DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ
Nghĩa
NSNN
Ngân sách Nhà nước
CSVC
Cơ sở vật chất
BHYT
Bảo hiểm y tế
BHXH
Bảo hiểm xã hội
HCSN
Hành chính sự nghiệp
MTEF
Khuôn khổ chi tiêu trung hạn
NCKH
Nghiên cứu khoa học
SGK
Sách giáo khoa
TCC
Tài chính công
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TW
Trung Ương
UBND
Ủy ban nhân dân
XHH
Xã hội hóa
XDCB
Xây dựng cơ bản
LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” v
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho ngành giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à đến năm 2020 “ Cơ bản trở thành một nước công nghệ hiện đại”, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và “Muốn tiến hành CNH-HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục- đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đầu tư cho giáo dục và đào tạo trong những năm qua không ngừng tăng lên đã giúp cho giáo dục đào tạo đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, đầu tư tăng nhưng việc thực thi chưa hiệu quả, công tác quản lý chưa chặt chẽ, hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu, phương pháp giáo dục còn lạc hậu do chậm đổi mới, đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu, trình độ chuyên môn chưa đồng bộ, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và lạc hậu,….
Từ thực tiễn ấy thi bên cạnh nỗ lực tăng đầu tư NSNN cho giáo dục và đào tạo, việc không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo là hết sức quan trọng.
Chuyên đề “Cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho nghành giáo dục và đào tạo cảu Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” phân tích cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tại Việt Nam hiện nay, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế đồng thời cũng đưa ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó, chuyên đề đã chỉ ra sự cần thiết cũng như đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục.
Chuyên đề được trình bày thành 3 chương.
Chương 1: Giáo dục đào tạo và cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo tại Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo.
CHƯƠNG I
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN
CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1 VAI TRÒ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong nền KTQD
Giáo dục được quan niệm như một hoạt động đặc thù riêng có ở xã hội loài người với mục đích rõ ràng là duy trì phát triển xã hội loài người như một thực thể có tổ chức- dù chưa còn hoàn thiện như ngày nay.Thực chất đó là quá trình hình thành và nâng cao phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, khả năng học tập nhận thức của con người qua học tập.
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cũng phải xây dựng và phát triển con người, đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá, khi kinh tế tri thức đang trở thành một xu thế thời đại.Chất lượng cuộc sống được đánh giá qua các tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khoẻ và dinh dưỡng, mức nghèo khổ,…Vì vậy giáo dục là một trong những mục đích phát triển kinh tế.
Giáo dục được xem là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia.Nghị quyết trung ương 4 khoá VII nêu rõ: “cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT là quốc sách hàng đầu “ và báo cáo Chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định : “Phát triển giáo dục- đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.Giáo dục là tiên đề, là yếu tố hàng đầu thuộc năng lực nội sinh, có tầm quan trọng hơn so với các hệ thống yếu tố khác như tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.Giáo dục là nền tảng phát triển khoa học công nghệ. Có kiến thức mới làm chủ được công nghệ và làm chủ được chính mình không phải phụ thuộc vào bên ngoài. Nâng cao chất lượng giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu nhằm tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ xây dựng chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục.
Giáo dục đào tạo có 3 chức năng chính:
- Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để tích luỹ vốn nhân lực- nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đào tạo nên một lớp người mới có năng lực cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cụ thể. Đối với sự phát triển nền kinh tế thì đây là lực lượng quan trọng vào bậc nhất. Thứ hai, giáo dục có vai trò quyết định đến phát triển và làm chủ KHCN hiện đaih – nhân tố bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Giáo dục đào tạo có chức năng truyền bá kiến thức khoa học cho những người có năng lực học tập và vận dụng vào thực tế. Không những đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học thông qua hệ thống NCKH của các trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng phát triển của mọi thời đại. Sự phát triển của giáo dục về cả quy mô, cả chất lượng với một cơ cấu hợp lý về vùng miền, trình độ, nghành nghề đào tạo… sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu thế của thời đại, từ đó đảm bảo cho sự tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
- Chức năng chính trị- xã hội: Chính trị là lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người mà đặc trưng là các vấn đề liên quan đến quyền lực và lợi ích của con người, cộng đồng giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục đào tạo luôn là công cụ quan trọng của Nhà nước. Xét về bản chất, giáo dục đào tạo thực sự gắn bó với xu hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo dục nước ta hiện nay là nền giáo dục được ra đời và phát triển nhờ một thể chế chính trị cách mạng tiến bộ. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa và độc lập được quán triệt một cách sâu rộng trong toàn bộ hệ thống giáo dục giáo dục Việt Nam.
Như vậy, giáo dục không chỉ tạo ra một lớp người lao động mới cho xã hội mà còn thay đổi bộ mặt chính trị xã hội thông qua mục đích tổ chức của nền giáo dục, các chính sách cho giáo dục thể hiện tính nhân văn, tính đại chúng hay đẳng cấp của giáo dục.
- Chức năng tư tưởng văn hoá: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra con người phát triển về trí tuệ, kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho việc hình thành một hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền tảng của một nền văn hóa mới, nhân sinh quan mới.
Xét về góc độ lịch sử văn hoá chỉ được hình thành thông qua một quá trình sáng tạo lâu dài, xây dựng và truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình này không thể thiếu giáo dục đào tạo, đó chính là truyền lại các giá trị văn hoá. Sự sáng tạo trong quá trình giáo dục đào tạo làm phong phú hơn những giá trị văn hóa vốn có, làm nảy sinh những giá trị văn hoá mới.
1.1.2 Hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm Giáo chính quy và Giáo dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo
Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Giáo dục dạy nghề có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học, trình độ Thạc sỹ, trình độ Tiến sỹ.
Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, khối giáo dục bao gồm giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
TIẾN SỸ
THẠC SỸ
ĐẠI HỌC
CAO ĐẲNG
TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
DẠY NGHỀ
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THCS
TIỂU HỌC
MẪU GIÁO
NHÀ TRẺ
1.2 VAI TRÒ CỦA NSNN VỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.2.1 Khái niệm bản chất của NSNN
1.2.1.1 Khái niệm
NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” ( Theo Luật NSNN )
1.2.1.2 Bản chất
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền mặt của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác:
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với hộ gia đình
+ Quan hệ kinh tế với cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
-Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong xã hội cho Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên trong xã hội.
1.2.2 Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo
Phát triển GD- ĐT là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang bước sang thời đại mới- thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trở thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non , giáo dục phổ thông, đáo tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học cho đến đào tạo sau đai học. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ ngân sách Nhà nước là tất yếu đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giao dục. Sở dĩ NSNN đong vai trò chỉ đạo là vì:
- Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. Trong các nhu cầu tiêu dùng xã hội mà NSNN đảm bảo thì theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước thì nhu cầu cho giáo dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ hàng hoá công cộng tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò đến sự phát triển nguồn nhân lực- nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để phát triển hệ thống giáo dục, nâng cao mang lưới các cơ sở giáo dục, điều chỉnh quy mô, cơ cấu và nâng cao chất lượng hiệu quả của giáo dục. Do đó nguồn tài chính từ NSNN la nguồn cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là hàng hoá công cộng, tạo ra ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, đóng góp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phuơng châm “ Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”, đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và cho vay của nước ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo . Lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến những tác động này trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không. Nếu như trong trường hợp họ có biết tác động tích cực của giáo dục song thiếu sự khuyến khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu không có sự đầu tư của NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của các tổ chức cá nhân trong xã hội cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có.
- Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời sống của cán bộ công nhân viên làm trong nghành giáo dục. NSNN ngoài chi trả tiền lương chính cho đội ngũ giáo viên giảng dạy còn dành một phần để ưu đãi riêng cho nghành giáo dục như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm , phụ cấp dạy thêm giờ,…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn nghành. Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chốn mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất cá trường học,…
- Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, tiếp thu kiến thức, từ đó mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến công bằng xã hội nói chung.
- Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn. Trên thực tế, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Vì hầu như không có cơ sở nào cho việc xác định khả năng chắc chắn để hoàn trả lại các khoản vay cho việc học tập của các cá nhân sau khi đã kết thúc khoá học. Do vậy, các chủ thể cho vay không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để đầu tư vào giáo dục. Để khắc phục khiếm khuyết này cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
Nhìn chung trên thực tế tại Việt Nam hiện nay nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục chủ yếu từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò quan trọng, là yếu tố chính quyết định tới sự nghiệp giáo dục đào tạo.
1.2.3 Cơ chế chi tiêu NSNN cho giáo dục đào tạo
Hiện nay, theo Luật NSNN, nội dung chi tiêu NSNN được phân theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng. Theo tính chất kinh tế, chi NSNN cho giáo dục đào tạo được phân chia theo các nội dung:
- Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi lương và các khoản củng cố CSVC, thiết bị trường lớp…Kế hoạch chi thường xuyên được lập chủ yếu dựa trên định mức phân bổ và kế hoạch chi thường xuyên của năm trước.
- Chi đầu tư bao gồm các khoản chi xây dựng CSVC, củng cố và phát triển mạng lưới trường lớp cho sự phát triển của nền giáo dục. Chi đầu tư đóng vai trò quan trọng trong phát triển giáo dục. Chi đầu tư phát triển cho giáo dục từ NSNN bao gồm: chi xây mới, cải tạo,nâng cấp trường học, phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, thư viện, công sở làm việc và mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy học tập và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đào tạo.
- Chi NSNN cho CTMT cho quốc gia về giáo dục nhằm thực hiện những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách trong phát triển nền giáo dục quốc dân ở từng thời kỳ. CTMT quốc gia về giáo dục thường được thực hiện bao gồm: Phổ cập giáo dục, xoá mù chữ, hỗ trợ giáo dục cho những vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như: Vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường CSVC như xoá phòng học cấp 4, phòng học ca 3, tăng cường chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, giáo viên; đổi mới chương trình, nội dung SGK…
1.3 CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.
1.3.1 Khái niệm cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo
Quản lý NSNN là việc sử dụng NSNN làm công cụ quản lý hệ thống xã hội thông qua việc sử dụng những chức năng vốn có của nó. Quản lý NSNN là việc làm cần thiết gắn với việc chi NSNN nhằm tạo ra những khoản chi đúng mục đích và đạt hiệu quả cao.
Cơ chế quản lý NSNN là hệ thống các nguyên tắc, các hình thức và phương pháp quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Cơ chế quản lý NSNN bao gồm các cơ chế thu, chi ngân sách, cân đối ngân sách, cấp phát ngân sách. Yêu cầu của cơ chế quản lý NSNN trong nền kinh tế thị trường là ưu tiên sử dụng NSNN để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà Nước, những công việc mà thị trường không thể thực hiện hoặc không thể giao cho thị trường thực hiện.
1.3.2 Nội dung cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.
1.3.2.1 Cơ chế phân cấp ngân sách.
Trong cơ chế quản lý NSNN, cơ chế phân cấp ngân sách có vị trí rất quan trọng, thể hiện mối quan hệ phân cấp, phân quyền, phối hợp hoạt động giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều hành ngân sách. Yêu cầu đối với cơ quan Trung ương phải giữ vai trò chủ đạo tập trung các nguồn thu có tính chất quốc gia và giải quyết các nhu cầu chi tiêu có tính chất trọng điểm trên phạm vi cả nước. Ngân sách địa phương phải được phân cấp một số nguồn thu và nhiệm vụ chi nhất định để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương trên địa bàn. Mối quan hệ giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương phải được giải quyết hài hòa thông qua cơ chế điều tiết và trợ cấp ngân sách giữa TW và địa phương. Việc địa phương quản lý ngân sách có thể giúp huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn và làm cho cung cấp dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Tuy nhiên nếu phân cấp không tốt dẫn đến tình trạng chồng chéo,làm suy yếu sự điều phối TW và địa phương.
Việt Nam có bốn cấp chính quyền. Ở cấp TW, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, cơ quan có trách nhiệm quyết định ngân sách Nhà nước. NSNN gồm không chỉ ngân sách của chính quyền Trung ương mà còn có cả ngân sách tổng hợp của các cấp tỉnh- huyện- xã. Cơ cấu của ngân sách mang tính thứ bậc: Ngân sách mỗi cấp không chỉ được HĐND cấp đó quyết định mà còn phải được chính quyền cấp trên phê chuẩn. Chính quyền ở mọi cấp hoạt động theo một hệ thống song trùng lãnh đạo và chịu trách nhiệm giải trình. Từng cấp ngân sách phải chịu trách nhiệm lập dự toán ngân sách hàng năm ( bao gồm các khoản thu, chi trên phạm vi địa bàn mình quản lý), chịu trách nhiệm hướng dẫn, giám sát việc thực hiện ngân sách cấp dưới. Cấp huyện tổn hợp dự toán ngân sách cấp xã, báo cáo lên tỉnh. Tỉnh tổng hợp dự toán ngân sách các huyện báo cáo lên Bộ tài chính.
Mục đích của phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền là nhằm giảm bớt sự ỷ lại của cơ quan cấp dưới, đồng thời xoa bớt sự bao biện, làm thay đổi của chính quyền cấp trên. Nhờ đó mà sự phân định trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý NSNN một cách rõ ràng hơn và tọa ra cac điều kiện cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả quản lý ở lĩnh vực này.
1.3.2.2 Cơ chế lấp dự toán và phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo
* Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN
Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo:
Đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ công tác được giao trong năm kế hoạch.
Luật NSNN và thông tư ngân sách hàng năm của Bộ tài chính.
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển nghành giáo dục, thông tư hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo.
Kế hoạch phân bổ ngân sách năm trước.
Những nhiệm vụ cụ thể của nghành giáo dục và đào tạo.
Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục đào tạo.
Các quy định về phân cấp quản lý ngân sách trong nghành giáo dục.
