng trong thực tế thì có nhiều thuật ngữ để biểu hiện khái niệm thị trường như: thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động… Ngoài ra mỗi loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: như thị trường gạo, thị trường muối, thị trường lãi… Sở dĩ như vậy là vì trao đổi trở nên thường xuyên, phạm vi và quy mô ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá đều phải thông qua trao đổi mới đên được tiêu dùng. Có trao đổi, có cung, cầu là có thị trường. Mỗi loại hàng hoá hoặc dịch vụ đều có một thị trường tương ứng. ở mỗi thị trường này người ta có thể đưa ra các số liệu thống kê về tổng cung, tổng cầu và giá cả thị trường. Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta đã phân chia thị trường thành: thị trường vật tư cung ứng kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Chúng ta có thể sơ lược về cách phân chia thị trường như sau: - Thị trường thứ nhất là thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ: ở thị trường này người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình… Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng chiều theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá. Ngoài ra những hàng hoá hữu hình còn có những hàng hoá vô hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường này được gọi là thị trường đầu ra. - Thị trường thứ hai là thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động… Thị trường này được gọi là thị trường đầu vào. Để phân chia được như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá phát triển và mở rộng đến đâu thì thị trường phát triển và mở rộng đến đó. Khi nói đến thị trường thì chúng ta phải nói đến vai trò của nó. Như phần trên đã nghiên cứu thì kthh gắn liền với thị trường, sản xuất cho thị trường, tiêu dùng phải thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm cua quá trình tái sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tỉ lệ nhất định. Quan hệ tỉ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất. Nếu kỹ thuật tiến bộ thì một lượng sực lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Để sản xuất cần có các yếu tố sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp các yếu tố đó đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán. thị trường lại là nơi tiêu thụ các hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn. b. Sự cạnh tranh trên thị trường Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa những ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: Cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, người bán với những người bán, người mua với những người mua. Hình thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận. Sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của nên kinh tế thị trường. Nó đòi hỏi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng thắng lợi trên thị trường. Đối với nước ta việc cạnh tranh trên thị trường là hết sức quan trọng, có cạnh tranh thị trường mới làm cho quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển nhành chóng đẩy lùi những nhược điểm, cái lạc hậu cổ hủ trong nền sản xuất kinh tế. Nhờ cạnh tranh thị trường mà chất lượng, số lượng hàng hoá được nâng cao rõ rệt, trình độ kỹ thuật phát triển cao, nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhưng trong cơ chế thị trường phải có sự quản lý vĩ mô của ngân hàng mới làm cho cạnh tranh mang tính lành mạnh, giữ được bản sắc văn hoá dân tộc ta. 2. Cơ chế thị trường Khái niệm về cơ chế thị trường Khi nói đến cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là một khái niệm rộng sau đây là một số khái niệm về cơ chế thị trường dựa trên kinh tế chính trị học Mác- Lênin “Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật phân phối sự vận động của thị trường” (Kinh tế chính trị học. NXB sự thật, Hà Nội 1993, trang 65). “Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua thị trường để xác định vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? “ (lý luận hiện đại về kinh tế thị trường . NXB Hà Nội 1992 trang 28 ). Cũng có thể khái quát cơ chế thị trường là chính “bộ máy ” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn phải chịu tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện. cung cầu trong cơ chế thị trường : Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường còn nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng hoá, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống. Nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu thị trường của loại hàng hoá này tăng lên, đồng thời giá cả giảm xuống. Ngược lại, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu gía cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống. Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là những biểu hiện của những người bán và những người mua cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường người bán hàng hoá của mình với giá cao, còn người mua thì lại luôn luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Cũng thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế , Nếu giá cả của hàng hoá trong một ngành kinh tế nào đó tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút lao động xã hội. làm cho quy mô sản xuất của ngành này tăng lên. Ngược lại, nếu giá cả của hàng hoá có xu hướng tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy những người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cả cao, mở rộng quy mô sản xuất có su hướng ngược lại, nghĩa là giá cả giảm xuống sẽ làm cho quy mô thu hẹp lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mac, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không ” . C. giá cả trong cơ chế thị trường: Thông qua giá cả sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết lưu thông hàng hoá, nghĩa là chi phối luồng vận động của hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ những thị trường có giá thấp đến thị trương có giá cao. Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của quy luật giá trị mà trái lại nó sẽ là vẻ đẹp riêng biệt của quy luật giá trị: là cơ chế`hoạt động của quy luật giá trị. Nếu giá cả của hàng hoá luôn ngang bằng với giá trị của nó thì không có sự hoạt động của quy luật giá trị, nó khác đi điều đó cũng có nghĩa là phủ định của quy luật giá trị. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh, vì giá trị hàng hóa chuyển giá thành giá cả sản xuất, (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân) cho lên hoạt động của quy luật giá trị trong giai đoạn này có thể biểu hiện : giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả sản xuất. Còn đối với giai đoạn độc quyền, sự hoạt động của quy lật giá trị có biểu hiện mới gía cả thị trường lên xuống xung quanh giá cả độc quyền.Gới hạn thấp nhất của giá trị thị trường là chi phí sản xuất (C+V)giá cả phải bù đắp được chi phí sản xuất. Giới hạn trên của giá cả tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thị trường. Người bán phải biét bán giá cao, nhưng giá cao quá sẽ có lợi cho đối thủ cạnh tranh vì người mua luôn muốn mua với giá thấp. Giá bán cao quá sẽ mất khách hàng, hàng hoá khó tiêu thụ, bước chuyển hoá thành tiền không thực hiện được. Vì vậy giới hạn trên của gía cả chính là nhu cầu có khả năng thanh toán của người mua. Qua đó ta có rhể sơ lược về chức năng của giá cả thị trường như sau: - Chức năng thông tin: Giá cả là phương tiện phát tín hiệu thông qua đó các doanh nghiệp biết được mình cần phải sản xuất những loại mặt hàng hoá gì để thu được lợi nhuận cao, giá cả thấp sẽ không hấp dẫn các nhà kinh doanh. - Giá cả làm cân bằng cung cầu nếu các nguồn lực được sử dụng hợp lý. - Giá cả làm chức năng phân phối và phân phối lại của các tầng lớp dân cư trong xã hội. - Giá cả là phương tiện nối liền hàng hoá với tiền tệ, người sản xuất với người tiêu dùng. Nói tới cơ chế thị trường theo những quy luật nội tại của nó. Quy luật nội tại, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa hoặc thiếu đều dẫn tới tác động tiêu cực. Nếu thiếu tiền, hàng hoá không lưu thông được. Nếu thừa tiền sẽ gây lên tình trạn lạm phát, giá cả hàng hoá tăng vọt. Thị trường bất ổn định. Vậy chúng ta có thể nói sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân sâu sa trên lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy mà cơ chế thị trường được phát hiện sớm. Cơ chế thị trường được coi là “bàn tay vô hình “ điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 3. Những ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường và sự cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước. Những ưu điểm của cơ chế thị trường. - Khi cơ chế thị trường phát triển thì kích thích mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động: Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng xuất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ta sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hoải phải năng động thường xuyên. - Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. những nhược điểm của cơ chế thị trường. Ngoài những ưu điểm của nó chế tf thì nó cũng không ít những nhược điểm hạn chế như sau: Trước hết phải nói tới những bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: Khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo và gây ô nhiễm môi trường sống nghiêm trọng. Khủng hoảng sản xuất “thừa” là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây do mức cung hàng hóa vượt mức cầu có khả năng thanh toán cho nên dẫn đến tình trạng dư thừa hàng hoá. Nguyên nhân của tình trạng đó là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này được thể hiện ở tính độ cao trong từng doanh nghiêp với tính vô chính phủ trên toàn bộ sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cập vô sản với vô cấp tư sản. - Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động, đây là một căn bệnh lan giải của kinh tế thị trường. - Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hoá giai cấp, do đó nó cũng làm tăng thêm mâu thuẫn giai cấp. Tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số người phát tài giàu có, còn một số người khác bị phá sản trở thành những người làm thuê. Sự đối kháng về kinh tế là cơ sở của đầu tranh giai cấp. - Một khuyết tật của cơ chế thị trường cần thiết phải kể đến là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn, khí thải công nghiệp làm cho nhiệt độ của trái đất ngày càng nóng lên. chỉ do chạy theo lợi nhuận trước mắt là không tính toán đến điểm hoạ đang đe doạ toàn nhân loại. Tóm lại, cơ chế thị trường tác động điều tiết xản xuất và lưu thông hàng hoá. Chi phối sự vận động của cơ chế thị trường, những sự điều tiết đó mang tính chất mù quáng, hơn nữa các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình. Cho lên sự vận động của cơ chế thị trường tất nhiên rẫn tới những mâu thuẫn và xung đột có ngươì giàu lên lại có người nghèo đi. Cạnh tranh khó tránh khỏi sự lừa gạt, phá sản và thất nghiệp… Thị trường tất cả đã gây lên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là lý do cần thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự quản lý của nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho lền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao. III: kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận động của nó ở việt nam. 1. bản chất sản xuất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29342.doc
Tài liệu liên quan