Cơ chế điều hoà vốn ở Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Mục lục Lời giới thiệu Chương I: Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh và các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1 I. Tập đoàn kinh doanh: Khái niệm, đặc điểm và các mô hình 1 1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh doanh 1 1.1. Khái niệm mô hình Tập đoàn kinh doanh 1 1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh 1 1.3. Các phương thức hình thành các Tập đoàn kinh doanh 3 2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh 4 3. Vai trò, ý nghĩa

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ chế điều hoà vốn ở Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các Tập đoàn kinh doanh 4 4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh 6 4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức 6 4.2. Căn cứ vào các hình thức biểu hiện và tên gọi 7 II. Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 8 1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 9 1.1. Khái niệm vốn 9 1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. 10 1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 10 1.2.2. Tầm quan trọng của vốn hay yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 11 2. Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 12 2.1. Sự cần thiết phải tiến hành điều hòa vốn trong các TĐKD. 12 2.2. Các hình thức điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh. 13 2.1.1. Các Tâp đoàn điều hòa vốn thông qua các tổ chức tài chính. 13 2.2.2. Các HOLDING COMPANY ( Công ty Mẹ ) 16 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hòa vốn trong các TĐKD. 17 2.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 17 2.3.2. Các nhân tố thuộc môi trường vi mô. 17 III. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam và cơ chế điều hòa vốn trong các Tổng công ty Nhà nước (TCT) 19 1. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam. 19 1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước. 19 1.2. Một số kết quả ban đầu 20 2. Cơ chế điều hòa vốn trong các TCT Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 21 2.1. Cơ chế điều hòa vốn 21 2.1.1. Các TCT Nhà nước chưa hình thành các tổ chức tài chính trung gian. 21 2.1.2. Các TCT Nhà nước đã hình thành các tổ chức tài chính trung gian. 25 2.2. Một số tồn tại cơ bản của cơ chế điều hòa vốn trong các TCT Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 26 Chương II: Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 28 I. Khái quát về Tổng công ty Giấy Việt Nam. 28 1. Lịch sử hình thành và phát triển 28 2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức 30 3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. 34 II. Thực trạng cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. 37 1. Các hình thức điều hòa vốn hiện nay ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 38 1.1. Điều động tài sản và vốn giữa các doanh nghiệp thành viên 38 1.2. Trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung. 30 1.3. Điều động vốn bằng cơ chế vay trả với lãi suất nội bộ. 45 2. Đánh giá công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 47 2.1. Một số kết quả đã đạt được trong công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 47 2.2. Một số tồn tại cơ bản trong cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 49 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 51 I. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy và quan điểm cơ bản của Tổng công ty Giấy Việt Nam trong công tác điều hòa vốn 51 1. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp Giấy Việt Nam 51 2. Các căn cứ và quan điểm cơ bản của Tổng công ty Giấy trong công tác điều hoà vốn 54 II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở TCT Giấy Việt Nam 55 1. Tiến tới thành lập công ty tài chính, công ty bảo hiểm ngành Giấy. 55 2. Ban hành chính sách công khai, cụ thể về kế hoạch và phương thức điều hòa vốn 58 3. Đầu tư vào các doanh nghiệp thành viên kinh doanh có hiệu quả 60 4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn. 61 5. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính nội bộ 62 6. Kết hợp sự quản lý, điều tiết về vốn của Tổng công ty với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý vốn giữa các doanh nghiệp thành viên. 63 7. Cổ phần hóa một số doanh nghiệp vừa và nhỏ 64 8. Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp giấy Việt Nam. 64 9. Phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn 66 III. Một số kiến nghị với Nhà nước để thực hiện giải pháp. 69 1. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhà nước 69 2. Kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn ngân sách. 70 3. Kiến nghị phục vụ chương trình đầu tư phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam. 70 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo 73 Lời giới thiệu Việt Nam đã và đang có sự chuyển mình từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, bao gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong những năm qua, dù có những tồn tại song các xí nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế, các xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp,... đã ngày càng bộc lộ những yếu kém trong việc gánh vác vai trò nắm giữ các lĩnh vực kinh tế huyết mạch mà Đảng và nhà nước giao phó. Chính vì vậy, theo Quyết định 91/TTg ra ngày 7-3-1994 của Thủ tướng Chính phủ, mô