* Công tác lập dự toán và phân bổ NSNN:
Trình tự lập dự toán ngân sách và phân bổ NSNN hằng năm được thực hiện như sau:
Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán NSNN năm sau.
Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trước ngày 10 tháng 6, Bộ tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn nộp dự toán NSNN và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách với tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương và tổng số thu, chi, một số lĩnh vực chi quan trọng đối với từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư và yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, địa phương, Bộ giáo dục và đào tạo, các Bộ, các cơ quan liên quan thuôc Chính phủ thông báo số kiểm tra về dự toán NSNN cho các đơn vị trực thuộc; UBND cấp tỉnh tổ chức hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp huyện; UBND cấp huyện thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã.
Các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp ( Trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I.
Bộ tài chính chủ trì phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư tổng hợp, lập dự toán NSNN trình Chính phủ. Trong quá trình làm việc, lập dự toán NSNN, xây dựng phương án phân bổ ngân sách TW, nếu có ý kiến khác nhau giữa Bộ tài chính với Bộ giáo dục đào tạo, các Bộ và cơ quan liên quan thuộc Chính phủ thì Bộ tài chính phải trình Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ những ý kiến còn khác nhau để quyết định theo thẩm quyền. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong quá trình lập dự toán ngân sách, xây dựng phương án phân bổ ngân sách địa phương.
Chính phủ trình Quốc hội dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách TW hàng năm; dự toán điều chỉnh NSNN trong trường hợp cần thiết. Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ Ngân sách TW năm sau trước ngày 15 tháng 11 năm trước.
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN, phân bổ ngấn sách TW, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi cho từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW, nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia và mức bổ sung từ ngân sách TW cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao, UBND các cấp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết đingj và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách năm sau của cấp mình chậm nhất là mười ngày kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách.
viii) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách, các cơ quan Nhà nước ở TW và địa phương, các đơn vị dự toán có trách nhiệm phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, đảm bảo đúng với dự toán ngân sách được giao về cả tổng mức, chi tiết theo từng lĩnh vực chi, đồng thời gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
1.3.2.3 Cơ chế cấp phát và chấp hành chi NSNN
Căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi Kho bạc Nhà nước. Kho bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện: đã có trong dự toán ngân sách được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Thủ trưởng cơ quan Kho bạc Nhà nước có quyền từ chối thaqnh toán, chi trả các khoản chi không đủ các điều kiện quy định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Ở cấp địa phương, cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí nguồn để thực hiện kịp thời các khoản chi theo dự toán, kiểm tra việc thực hiện chi tiêu và có quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc chi sai chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, có quyền yêu cầu cơ quan giao dự toán điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán chi của đơn vị trực thuộc để đảm bảo thực hiện ngân sách theo đúng mục tiêu, tiến độ quy định. Cơ quan tài chính cùng cấp có quyền tạm đình chỉ chi ngân sách của các đơn vị, cá nhân không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, quyết toán và báo cáo tài chính khác và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều trong năm để chi. Các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm lớn được bố trí trong dự toán chi quý để thực hiện.
Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo cung cấp đủ và đúng tiến độ thực hiện trong phạm vi dự toán được giao.
Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước dự toán để thực hiện.
Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm đề ra những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ chi ngân sách được giao, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham ô, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính.
Trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước theo đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức và dự toán được giao do thủ tướng cơ quan sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm.
Ngoài các cơ quan tài chính, trong Luật NSNN cũng quy định nhiều cơ quan khác có trách nhiệm giám sát việc thực hiện NSNN như:
Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với Bộ tài chính và các Bộ, nghành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình công cộng xây dựng cơ bản.
Ở cấp địa phương, HĐND giám sất việc thực hiện ngân sách ở cấp mình.
Chính phủ kiểm tra việc thực hiện NSNN. ĐỊnh kỳ, Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, UBND báo cáo Thường cụ HĐND về tình hình thực hiện NSNN, các dự án và các công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tê- xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác.
1.3.2.4 Kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN
* Các nguyên tắc phải đảm bảo khi thực hiện nguyên tắc quyết toán ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách.
- Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo cáo đó cho cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ đã quy định.
- Về số liệu quyết toán NSNN:
+ Số quyết toán thu NSNN là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch toán thu qua NSNN qua Kho bạc Nhà nước.
+ Số quyết toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán hoặc đã hạch toán chi theo quy định của Luật NSNN và các khoản chi chuyển nguồn sang năm sau để chi tiếp theo quy định.
Số liệu trong báo cáo quyết toán Ngân sách phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng các nội dung trong dự toán được giao và theo mục lục NSNN, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước phai chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đây đủ của báo cáo quyết toán của đơn vị, chịu trách nhiệm về những khoản thu, chi hạch toán, quyết toán sai chế độ.
* Trình tự công tác kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN.
i) Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ chi NSNN phải tổ chức hạch toán kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ của Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN, định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán chi ngân sách cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan Nhà nước hữu quan.
ii) Cuối năm ngân sách, Bộ trưởng Bộ tài chính hướng dẫn việc khóa sổ kế toán và lập báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng các nội dung ghi trong dự toán năm được giao và theo Mục lục NSNN.
Các khoản chi NSNN đến ngày 31 tháng 12 chưa thực hiện được hoặc chưa chi hết, nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp tục thực hiện trong năm sau thì được chi tiếp trong thời gian chỉnh lý quyết toán và hạch toán quyết toán vào chi ngân sách năm trước, nếu được chuyển nguồn để thực hiện thì hạch toán vào ngân sách năm sau.
iii) Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ tài chính, Thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ chi Ngân sách kiểm tra và duyệt quyết toán chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm về quyết toán đã được duyệt. Lập quyết toán chi Ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Đối với các dự án đầu tư xây dựn cơ bản, khi kết thúc năm ngân sách, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn ngân sách trong năm, khi dự án hoàn thành phải lập báo cáo quyết toán công trình theo quy định của pháp luật.
Số liệu quyết toán phải được đối chiếu và được Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch xác nhận.
iv) Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương thẩm định quyết toán chi Ngân sách của các đơn vị cùng cấp và quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp, lập quyết toán ngân sách địa phương trình UBND cung cấp để UBND xem xét trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, báo cáo cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
v) Bộ tài chính thẩm định quyết toán chi ngân sách của Bộ giáo dục và các cơ quan liên quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW và quyết toán ngân sách địa phương, tổng hợp, lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
vi) Cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSNN các cấp, cơ quan, đơn vị có liên quan theo quy định của pháp luật.
vii) HĐND cấp tỉnh phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương chậm nhất 12 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc, HĐND cấp tỉnh quy định thời hạn phê chuẩn quyết toán ngân sách của HĐND cấp dưới nhưng chậm nhất không quá 6 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc.
viii) Chính phủ phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương, lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN, quyết toán các dự án và công trình quan trọng Quốc gia do Quốc hội quyết định.
ix) Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN ._.chậm nhất 18 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TẠI VIỆT NAM
1.1 KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC.
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển kinh tế- xã hội, giáo dục đào tạo Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt: Nâng cao dân trí, mở rộng quy mô, tăng cường CSVC nhà trường, xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên,…Về cơ bản xoá được xã trắng về giáo dục mầm non, hoàn thành và tiếp tục củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo chuẩn quốc gia, một số tỉnh thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông.Giáo dục vùng sâu vùng xa có tiến bộ rõ rệt, mạng lưới giáo dục được mở rộng, con em các dân tộc về cơ bản được học tập ngay tại thôn bản. Chất lượng giáo dục đã được nâng cao.
Về mạng lưới giáo dục: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục thống nhất, khá hoàn chỉnh, phủ kín tới các xã, phường, thị trấn trong cả nước bao gồm đủ các bậc học từ mầm non đến sau đại học, đa dạng về các loại hình trường lớp (công lập, bán công, dân lập, tư thục ) và về phương thức giáo dục ( chính quy và không chính quy). Năm học 2006-2007, cả nước đã có khoảng 22 triệu người chiếm tỷ trọng 26,19% dân số theo học trong 39.695 trường và cơ sở giáo dục.
Bảng 2.1: Số lượng trường học từ mầm non đến đại học giai đoạn
2002-2007
Cấp học
Năm học
2002-2003
2003-2004
2004-2005
2005-2006
2006-2007
Mầm non
9.715
10.104
10.453
11.009
11.509
Tiểu học
14.163
14.346
14.518
14.688
14.839
THCS
9.593
9.873
10.081
10.275
10.401
THPT
2.055
2.140
2.224
2.268
2.355
TCCN
268
286
285
284
269
Cao đẳng
121
127
137
154
183
Đại học
81
87
93
123
139
Nguồn: Thống kê giáo dục và đào tạo, Bộ giáo dục và đào tạo.
Năm học 2006-2007, số lượng trường học mầm non, phổ thông đều tăng so với năm học trước. Theo số liệu thống kê, cả nước có 39.220 trường học mầm non và phổ thông( tăng 980 so với năm học 2005-2006 và tăng 3.345 trường so với năm học 2002-2003 ). TCCN có 269 trường. Năm 2007 một số Bộ, nghành và địa phương đã hoàn chỉnh mạng lưới trường TCCN trên từng vùng, miền cụ thể theo hướng đa dạng hoá các lạo hình, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của nghành, địa phương.
Mạng lưới các trường đại học và cao đẳng tiếp tục được củng cố mở rộng theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Năm học 2006-2007, cả nước đã có 183 trường cao đẳng (tăng 29 trường so với năm học 2005-2006 và tăng 62 trường, tức tăng 51,2% so với năm 2002-2003) và 139 trường đại học (tăng 16 trường so với năm 2005-2006 và tăng 58 trường, tức 71,6% so với năm 2002-2003 )
- Quy mô học sinh: Đến năm 2006-2007, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là 21.574.172 trong đó, số trẻ em mầm non là 3.147.252 triệu em. Số học sinh tiểu học là 7.041.312 triệu em, giảm 280.427 học sinh so với năm học 2005-2006. Số học sinh tiểu học giảm là do trong nhiều năm qua, nước ta đã thực hiện tốt công tác DS& KHHGĐ, dẫn đến dân số trong độ tuổi tiểu học giảm xuống đáng kể và công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi được đẩy mạnh trong cả nước. Số học sinh trung học cơ sở là: 6.218.457, giảm 240.061 học sinh so với năm học 2005-2006 do số học sinh lớp 5 giảm trong những năm qua và công tác phổ cập THCS được đẩy mạnh, giảm được số học sinh lưu ban và bỏ học. Số học sinh THPT là 3.111.280 tăng 134.408 học sinh so với năm trước. Số học sinh TCCN là 515.670 tăng 11.418 so với năm trước. Tổng quy mô đại học, cao đẳng là 1.540.201 sinh viên, đạt 183,3 sinh viên trên 1 vạn dân. Như vậy so với năm học 2002-2003 thì số học sinh THPT, số sinh viên cao đẳng và đại học năm học 2006-2007 tăng khá nhanh. Chứng tỏ chất lượng giáo dục và trình độ học vấn của người dân đã có nhiều chuyển biến đáng kể.
- Đội ngũ cán bộ giáo viên: Đến năm 2006-2007, cả nước có 848.659 giáo viên, giảng viên, trong đó: 163.809 Giáo viên mầm non; 344.521 Giáo viên tiểu học, 310.620 giáo viên THCS, 125.460 giáo viên THPT, 14.540 giáo viên TCCN và 53.518 giảng viên đại học cao đẳng. Tỷ lệ cháu/ cô ở nhà trẻ là 12,44 và mẫu giáo là 21,6; Tỷ lệ giáo viên/ lớp tính chung trên cả nước, ở bậc tiểu học là 1,28; THCS là 1,9 và THPT là 1,87 ( Trong năm học trước năm học 2005-2006, các tỷ lệ tương ứng là: 10; 21; 1,28; 1,83; 1,83 )
Bảng 2.2: Quy mô học sinh, sinh viên từ năm 2002-2007
Đơn vị: Số học sinh, sinh viên
Cấp học
Năm học
2002-2003
2003-2004
2004-2005
2005-2006
2006-2007
Mầm non
2.547.430
2.588.837
2.754.094
3.042.662
3.147.252
Tiểu học
8.841.004
8.350.191
7.773.484
7.321.739
7.041.312
THCS
6.497.548
6.612.009
6.670.714
6.458.518
6.218.457
THPT
2.458.446
2.616.207
2.802.101
2.976.872
3.111.280
TCCN
389.326
360.392
466.504
500.252
515.670
Cao đẳng
215.544
232.263
273.463
299.294
367.054
Đại học
805.123
898.767
1.046.291
1.087.813
1.173.147
Nguồn: Thống kê giáo dục đào tạo, Bộ giáo dục đào tạo
- Chất lượng và hiệu quả giáo dục ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo có chuyển biến tích cực.
+ Giáo dục mầm non: Do được chăm lo đầu tư nên cơ sở vật chất trường lớp tốt điều kiện chăm sóc tốt hơn nên thể chất và nhận thức của trẻ cao hơn hẳn so với nhưng trẻ không đến lớp. Tỷ lệ nhập học ngày càng tăng chẳng hạn như năm học 2003-2004 tỷ lệ nhập học của trẻ em trong độ tuổi: dưới 3 tuổi là 15%, trẻ em từ 3 đến 6 tuổi là 62% và trẻ em 5 tuổi là 91,6%
+ Giáo dục phổ thông : Tỷ lệ nhập học, tỷ lệ học sinh khá giỏi và học sinh tốt nghiệp ở các cấp ngày càng tăng. Tỷ lệ học sinh yếu kém, bỏ học, lưu ban ngày càng giảm. Năm học 2003-2004 tỷ lệ nhập học đúng tuổi: tiểu học là 98,1%, THCS là 80,6%, THPT là 38,6%. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học là 3,64% ở cấp tiểu học, 6,56% ở cấp THCS và 8,45% ở THPT.