hình Tập đoàn kinh doanh đã ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Mô hình này có tác dụng thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương với doanh nghiệp địa phương, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với mọi thành phần kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Từ khi được thành lập, các tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vừa mới được thành lập, các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg đã không tránh khỏi những khó khăn nhất định khi tiếp cận mô hình hoạt động mới. Trước những thách thức đó, đặc biệt phải đối mặt với xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu, xu hướng hội nhập khu vực ( đặc biệt là tiến trình hội nhập ASEAN ), để tồn tại và phát triển các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg phải không ngừng tự đổi mới toàn diện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của chính bản thân mình. Điều hòa vốn là một khía cạnh trong các hoạt động tài chính của các Tổng công ty, là nội dung không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động của Tổng công ty nói chung và việc phân phối vốn nói riêng có hiệu quả. Vốn là điều kiện tiên quyết cho sự hoạt động của mỗi doanh nghiệp, do đó nó phải được đầu tư vào những nơi có khả năng sinh lợi cao nhất. Tuy nhiên, thực hiên điều hòa vốn ra sao vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, cũng như sự quan tâm của bản thân đối với sự phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam, sau một thời gian thực tập tại Tổng công ty Giấy Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Bố cục của chuyên đề như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh và các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam. Chương II: Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. Do sự hạn chế về kiến thức và do thời gian có hạn, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô, các cô chú ở Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam,... để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHưƠNG I Cơ chế điều hòa vốn trong các tập đoàn kinh doanh và các tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay I. Tập đoàn kinh doanh: Khái niệm, đặc điểm và các mô hình 1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh doanh 1.1. Khái niệm Tập đoàn kinh doanh Mô hình TĐKD (TĐKD) là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh gồm nhiều doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm tạo thế mạnh chung trong việc thực hiện những mục tiêu nhất định. Những doanh nghiệp tham gia tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập, liên kết với nhau ở mức độ chặt chẽ hoặc lỏng lẻo thông qua các mối quan hệ tài sản, phân công và hợp tác. Đáp ứng nhu cầu liên kết bậc cao giữa các doanh nghiệp trong nền sản xuất lớn, từ những năm 1960 các TĐKD đã nối tiếp nhau ra đời và ngày càng phát triển. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng TĐKD được hiểu là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước trong đó có một “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển. TĐKD là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng cường khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. 1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh TĐKD đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, khoảng cuối thế kỷ 19 gắn với quá trình công nghiệp hoá dồn dập ở Châu Âu và ở Mỹ. Công việc này đòi hỏi phải có một lượng vốn khổng lồ. Để khắc phục nguồn vốn hạn chế của các cá nhân, doanh nghiệp đơn lẻ, Chính phủ các nước đã khuyến khích thành lập các công ty cổ phần lớn và đó là tiền thân của các TĐKD sau này. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tích tụ, tập trung vốn đặc biệt phát triển mạnh vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai và đã tạo ra một làn sóng hợp nhất mạnh mẽ chưa từng có để hình thành các tập đoàn tư bản cực lớn. Tích tụ và tập trung đẩy mạnh quá trình liên kết ngang và liên kết dọc dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, đa chức năng trong từng TĐKD. Việc hình thành và phát triển có hiệu quả của các TĐKD đã đưa chúng trở thành những trung tâm thu hút, thâu tóm hàng loạt các công ty khác xung quanh nó. Kết quả các TĐKD ngày càng trở nên hùng mạnh. Sở dĩ TĐKD được hình thành, có sức sống mãnh liệt và có sự phát triển không ngừng như vậy bởi vì nó phù hợp với các quy luật khách quan và những xu thế phát triển của thời đại: Thứ nhất: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu, rộng của phân công lao động xã hội, đến quy mô của sản xuất và tiêu thụ, sản xuất kinh doanh không còn manh mún, rời rạc và sở hữu không còn là sở hữu cá thể nữa mà đã và đang đi sâu vào xã hội hoá, vào hợp tác, phân công và sở hữu hỗn hợp. TĐKD với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế, tổ chức kinh doanh, tổ chức liên kết kinh tế, có nghĩa nó là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất cần phải ra đời, phát triển để đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hai là: Quy luật tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất. Trong cơ chế thị trường vô cùng năng động, mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, nó phải tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt, do đó phải tái sản xuất mở rộng không ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ, tập trung vốn vào sản xuất. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải tích luỹ từ lợi nhuận thu được, đồng thời phải tìm cách tăng vốn từ lợi nhuận đi vay, liên doanh liên kết,... theo đó, TĐKD ra đời và phát triển. Ba là: Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp không bao giờ chấm dứt ấy sẽ dẫn đến 2 xu hướng chính: - Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính và sát nhập các doanh nghiệp thất bại để nâng cao trình độ hóa sản xuất. - Nếu cạnh tranh qua nhiều năm mà không phân thắng bại thì trong số các doanh nghiệp đó sẽ có sự liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Có 3 hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp: + Liên kết ngang: diễn ra giữa các công ty trong cùng một ngành. + Liên kết dọc: là sự liên kết giữa các công ty trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi công ty đảm nhận một bộ phận hoặc một số công đoạn nào đó. + Liên kết hỗn hợp: là sự kết hợp liên kết ngang và dọc, gồm rất nhiều các công ty hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau, ít nhất không có mối liên hệ kinh tế với nhau. Đó là sự liên kết đa ngành, đa lĩnh vực. Bốn là: Tiến bộ khoa học công nghệ. Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ chính là yếu tố quyết định giúp các doanh nghiệp thắng trong cạnh tranh và đạt tới lợi nhuận cao. Để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn, nhiều thời gian trong khi độ rủi ro lại cao và cần phải có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đủ mạnh. Một doanh nghiệp nhỏ, biệt lập, manh mún không đủ sức làm việc đó. Điều đó đòi hỏi phải có một doanh nghiệp lớn, mà TĐKD là một loại hình tiêu biểu. 1.3. Các phương thức hình thành Tập đoàn kinh doanh Trên thực tế các TĐKD được hình thành theo các cách thức sau: - Các công ty lớn mạnh thôn tính các công ty nhỏ yếu. Nhờ hoạt động có hiệu quả, công ty lớn thôn tính các công ty con dưới các hình thức mua toàn bộ các công ty con hoặc mua cổ phần với khối lượng lớn đủ để nắm quyền kiểm soát trong Hội đồng quản trị ( HĐQT ) công ty và buộc các công ty bị thôn tính phải phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương thức chiến lược của tập đoàn và công ty mẹ. - Các công ty tự nguyện đàm phán, tự nguyện sát nhập hợp nhất thành một công ty mới lớn hơn hoặc liên kết xung quanh một công ty lớn được tôn sùng là công ty đầu đàn. Trong sự hợp nhất này có sự tham gia góp vốn của các công ty thành viên vào công ty đầu đàn và ngược lại. Có thể nói rằng đây là quá trình sát nhập tự nguyện do tác động của nhiều nguyên nhân. Các công ty thành viên cảm thấy nguy cơ bị thôn tính do sức ép cạnh tranh của các công ty khác lón hơn nếu chúng cứ tồn tại một cách biệt lập. Vì vậy, họ phải tự ngồi lại với nhau để đàm phán ký kết hợp đồng hoặc thỏa ước liên kết dưới các hình thức khác nhau để chống lại những thách thức từ bên ngoài. Có thể là thỏa ước về phân chia thị trường sản phẩm, nguyên liệu, quy định giá cả hoặc cùng góp vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. 2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh Nghiên cứu một số TĐKD trên thế giới, dễ nhận thấy rằng các TĐKD có một số đặc điểm chủ yếu sau: - TĐKD có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. Nhiều TĐKD có phạm vi hoạt động rộng, có các chi nhánh hoạt động trên nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu. - TĐKD là một tổ hợp các công ty, gồm “công ty mẹ” và các “công ty con, cháu” phần lớn mang họ của “công ty mẹ”. Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty này về chiến lược phát triển. Do vậy, sở hữu vốn của các TĐKD là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ (công ty mẹ) đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. - TĐKD hoạt động chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực. Mỗi TĐKD đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực kinh doanh đặc trưng, mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất, trong các TĐKD thường có các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng, bảo hiểm; thương mại dịch vụ, nghiên cứu khoa học, đào tạo,... Xu hướng chung là các tổ chức tài chính và quá trình nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn vì nó là đòn bẩy cho sự phát triển của các TĐKD. - TĐKD tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như: huy động, điều hoà, quản lý vốn, nghiên cứu triển khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư. Như vậy, TĐKD làm cả hai chức năng cơ bản là kinh doanh như một doanh nghiệp và liên kết kinh tế. 3. Vai trò, ý nghĩa của các Tập đoàn kinh doanh Trên thực tế, sự phát triển kinh tế của những quốc gia phát triển trên thế giới luôn gắn với sự phát triển của các TĐKD. Dưới góc độ quản trị tài chính, sự hình thành và phát triển của các TĐKD có ý nghĩa và tác dụng trên những mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của Tập đoàn cũng như của từng công ty thành viên. TĐKD cho phép huy động được những nguồn lực to lớn trong xã hội cho quá trình sản xuất kinh doanh, cải tạo cơ cấu sản xuất, hình thành các công ty hiện đại, quy mô và có tiềm lực kinh tế. TĐKD hạn chế tối đa sự cạnh tranh nội bộ, mặt khác tạo sự thống nhất, giúp đỡ nhau chiến thắng trong cạnh tranh với các công ty khác, đặc biệt là với các Tập đoàn tư bản nước ngoài. Đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa như nước ta, TĐKD có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó là giải pháp chiến lược bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự thâm nhập của các “gã khổng lồ” của nền kinh tế thế giới. Thực tế chỉ ra rằng, ngay ở các nước đang phát triển, với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các TĐKD vẫn có thể không ngừng mở rộng và vươn ra thị trường thế giới... Hai là: Tích tụ, tập trung và điều hoà vốn. TĐKD là giải pháp cho sự hạn chế về vốn của từng công ty cá biệt. Trong các TĐKD, nguồn vốn huy động được tập trung đầu tư vào những công ty, những lĩnh vực có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng vốn bị phân tán. Nhờ vậy: + Vốn của các công ty thành viên luôn được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất. + Tập trung đầu tư vốn vào những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn. + Vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và ngược lại, giúp cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn và giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả Tập đoàn. Ba là: Thành lập các TĐKD là một giải pháp hữu hiệu, tích cực cho việc đẩy mạnh việc nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên, bởi vì: + Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi một lượng vốn rất lớn mà mỗi công ty riêng biệt sẽ rất khó huy động được. Tập trung và điều hoà vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học mới vào sản xuất. + Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lớn đòi hỏi phải có sự hợp lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu mà chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty lại mới tạo ra được tiềm năng nghiên cứu khoa học to lớn đó. + Thông qua sự hợp tác trao đổi thông tin và những kinh nghiệm trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ cho phép các công ty thành viên có khả năng đưa nhanh những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh. Bốn là: TĐKD với các hình thức là công ty đa quốc gia có ý nghĩa rất lớn, được coi là giải pháp quan trọng giúp các nước công nghiệp hóa sau thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất. Các tập đoàn với chiến lược chung về phát triển và chuyển giao công nghệ đã giúp cho các nước giải quyết một số vấn đề sau đây: + Tránh nhập cùng một loại công nghệ trùng lắp trong nhiều công ty thành viên, nhờ đó cơ cấu công nghệ trong tập đoàn đa dạng, hợp lý và có hiệu quả hơn. + Việc phổ biến rộng rãi những thông tin và kinh nghiệm trong chuyển giao công nghệ từ các công ty thành viên trong tập đoàn sẽ giúp tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra do thiếu những hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công nghệ nước ngoài. + Thông qua sự chỉ đạo thống nhất, các công ty thành viên sẽ lựa chọn được những công nghệ thích hợp trong chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất, giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào việc thực hiện những mục tiêu chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho cả tập đoàn. 4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh Hiện nay trên thế giới, người ta phân chia TĐKD thành các loại hình tổ chức khác nhau theo nhiều cách: 4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức, các TĐKD trên thế giới được phân thành 3 loại hình sau: - Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế ”, các công ty thành viên thuộc một tổ chức thống nhất và mất tính độc lập về tài chính, sản xuất và thương mại. Những TĐKD này được cấu tạo dưới dạng đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau. - Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “liên kết kinh tế” thông qua những hiệp ước và hợp đồng kinh tế. Các công ty thành viên ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau về những nguyên tắc chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh như xác định quy mô sản xuất, hợp tác nghiên cứu trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật. Về tổ chức thường có ban quản trị chung điều hành các hoạt động phân phối của tập đoàn theo đường lối chung thống nhất, nhưng những công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất và thương mại của mình. - Những TĐKD được thành lập trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định, hình thành một công ty tài chính chung gọi là Holding Company. Công ty này trở thành công ty mẹ của tập đoàn. Đây là hình thức phát triển cao của TĐKD. Trong TĐKD không chỉ còn thống nhất hạn chế những hoạt động mà lúc này đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ. 4.2. Căn cứ vào hình thức biểu hiện và tên gọi, trong thực tiễn các TĐKD có các hình thức sau: - Cartel: Là loại hình TĐKD giữa các công ty trong một ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cùng ký hợp đồng với nhau hoặc thoả thuận kinh tế nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh. Trong các Cartel các công ty vẫn giữ nguyên độc lập về mặt pháp lý, còn tính độc lập về mặt kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế. Đối tượng của những thoả thuận kinh tế có thể là: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu thụ sản phẩm,...Tuy nhiên do các Cartel thường dẫn đến độc quyền nên Chính phủ nhiều nước ngăn cấm và hạn chế hình thức tập đoàn này bằng cách thông qua những đạo luật chống độc quyền hay luật Cartel. - Syndicate: Thực chất đây là một dạng đặc biệt của Cartel. Trong Syndicate có một văn phòng thương mại chung được hình thành do một ban quản trị chung điều hành và tất cả các công ty thành viên