+ Giáo dục dạy nghề: Tỷ lệ tốt nghiệp năm học 2006-2007 là 163.529 giảm 16.870 tương ứng 10,31% so với năm học 2005-2006.
+ Đào tạo đại học và sau đại học: Số sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng và đại học tăng lên đáng kể trong thời gian qua. Năm học 2002-2003 có 50.197 sinh viên tốt nghiệp cao đẳng và 113.763 sinh viên tốt nghiệp đại học. Và đến năm học 2006-2007 có 71.064 sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, 161.411 sinh viên tốt nghiệp đại học. Qua khảo sát ở nhiều doanh nghiệp, và cơ quan nhìn chung đại bộ phận cán bộ thuộc các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước đều có trình độ từ cao đẳng trở lên và được đánh giá có trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm thuộc lọai khá và tốt.
ĐẦU TƯ NSNN CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
2.2.1 Về tỷ trọng NSNN chi cho giáo dục và đào tạo
Trong chi NSNN nói chung thì chi NSNN cho giáo dục đào tạo được chú trọng ưu tiên hơn so với các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
Giai đoạn 2002-2007, chi NSNN cho giáo dục đào tạo ở nước ta đã không ngừng tăng lên cả về số tuyệt đối, về tỷ trọng chi NSNN và so với GDP. Trong giai đoạn 2002 - 2006, NSNN chi cho GDĐT đã tăng gấp 2,4 lần, từ hơn 22.600 tỷ đồng năm 2002 lên đến gần 55.000 tỷ đồng năm 2006. Tỷ trọng chi NSNN cho GDĐT trong GDP tăng từ 4,2% (năm 2002) lên 5,6% (năm 2006). Theo Thứ trưởng Bộ TC Đỗ Hoàng Anh Tuấn, đây là mức chi cao so với các nước trong khu vực và thế giới dành cho GDĐT. Trong đó, chi thường xuyên cho GD Đại học đã tăng hơn 2,4 lần trong giai đoạn 2002 - 2006. Mức chi NSNN cho giáo dục bình quân một người tăng từ 283.000 đồng năm 2002 lên 784.000 đồng vào năm 2007.
Bảng 2.3: Chi NSNN cho giáo dục đào tạo giai đoạn 2002- 2005
Đơn vị: Tỷ đồng, %
Chỉ tiêu
Năm
2003
2004
2005
2006
2007(ước đạt)
GDP( tỷ đồng )
613.443
710.000
815.000
973.791
1.143.442
Tổng chi NSNN ( Tỷ đồng)
178.541
200.050
229.750
321.377
368.340
Chi NSNN cho GD-ĐT
27.510
32.730
41.630
55.300
66.770
NSNN cho GD- ĐT so với GDP
4,48
4,6
5,11
5,67
5,83
Chi NSNN cho GD- ĐT so với tổng chi NSNN
15,4
16,36
18,11
17,20
18,12
Chi NSNN cho GD-ĐT/ 1 người dân (nghìn đồng )
340
399
489
657
784
Nguồn: Thống kê Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ tài chính
Nhà nước luôn tăng chi NSNN cho giáo dục cả về quy mô và tỷ trọng trong tổng chi NSNN để không ngừng nâng cao công tác giảng dạy đáp ứng nhu cầu dạy va học, thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục. Chi NSNN cho giáo dục và đào tạo không ngừng tăng qua các năm. Năm 2005 là 41.630 tỷ đồng thì đến năm 2006 là 55.300 và đến năm 2007 thì con số đó là 66.770 ( chiếm 20% tổng chi NSNN ) hoàn thành chỉ tiêu này sớm hơn 3 năm so với mục tiêu Quốc hội đề ra.
2.2.2 Cơ cấu chi NSNN cho giáo dục đào tạo
2.2.2.1 Xét theo tính chất kinh tế
Xét theo tính chất kinh tế, chi NSNN cho giáo dục đào tạo gồm chi: Chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển
Bảng 2.4 Chi NSNN cho giáo dục đào tạo xét theo tính chất kinh tế
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Tổng chi NSNN cho GD- ĐT
Chi thường xuyên
Chi đầu tư phát triển
Số chi
Tỷ lệ
Số chi
Tỷ lệ
2003
27.510
24.310
88,36%
3.200
11,63%
2004
32.730
27.830
85%
4.900
14,97%
2005
41.360
35.007
84,6%
6.623
15,36%
2006
55.300
45.595
82,45%
9.705
17,55%
2007
66.770
55.240
82,73%
11.530
17,26%
Nguồn: Thống kê giáo dục và đào tạo, Bộ giáo dục
Chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển của NSNN cho giáo dục và đào tạo đã được ưu tiên hàng đầu trong cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN cho linh vực hạ tầng xã hội và không ngừng tăng lên. Số liệu cho thấy chi đầu tư phát triển của NSNN cho giáo dục và đào tạo có xu hướng tăng nhanh cả về quy mô và tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục đào tạo. Năm 2007, toàn nghành được bố trí 11.530 tỷ đồng chi đầu tư phát triển, tăng 18,8% so với năm 2006.
Chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi mang tính chất đầu tư như mua sắm, xây dựng, sửa chữa trường lớp… Đây là khoản chi nhằm củng cố và phát triển quy mô trường lớp, góp phần quan trọng trong việc phát triển của nghành. Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mạng lưới trường lớp không chỉ được mở rộng về quy mô mà còn được nâng cao về chất lượng. Cơ sở trường lớp khang trang, sạch sẽ và có kiến trúc hiện đại sẽ góp phần không nhỏ trong việc thu hút học sinh đến trường. Để làm được như vậy đòi hỏi phải có các khoản chi đầu tư lớn cho nghành giáo dục trong thời gian tới và phải đảm bảo được tỷ trọng chi hợp lý giữa chi đầu tư và chi thường xuyên trong cơ cấu chi của nghành.
Chi thường xuyên
Các khoản chi thường xuyên là các khoản chi phục vụ cho hoạt động của giáo dục đào tạo như chi lương, phụ cấp, chi cho giảng dạy, học tập, chi hành chính,…
Cùng với sự phát triển của nghành giáo dục, đội ngũ giáo viên cũng ngày một tăng. Hơn thế nữa, lương của giáo viên cũng là vấn rất được Chính phủ quan tâm. Trong những năm qua, lương của công chức nói chung và lương của giáo viên nói riêng liên tục được cải thiện. Việc tăng lương sẽ góp phần tăng thu nhập cho giáo viên và là một yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, với chính ách ưu đãi với giáo viên về tiền lương thì ác khoản chi lương sẽ ngày một tăng và sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổn chi của nghành giáo dục. Năm 2007 chi thường xuyên được bố trí 55.240 tăng 21,15% so với năm 2006. Nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa đủ để tạo ra những thay đổi có tính chất đột phá. Nên đa số ở các tỉnh, cơ cấu chi tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương vẫn chiếm khoảng 85%-90% và chi cho các hoạt độn giảng dạy, học tập, mua sắm, sửa chữa, hành chính quản lý chỉ khoảng 10%-15% chi thường xuyên.
- Chi CTMT Quốc gia:
Kinh phí CTMT Quốc gia giáo dục và đào tạo được Chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính quan tâm bố trí tăng dần hằng năm từ 970 tỷ đồng lên 4.030 tỷ đồng năm 2007 ( tăng 35,7% so với năm 2006). Trong đó, năm 2007, kinh phí CTMT Quốc gia được bố trí theo các dự án như sau:
Duy trì kết quả PCDGTH, thực hiện PCTHCS và hỗ trợ PCTHPT: 170 tỷ đồng.
Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy: 550 tỷ đồng
Đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường: 90 tỷ đồng
Đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường CSVC các trường sư phạm: 540 tỷ đồng
Hỗ trợ GD miền núi, vùng sâu dân tộc ít người và vung có nhiều khó khăn: 400 tỷ đồng
Tăng cường CSVC các trường học: 1.380 tỷ đồng
Tăng cường năng lực đào tạo nghề: 900 tỷ đồng
Bảng 2.5: Chi NSTW cho CTMTQG về giáo dục và đào tạo từ năm 2003-2007
Đơn vị: Tỷ đồng
Số TT
Các Dự án thuộc CTMTQG về GD&ĐT
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Duy trì kết quả PCDGTH, thực hiện PCTHCS và hỗ trợ PCTHPT
40
50
55
150
170
2
Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy
380
520
800
1.120
550
3
Đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường
50
65
75
78
90
4
Đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường CSVC các trường sư phạm
100
100
120
75
540
5
Hỗ trợ GD miền núi, vùng sâu dân tộc ít người và vung có nhiều khó khăn
105
120
150
330
400
6
Tăng cường CSVC các trường học
165
195
230
517
1.380
7
Tăng cường năng lực đào tạo nghề
130
200
340
500
600
Tổng
970
1.250
1.770
2.970
4.030
Nguồn: Bộ Tài chính.
2.2.2.2 Chi NSNN cho giáo dục đào tạo theo phân vùng tự nhiên và dân cư.
Hiện nay định mức phân bổ dự toán NSNN cho giáo dục đào tạo năm 2007 được ban hành trong Quyết định 151/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong thời gian qua, NSNN đã tập trung hỗ trợ cho giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn với các nội dung sau:
-Đầu tư tăng cường CSVC cho các cơ sở giáo dục miền núi, đặc biệt là cho các trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh theo hướng chuẩn hóa về trường lớp.
-Tăng cường thiết bị, đồ dùng học tập đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập của học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.
-Hỗ trợ đầu tư xây dựng trường phổ thông dân tộc bán trú. Hỗ trợ tiền ăn và học phẩm cho học sinh dân tộc thiểu số, giúp học sinh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và THCS.
-Xây dựng và triển khai đề án dayk nghề trong trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh.
-Tăng cường đầu tư CSVC trường lớp vùng núi, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt ưu tiên đầu tư cho những tỉnh mới thành lập, cơ sở giáo dục còn nhiều thiếu thốn.
2.2.2.3 Chi NSNN cho giáo dục và đào tạo sắp xếp theo cấp học, trình độ đào tạo.
Cơ cấu chi ngân sáchc ho các cấp bậc học đã có sự thay đổi theo xu hướng tăng chi cho giáo dục và giảm chi cho đào tạo, thể hiện quan điểm ưu tiên đầu tư cho giáo dục cơ bản và giáo dục ở những vùng khó khăn. Năm 200, cơ cấu chi cho khối giáo dục là75,86% và cho khối đào tạo là 24,14%. Năm 2004, chi NSNN cho khối giáo dục đã tăng lên 79,12% và khối đào tạo giảm xuống còn 20,88% so với tổng chi NSNN cho giáo dục.
Bảng 2.6: Cơ cấu chi NSNN cho giáo dục đào tạo theo cấp học trình độ đào tạo
Đơn vị: %/ Tổng chi NSNN cho giáo dục và đào tạo
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
Chi giáo dục
73,30
75,86
76,01
78,90
79,12
Mầm non
5,40
6,71
6,79
7,20
7,25
Tiểu học
35,27
32,17
31,61
32,20
32,60
THCS
19,38
20,44
21,32
22,00
22,90
THPT
8,33
10,02
10,57
10,20
11,40
Giáo dục khác
4,92
6,52
7,39
7,30
4,97
Chi đào tạo
26,70
24,14
22,32
21,10
20,88
Dạy nghề
3,79
3,06
3,24
3,30
3,34
TCCN
4,80
3,54
2,86
2,50
2,53,9,85
ĐH&CĐ
12,43
9,27
9,71
9,70
9,85
Sau đại học
0,82
0,45
0,46
0,42
0,43
Đào tạo khác
4,86
7,82
6,05
5,18
4,73
Tổng chi
100
100
100
100
100
Nguồn: Thống kê giáo dục- Bộ giáo dục và đào tạo
Tỷ trọng chi NSN cho giáo dục tiểu học có xu hướng giảm do sau khi hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 thi só học sionh tiểu học giảm khoảng nửa triệu học sinh mỗi năm. Tỷ trọng chi NSNN cho THCS và THPT có xu hướng tăng là phù hợp với yêu cầu để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục THCS và THPT.
Tỷ trọng chi NSNn cho dạy nghề có xu hướng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng chi NSNN cho đào tạo đại học và cao đẳng có xu hướng giảm là phù hợp với khả năng huy động cao hơn cho các nguồn tài chính ngoài NSNN để đầu tư cho các bặc học này trong quá trình xã hội hóa giáo dục.
2.2.3 Chi NSNN cho giáo dục đào tạo theo phân cấp ngân sách.
Cơ chế phân cấp quản lý NSNN cho phát triển giáo dục ngày càng tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương.
Ngân sách TW đảm bảo nhiệm vụ chi cho hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề do địa phương quản lý. Việc phân cấp nhiệm vụ chi cho hoạt động giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương do HĐND tỉnh quyết định bảo đảm phù hiựp với phân cấp quản lý giáo dục đào tạo theo quy định của pháp luật, trình độ năng lực quản lý ngân sách của từng cấp và kế hoạch chung của địa phương về phát triển giáo dục và đào tạo.
Thời kỳ ổn định ngân sách 2004-2006, có 31 tỉnh phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách về hoạt động sự nghiệp giáo dục và đào tạo cho cả ba cấp ngân sách địa phương ( tỉnh, huyện, xã), 30 tỉnh phân cấp ngân sách ( tỉnh, huyện) và chỉ có 3 tỉnh thực hiện quản lý ngân sách tỉnh.
Bảng 2.7: Chi NSNN cho giáo dục đào tạo theo phân cấp ngân sách giai đoạn 2000-2004
Đơn vị tính: %/ Tổng chi NSNN
Cấp ngân sách
Năm
2000
2002
2003
2004
NSTW
17,13
14,65
13,76
19,63
NSĐP
82,87
85,35
86,24
80,37
Tổng
100
100
100
100
Nguồn: Bộ Tài chính
2.2.4 Cơ chế NSNN hỗ trợ cho học sinh nghèo
2.2.4.1 Về học bổng
- Học bổng khuyến khích học tập được cấp trên cơ sở kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, sinh viên nhằm khuyến khích học sinh, sinh viên học tập đạt kết quả tốt. Tùy theo kết quả học tập, rèn luyện theo phân loại hiện hành thì sinh viên các trường đại học, cao đẳng sẽ được hưởngcacs mức học bồng là 120.000 đồng/tháng, 180.000 đồng/tháng và 240.000 đồng/tháng đối với kết quả học tập tương ứng là: khá, giỏi và loại xuất sắc. Đối với học sinh trung học chuyên nghiệp, dạy nghề thì mức học bổng tương ứng là 110.000 đồng/tháng, 165.000 đồng/tháng và 220.000 đồng./tháng.
- Học bổng chính sách áp dụng cho các sinh viên hệ cử tuyển dành cho vùng cao và vùng sâu thực hiện theo quyết định số 82/2006/QĐ-TTg cuat Thủ tướng Chính phủ cụ thể như sau: Mức học bổng là 280.000 đồng/học sinh/tháng. Ngoài ra, nếu học sinh thuộc các đối tượng chính sách mà có kết quả học tập đạt loại khá, giỏi trở lên thì sẽ được nhận thêm phần thưởng khuyến khích học tập từ kinh phí chi cho học bổng với các mức bằng 30%,80% và 120% mức học bổng khuyến khích toàn phần nếu đạt loại khá giỏi và xuất sắc.
2.2.4.2 Về trợ cấp xã hội
Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội là học sinh, sinh viên đang học tại các trường đào tạo công lập chính quy tập trung dài hạn trong nước thuộc các diện: học sinh, sinh viên là người dân tộc ít người ở vùng cao; học cinh, sinh viên là người mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương tựa; là người tàn tật theo quy định của Nhà nước tại Nghị định 81/CP là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế.
Mức hưởng trợ cấp xã hội là 100.000 đồng/tháng. Ngoài ra, đối với những học sinh, sinh viên thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội mà có kết quả học tập và rèn luyện từ khá trở lên thì được nhận thêm phần thưởng khuyến khích học tập trích từ kinh phí chi cho học bổng.
CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
2.3.1Cơ chế phân cấp quản lý NSNN giáo dục và đào tạo
Nội dung phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo bao gồm: (1) Ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi và quản lý NSNN cho giáo dục, (2) Bảo đảm nguồn kinh phí và thực hiện nhiệm vụ quản lý NSNN cho giáo dục, (3) Lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN cho giáo dục.
Xu hướng phân cấp quản lý NSNN cho giáo dục hiện nay là tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho các cấp chính quyền địa phương và tăng cường quyền tự chủ tài chính cho cá cơ sở giáo dục đào tạo. Cơ chế này phát huy được tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các địa phương và các cơ sở đào tạo trong phân bổ, sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, phân cấp quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam được quy định tại Nghị định 60/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó:
- Các Bộ nghành, các cơ quan TW quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo đối với các trường phổ thông dân tộc nội trú, với đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, TCCN, đào tạo nghề và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác
- UBND địa phương, các cơ quan tài chính địa phương quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo đối với giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa, nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông dân tộc nội trú và các hoạt động giáo dục khác; đối với một số trường đại học, cao đẳng, TCCN, đào tạo nghề, đào tạo ngắn hạn và các cơ sở đào tạo bồi dưỡng khác tại địa bàn.
2.3.2 Cơ chế lập dự toán và phân bổ dự toán NSNN
2.3.2.1 Quy trình lập dự toán chi tiết và phân bổ nguồn NSNN cho giáo dục đào tạo
* Đối với các đơn vị trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo
- Hằng năm, căn cứ vào các Chỉ thị của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tái chính, Bộ Giáo dục có văn bản hướng dẫn các đơn vị trực thuộc Bộ xây dựng dự toán thu, chi ngân sách trên cơ sở các nhiệm vụ chuyên môn được giao của từng đơn vị và tình hình ước thực hiện kế hoạch năm trước. Dự toán chi từ nguồn NSNN được xây dựng trên cơ sở tổng nhu cầu chi trong năm kế hoạch của đơn vị trừ đi số chi từ nguồn viện trợ và thu khác được để lại cho đơn vị sử dụng. Thời gian xây dựng dự toán vào tháng 7, tháng 8 của năm trước.
- Căn cứ vào tổng mức chi Ngân sách được Chính phủ và Bộ Tài chính giao, Bộ Giáo dục tiến hành phân bổ cho các đơn vị dự toán trực thuộc chi tiết đến mục chi của Mục lục NSNN. Căn cứ để phân bổ dựa trên các nhiệm vụ chuyên môn được giao và tình hình thực tế của từng đơn vị.
- Bộ Giáo dục gửi dự kiến phân bổ NSNN theo mục lục NSNN cho các đơn vị dự toán để rà soát và điều chỉnh. Sau khi các đơn vị rà soát điều chỉnh đã thống nhất ý kiến với Bộ Giáo dục thì Bộ Giáo dục sẽ giao chính thức cho các đơn vị HCSN thuộc Bộ Giáo dục.
* Đối với khối địa phương
- Sau khi nhận được Thông tư Ngân sách hàng năm của Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập Kế hoạch phân bổ Ngân sách, Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết, quy định cụ thể về các nhiệm vụ chi cho giáo dục và định mức phân bổ. Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định ban hành định mức và kế hoạch phân bổ.
- Căn cứ vào Quyết định và hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh, phòng giáo dục huyện lập kế hoạch phân bổ ngân sách cho các trường phổ thông (thuộc khối THCS và Tiểu học) thuộc phạm vi quản lý, gửi phòng tài chính huyện, báo cáo Ủy ban nhân dân huyện để trình Hội đồng nhân dân huyện quyết định và báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở tài chính, đồng gửi Sở giáo dục. Ttrong khi Sở giáo dục cũng lập kế hoạch phân bổ ngân sách cho các trương THPT, trường cao đẳng trên địa bàn và tổng hợp kế hoạch phân bổ ngân sách cho giáo dục trên toàn tỉnh và gửi Sở tài chính.
- Trên cơ sở báo cáo của các huyện và của Sở giáo dục, Sở tài chính tổng hợp và lập kế hoạch phân bổ ngân sách cho giáo dục trên địa bàn tỉnh để báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh và trình Hội đồng nhân dân tỉnh.
Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt và báo cáo Bộ Tài chính.
- Sau khi kế hoạch phân bổ ngân sách chung của Tỉnh được Quốc hội phê duyệt và thông qua, Bộ Tài chính giao kế hoạch phân bổ ngân sách chung cho Tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh giao kế hoạch phân bổ ngân sách cho Sở tài chính. Căn cứ vào kế hoạch phân bổ ngân sách cho giáo dục được giao, Sở tài chính phân bổ ngân sách cho các trường thuộc phân cấp quản lý của tỉnh và giao ngân sách cho Ủy ban nhân dân huyện. Được sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện, phòng tài chính huyện phân bổ ngân sách cho các trường tiểu học, THCS trực thuộc.
2.3.2.2 Căn cứ lập kế hoạch phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo
Kế hoạch phân bổ ngân sách giáo dục đào tạo bao gồm kế hoạch ngân sách chi đầu tư phát triển và kế hoạch ngân sách chi thường xuyên.
* Kế hoạch phân bổ ngân sách chi thường xuyên.
Kế hoạc phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo được xây dựng chủ yếu dựa trên định mức phân bổ ngân sách do Chính phủ quy định. Chính vì vậy, phân tích thực trạng lập kế hoạch phân bổ ngân sách chi thường xuyên cũng chính là phân tích tình hình sử dụng định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục.
Định mức phân bổ ngân sách là một mức chi cho một hoặc các đối tượng, nội dung chi nhằm đạt được một số nhiệm vụ, mục tiêu nhất định theo tiêu chuẩn chế độ hiện hành. Các định mức phân bổ ngân sách được dùng để xác định các khoản phân bổ ngân sách ở cả TW và các cấp địa phương.
Các định mức phân bổ ngân sách là căn cứ để:
Lập căn cứ dự toán NSNN
Phân bổ NSNN cho các Bộ, cơ quan TW và địa phương sau khi được Chính phủ giao.
Điều hành và quản lý NSNN
Giám sát tình hình thực hiện, sử dụng NSNN
Chính vì vậy, định mức phân bổ ngân sachs cho giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch ơhaan bổ ngân sách chi thường xuyên. Các định mức phân bổ này được Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện trong thông tư Ngân sách hàng năm và được áp dụng cho các mục chi thường xuyên trong giáo dục.
Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2007 được thực hiện theo quyết định 151/2006/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ
Bảng 2.9: Định mức phân bổ chi thường xuyên sự nghiệp đào tạo và dạy nghề theo tiêu chí dân số
Vùng
Định mức phân bổ
Đô thị
21.330
Đồng bằng
23.710
Miền núi- vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu
31.000
Vùng cao – hải đảo
42.700
Nguồn: Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg
Định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo, dạy nghề bao gồm các loại hình đào tạo, dạy nghề ( chính quy, tại chức, đào tạo lại, các loại hình đào tạo dạy nghề khác ), các cấp đào tạo, dạy nghề, trung tâm chính trị tỉnh, huyện,… của địa phương.
Định mức phân bổ thêm kinh phí cho các trường đại học mang tính chất khu vực được áp dụng đối với tỉnh, thành phố trực thuộc TW có các trường đại học công lập do địa phương quản lý do ngân sách địa phương bảo đảm theo phân cấp của luật ngân sách nhà nước, có thực hiện nhiệm vụ đào tạo học sinh ở các địa phương khác, được ngân sách Nhà nước trung ương phân bổ thêm cho ngân sách địa phương mức bằng 30% mức dự toán chi năm 2006 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giao cho trường đại học.
* Kế hoạch phân bổ ngân sách chi đầu tư
Hằng năm, Bộ kế hoạch đầu tư cùng thống nhất với Bộ Tài chính giao kinh phí đầu tư cơ bản cho các địa phương ( trong đó có kinh phí đầu tư cơ bản cho nghành giáo dục đào tạo ) .UBND các tỉnh thành phố thông qua HĐND tỉnh, thành phố để quyết định việc phân bổ cụ thể kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản cho các dự án.
Việc ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007-2010 được thực hiện theo quyết định số 210/2006/ QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Việc phân bổ chi đầu tư phát triển của các Bộ, cơ quan Trung ương cho các công trình, dự án và việc phân bổ chi đầu tư phát triển trong cân đối của các địa phương phải đảm bảo nguyên tắc chung là : Thực hiện theo đúng quy định của Luật NSNN, bảo đảm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của NSNN, tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn khác, bảo đảm mục tiêu huy động cao nhất các nguồn vốn cho đầu tư phát triển; bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư phát triển.
2.3.3. Cơ chế cấp phát và chấp hành chi NSNN.
Hàng tháng, quý, căn cứ vào dự toán được duyệt chi tiết theo Mục lục NSNN, cơ quan tài chính kết hợp với Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm cấp kinh phí cho các đơn vị thực hiện.
- Căn cứ vào phương án điều hành ngân sách quý do cơ quan tài chính thông báo nhu cầu thanh toán, chi trả hàng quý của các đơn vị sử dụng ngân sách, Kho bạc Nhà nước chủ động lập kế hoạch nguồn vốn; kế hoạch chi trả, thanh toán; kế hoạch tiền mắt đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu, kịp thời yêu cầu chi của các đơn vị sử dụng ngân sách.
- Căn cứ vào nhu cầu chi quý đã gửi Kho bạc Nhà nước và theo yêu cầu nhiệm vụ chi, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy rút dự toán ngân sách, kèm theo hồ sơ thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch.
- Kho bạc Nhà nước tiến hành kiểm tra hồ sơ, giấy rút dự toán và thực hiện chi trả, thanh toán. Đối với các khoản chi chưa có điều kiện thực hiện chi trả, thanh toán trực tiếp, Kho bạc Nhà nước tạm ứng cho đơn vị sử dụng ngân sách để chủ động chi theo dự toán được giao, sau đó thanh toán với Kho bạc Nhà nước theo đúng nội dung, thời hạn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
2.3.4. Kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN
Công tác kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN là khâu cuối cùn sau công tác lập dự toán và chấp hành ngân sách.
Sau khi kết thúc năm kế hoạch, đơn vị sử dụng ngân sách lập báo cáo quyết toán gửi cơ quan chủ quản cấp trên và cơ quan tài chính. Theo quy định hiện hành, cơ quan tài chính xét duyệt quyết toán của cơ quan sử dụng ngân sách cùng cấp.
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán Ngân sách các cấp chính quyền địa phương không được quyết toán chi lớn hơn thu.
- Ngân sách cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí ủy quyền của ngân sách cấp trên và báo cáo quyết toán ngân sách cấp monhf. Cuối năm, cơ quan tài chính được ủy quyền lập báo cóa quyết toán kinh phí ủy quyền theo quy định gửi cơ quan tài chính ủy quyền và cơ quan quản lý nghành, lĩnh vực cấp ủy quyền.
- Kho bạc Nhà nước các cấp có trách nhiệm tổng hợp số liệu quyết toán gửi cơ quan tài chính cùng cấp để cơ quan tài chính lập báo cáo quyết toán. Kho bạc Nhà nước xác nhận số liệu thu, chi Ngân sách trên báo cáo quyết toán của ngân sách các cấp, đơn vị sử dụng ngân sách.
2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
2.4.1 Ưu điểm
Thứ nhất, NSNN đầu tư cho giáo dục đã thực sự được ưu tiên đúng với quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN nên đã tạo điều kiện cho giáo dục có nhiều nguồn lực hơn để phát triển.
Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo được đổi mới theo hướng tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các địa phương. Sự đổi mới đó đã tạo điều kiện và động lực khuyến khích các địa ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33044.doc