phải tiêu thụ hàng hóa qua kênh của văn phòng tiêu thụ này. - Trust: là một liên minh độc quyền của các tổ chức sản xuất kinh doanh do một ban quản trị thống nhất điều hành. Khi gia nhập Trust, các doanh nghiệp bị mất độc quyền về thương mại, các nhà tư bản trở thành cổ đông. Việc thành lập Trust nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao, chiếm nguồn nguyên liệu và khu vực đầu tư. - Consortium: là một trong những hình thức tổ chức độc quyền ngân hàng nhằm mục đích chia nhau mua trái khoán trong và ngoài nước hoặc tiến hành công việc buôn bán nào đó. - Concern: là hình thức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Concern không có tư cách pháp nhân. Các công ty thành viên trong các Concern vẫn giữ nguyên độc lập về pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên trong Concern dựa trên cơ sở những thỏa thuận về lợi ích chung như: phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học công nghệ, hợp tác sản xuất kinh doanh và có hệ thống tài chính chung. - Conglomerate: là một tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu quan hệ về tài chính và hành chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu hút vốn cổ phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất thông qua thị trường chứng khoán. Đặc điểm cơ bản của hình thức TĐKD này là hoạt động của nó chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Do đó, các Conglomerate có mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng. Vai trò của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với các Conglomerate là cực kỳ to lớn. - Các TĐKD xuyên quốc gia: là những công ty có quy mô tầm cỡ quốc tế với hệ thống chi nhánh dày đặc ở nước ngoài. Nó gồm hai bộ phận là công ty mẹ thuộc nước chủ nhà và hệ thống chi nhánh ở nước ngoài. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty chi nhánh là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài chính, công nghệ và kỹ thuật. Các công ty chi nhánh có thể mang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty hỗn hợp với hình thức góp vốn cổ phần. II. Cơ chế điều hòa vốn trong các tập đoàn kinh doanh 1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 1.1. Khái niệm vốn Vốn có vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, do vậy nó được đặc biệt quan tâm. Khái niệm về vốn cho đến nay vẫn là một đề tài gây nhiều tranh luận. Tùy theo cách tiếp cận cũng như những mục đích khác nhau mà các khái niệm về vốn được đưa ra, song nhìn chung có một số khái niệm đáng chú ý sau: Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ là các yếu tố của sản xuất, ông cho rằng: “ Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất ”. Định nghĩa này có tính khái quát cao, song do hạn chế của trình độ phát triển của nền kinh tế đương đại, ông cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư. Paul. A. Samuelson - nhà kinh tế học hiện đại cho rằng “ vốn ” là một loại hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp, bao gồm máy móc, vật tư, trang thiết bị, nguyên liệu,...Quan niệm của ông là một bước tiến lớn so với các bậc tiền bối của ông, song ông không đề cập đến các tài sản tài chính, giấy tờ có giá đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa “vốn hiện vật” và “vốn tài chính” của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá khác. Vậy là ông đã bổ sung thêm một khoản mục vào định nghĩa của P.Samuelson. Nhìn chung, trong hai khái niệm về vốn trên, các tác giả đều thống nhất ở một điểm chung cơ bản là: vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các tác giả đã đồng nhất vốn với các tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là toàn bộ giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ; vốn và tài sản, là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Khái niệm này chỉ ra vốn là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Nó cũng đề cập đến vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, kéo dài từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên tới chu kỳ cuối cùng. Vai trò của vốn được thể hiện khá rõ ràng qua khía cạnh đó. Ngoài ra, khái niệm còn cho thấy sự khác biệt cơ bản trong quan niệm cơ bản về vốn và tài sản khi khẳng định vốn là “các giá trị ”. Chúng ta cũng cần phải phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tiền, hai phạm trù hay bị lẫn lộn. Vốn chính là tiền nhưng tiền được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư nhằm tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu. Tóm lại, có thể nhận định “Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.” 1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp 1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Xã hội loài người đã từng trải qua nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Trong nền kinh tế này, sản phẩm làm ra nhằm để thoả mãn nhu cầu của từng cá nhân, từng gia đình cụ thể. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động được mở rộng, nền kinh tế hàng hoá ra đời. Kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi các thị trường hay ta thường gọi là kinh tế thị trường. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh đây là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hóa cho hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế thị trường có ưu điểm là hết sức năng động, mềm dẻo, tự cân đối, tự điều chỉnh, tạo môi trường công bằng, kích thích sự phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật cố hữu của nó như làm xuất hiện tình trạng độc quyền, xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế,... cần có sự can thiệp ở quy mô rộng do một thế lực đủ mạnh, đó là Nhà nước. Nhà nước đặt ra một môi trường pháp lý, cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp. Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề kinh tế cơ bản: “sản xuất cái gì? ”, “sản xuất như thế nào? ”, “sản xuất cho ai? ” được giải quyết hoàn toàn khác so với các hình thái kinh tế xã hội khác. Việc sản xuất cái gì là do nhu cầu thị trường quyết định, nhà sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau trên thị trường để định giá cả và sản lượng. Để sản xuất cái gì, nhà doanh nghiệp phải tìm hiểu, nắm bắt thông tin về nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị thuộc chủ sở hữu. Điều này sẽ dẫn họ đến khu vực sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng có nhu cầu cao hơn và nó cũng mách bảo các nhà sản xuất kinh doanh rời bỏ những khu vực mà người tiêu dùng ít có nhu cầu. Sản xuất theo phương thức nào được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa những người sản xuất. Cách duy nhất để doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá và đạt được lợi nhuận tối đa là giảm chi phí tới mức tối thiểu bằng việc áp dụng những phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất, tiết kiệm chi phí trong mọi công đoạn. Sau khi hàng hoá được sản xuất ra, doanh nghiệp phải tổ chức tốt khâu tiêu thụ nhằm nhanh chóng thu hồi vốn bỏ ra đồng thời thực hiện mục tiêu lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các yếu tố cung cầu, giá cả, sự cạnh tranh, các dịch vụ bán hàng,... Để giải quyết được ba vấn đề trên, doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn nhất định, tuỳ thuộc vào quy mô cũng như ngành nghề kinh doanh của mình. 1.2.2. Tầm quan trọng của vốn hay yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả Sản xuất giống như một cỗ máy mà vốn là bộ phận quan trọng hàng đầu. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi hình thành doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp bao giờ cũng phải đầu tư một số vốn tối thiểu gọi là vốn pháp định. Mức vốn này quy định cho từng ngành nghề kinh doanh và mục tiêu của nó là đòi hỏi doanh nghiệp phải chuẩn bị những điều kiện vật chất tối thiểu sao cho hoạt động kinh doanh sau đó có thể diễn ra trôi chảy bình thường, vừa bảo ._.đảm lợi ích của doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền lợi của các đối tác có quan hệ. Với số vốn đó, doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư ban đầu, mua sắm các tài sản phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp và sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Chu kỳ sản xuất đầu tiên đã bắt đầu, các chu kỳ khác nối tiếp nó, ngày càng mở rộng và phát triển. Trong quy trình phức tạp đó, doanh nghiệp phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên tục nảy sinh mà vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc hàng đầu: có vốn mới có thể đổi mới máy móc, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng phương pháp quản lý mới, đào tạo thu hút nhân tài,... qua đó nâng cao chất lượng sản xuất một cách toàn diện. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa “dòng” và “dự trữ ” sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn vai trò của vốn. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền tệ, tương ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền tệ đi ra và ngược lại. Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường đầu vào hoặc với thị trường đầu ra. ở đây, các dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu những hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền tệ trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng hàng hóa tiền tệ đo được tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Tổng hợp các khoản dự trữ do doanh nghiệp nắm giữ tại một thời điểm nhất định cấu thành nên vốn của doanh nghiệp và được phản ánh trong bảng cân đối tài sản. “Dự trữ” và “dòng” có quan hệ chặt chẽ và là cơ sở cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Quy trình này thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ quá trình chuyển hoá vật chất Dòng vật chất đi vào Dòng tiền tệ đi ra Tài sản Quá trình chuyển hoávật chất Dòng vật chất đi ra Dòng tiền tệ đi vào Mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp có thể khác nhau nhưng xét cho cùng cũng là vì lợi nhuận. Thế nhưng một quy luật phổ biến trong kinh tế học là ở đâu có lợi nhuận thì ở đó có rủi ro. Rủi ro xảy ra đe dọa hoạt động của doanh nghiệp, làm hao hụt và thất thoát vốn, làm cho doanh nghiệp có thể bị phá sản. Để tránh hậu quả này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả nhất, trong đó có công tác điều hoà vốn đối với các TĐKD. 2. Cơ chế điều hoà vốn trong các TĐKD 2.1. Sự cần thiết phải tiến hành điều hoà vốn trong các TĐKD “Điều hoà vốn” có thể được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm phân bổ vốn giữa các bộ phận trong một tổng thể để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, có hiệu quả. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tại mỗi thời điểm đều đồng thời có các doanh nghiệp thừa vốn và có các doanh nghiệp thiếu vốn trong một thời gian nhất định. Với chức năng nắm giữ, hỗ trợ nhau về tài chính, các TĐKD đứng ra dàn xếp để doanh nghiệp cần có thể vay vốn và doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi có thể cho các doanh nghiệp thiếu vốn vay để hưởng lãi. Sở dĩ nói điều hòa vốn trong nội bộ có vai trò quan trọng trong hoạt động của TĐKD là vì nó có những lợi thế sau: - Lợi thế về thời hạn khoản vay và cho vay: thông thường tình trạng dư thừa và thiếu hụt có thể giải quyết trong nội bộ là những khoản dư thừa và thiếu hụt tạm thời khi doanh nghiệp thu hoặc trả tiền hàng. Hai đối tượng gặp nhau lại trùng nhau về nhu cầu, về thời gian đáo hạn của khoản vay thì hoàn toàn có khả năng cho nhau vay vốn. Trong trường hợp những doanh nghiệp này cho vay ra bên ngoài thì sẽ gặp phải những ràng buộc lớn về thời gian cho vay và hoàn trả. - Lợi thế về tính thuận tiện: khi các doanh nghiệp cho nhau vay trong nội bộ chỉ thông qua các trung gian tài chính ngành hoặc các công ty mẹ của tập đoàn hoặc Tổng công ty, việc giao dịch sẽ diễn ra nhanh hơn qua hệ thống tài khoản chung. Khi có những biến động các doanh nghiệp cũng có thể rút tiền một cách nhanh chóng. - Chi phí trung gian giảm, tức là bên cho vay nhận được lãi suất cao hơn, còn bên đi vay sẽ phải trả chi phí thấp hơn cho việc sử dụng vốn. - Các đơn vị đi vay và cho vay không phải mất thời gian cũng như chi phí để tìm hiểu bạn hàng. 2.2. Các hình thức điều hoà vốn trong các Tập đoàn kinh doanh Các TĐKD trên thế giới, với khối lượng công việc tài chính khổng lồ, có nhiều biện pháp khác nhau để phân phối, sử dụng tốt nhất nguồn vốn hữu hạn của mình. Có thể chia các TĐKD này thành hai nhóm: 2.1.1. Các tập đoàn điều hoà vốn thông qua các tổ chức tài chính ngành Các tổ chức tài chính như công ty tài chính hoặc ngân hàng của tập đoàn có hoạt động vô cùng năng động. Và với hoạt động của mình, nó đạt được cùng một lúc nhiều mục tiêu. Về khía cạnh tài chính, các tổ chức trung gian tài chính ngành có các hoạt động sau: - Thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu và trái phiếu. - Cho vay chủ yếu là trung và dài hạn. - Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua. - Cầm cố các loại vật tư, hàng hoá, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và vật bảo đảm khác. - Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng, đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán,... Như vậy, các trung gian tài chính này giải bài toán điều hoà vốn toàn diện và có hiệu quả hơn. Với các hoạt động đa dạng của mình, các trung gian tài chính trong các TĐKD có các lợi thế sau: - Thứ nhất: cho phép khai thác nhiều nguồn vốn phục vụ cho phát triển sản xuất kinh doanh của TĐKD. Trên thế giới, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm nguồn vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán, song cũng không phải không cần đến các trung gian tài chính. ở nước ta hiện nay, do vai trò hoạt động của thị trường chứng khoán còn hạn chế nên nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu là vay của các trung gian tài chính. Thế nhưng, trên thực tế nguồn này không đủ đáp ứng nhu cầu vốn để phát triển của các tập đoàn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Trong hoàn cảnh đó, các trung gian tài chính ngành là nguời đại diện cho các tập đoàn, cho các công ty thành viên huy động trong nội bộ tập đoàn hoặc trong dân chúng thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu có mục đích để đầu tư vào các dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, xây dựng và cải tạo cơ sở vật chất của các công ty thành viên. Với vị thế của mình, nó còn có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng để cung cấp cho các công ty thành viên, cho các dự án của tập đoàn. Tuy nhiên, trong các mối quan hệ tín dụng, không phải công ty nào ở thời điểm nào cũng có thể khai thác tốt mối quan hệ vay mượn với các tổ chức tín dụng. Trong những thời điểm đó thì việc điều hòa vốn qua trung gian tài chính của tập đoàn sẽ góp phần tháo gỡ được khó khăn cho các đơn vị thành viên. Thêm vào đó, các trung gian tài chính trong tập đoàn còn là một kênh dẫn các nguồn vốn đầu tư quốc tế cho các dự án đầu tư của tập đoàn và của các công ty thành viên. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng với uy tín của mình, các trung gian tài chính ngành sẽ tư vấn đầu tư cho các đối tác làm ăn với tập đoàn và với các công ty thành viên. Khi sự liên kết hợp tác giữa các đối tác nước ngoài với tập đoàn và với các công ty thành viên được hình thành thì nó trở thành người quản lý hữu hiệu vốn đầu tư cho các đối tác nước ngoài. - Thứ hai: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ giúp các tập đoàn quản lý một cách tối ưu hiệu quả các nguồn vốn thông qua việc đảm bảo đầu tư vốn đúng định hướng phát triển, đúng công trình và dự án, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa đáp ứng được nhiệm vụ chính trị xã hội trong quá trình phát triển của tập đoàn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của cả tập đoàn. - Thứ ba: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ cho phép tập đoàn khai thác triệt để sức mạnh của nó trên thị trường tài chính tiền tệ thông qua việc quản lý tập trung thống nhất các nguồn vốn, điều hòa vốn linh hoạt, có hiệu quả. Nhìn chung các công ty đều trong tình trạng thiếu vốn nhưng tại một thời điểm nào đó có một số công ty tạm thời thừa vốn, trong khi đó một số công ty khác trong TĐKD lại trong tình trạng thiếu vốn và các nguồn vốn khác không được khơi thông. Để giải quyết mâu thuấn này, các trung gian tài chính sẽ giúp tập đoàn hình thành nên các quỹ tài chính tập trung có tính chất dự trữ nhưng rất “lỏng”. Quỹ này cho phép đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các công ty bị rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời và giúp các công ty có vốn tạm thừa không bị “chết vốn”. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các công ty tài chính là mối quan hệ “vay–trả” có dựa trên quan điểm tương hỗ nhau, và chính nguyên tắc này tạo nên chức năng quản lý, giám sát việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả của các công ty thành viên. - Thứ tư: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ giúp tập đoàn phát huy được tối đa thế mạnh về các nguồn lực vật chất cũng như nguồn lực con người, tận dụng được thành tựu khoa học công nghệ thông qua việc thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tham gia thị trường tài chính tín dụng, thị trường vốn trong và ngoài nước. ở các nước có nền kinh tế phát triển hiện nay trên thế giới, công ty tài chính có thể tham gia thị trường tiền tệ để bảo đảm cho tập đoàn mình luôn cân đối được các ngoại tệ cần thiết cho việc sản xuất và buôn bán; tham gia thị trường tiền tệ để vừa gọi vốn vừa đầu tư; can thiệp có hiệu quả vào vấn đề tài chính của tập đoàn mình, thậm chí thu lợi từ việc can thiệp tài chính vào các tập đoàn khác. Ngoài ra, các công ty tài chính còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sôi động trên thị trường chứng khoán. 2.2.2. Các HOLDING COMPANY ( Công ty mẹ ) Holding Company của tập đoàn được hình thành trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định về tài chính hình thành một công ty tài chính chung, gọi là Holding Company. Đây là hình thức phát triển cao của TĐKD. Trong TĐKD không chỉ còn thống nhất hạn chế các hoạt động mà lúc này đã mở ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ,...khác nhau. Công ty mẹ chỉ quan tâm đến lĩnh vực tài chính của tập đoàn mà không quan tâm đến lĩnh vực sản xuất cũng như quản lý hành chính, kế hoạch. Thực chất, nó là một công ty nắm giữ cổ phần của các công ty thành viên. Công việc chính của công ty mẹ là xem xét, theo dõi tình hình tài chính của các công ty thành viên trong tập đoàn để có những biện pháp điều chỉnh thích hợp. Holding Comany có những lợi thế sau: - Tạo ra một thế lực tài chính lớn, phát triển kinh doanh và gây ảnh hưởng tới chính trị, xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. - Đầu tư vào nhiều lĩnh vực nhằm phân tán rủi ro. - Đầu tư cho các công ty hiệu quả nhất. - Tập trung vốn, đầu tư vốn vào những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn. - Vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và ngượclại đã giúp cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn, giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả tập đoàn. ở nước ta, mặc dù còn nhiều hạn chế trong hoạt động của các công ty tài chính nhưng đứng về phía góc độ quản lý có thể nhận thấy rằng các công ty tài chính đang được kỳ vọng sẽ đóng vai trò to lớn trong việc làm cho các mối quan hệ còn lỏng lẻo trong các Tổng công ty nhà nước trở nên chặt chẽ hơn. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 2.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô Một là: Chính sách của Nhà nước. Nhân tố ảnh hưởng trước tiên đến phương pháp và hiệu quả điều hòa vốn của các TĐKD là chính sách của Nhà nước. Các chính sách được cụ thể hoá bởi các văn bản, pháp luật, nghị định, thông tư của Chính phủ, các Bộ ngành liên quan. Pháp luật quy định thẩm quyền điều hoà vốn trong TĐKD cho bộ máy quản lý, cụ thể là HĐQT. Trên cơ sở pháp luật và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các công ty phát triển sản xuất kinh doanh. Chính sách của Nhà nước trong mỗi thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của mỗi TĐKD: nếu là những ngành nghề, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thì công tác điều hòa vốn được thuận lợi. Mặt khác, nếu chính sách của Nhà nước thuận lợi thì công tác này cũng được thực hiện dễ dàng, thuận lợi và có hiệu quả. Hai là: Thực trạng nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của TĐKD. Khi nền kinh tế ở vào tình trạng suy thoái, hoạt động của công ty gặp phải khó khăn. Lúc này hoạt động điều hòa vốn của TĐKD cũng gặp khó khăn và kém hiệu quả. Hơn nữa, trong giai đoạn này các công ty thành viên thường thu hẹp sản xuất, theo đó chính sách điều hòa vốn của tập đoàn cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình. Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu mở rộng đầu tư của doanh nghiệp tăng lên, tích luỹ lớn, việc điều hòa vốn cũng được tiến hành dễ dàng hơn. Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của các doanh nghiệp. Trong các nước có nền kinh tế phát triển cao, với hành lang pháp lý chặt chẽ, đầy đủ, việc điều hòa vốn của các TĐKD thông qua các công ty tài chính, qua ngân hàng của tập đoàn hay qua các công ty mẹ sẽ cho kết quả tốt hơn, toàn diện hơn so với các nước như chúng ta. Bởi lẽ ở những nước này, các công cụ qua đó các công ty, tập đoàn tiến hành điều hòa vốn đều phát triển cao với nhiều hình thức, giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn phù hợp với mình nhất. 2.3.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô Một là: Tình hình tài chính của tập đoàn. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của việc điều hoà vốn. Một doanh nghiệp có tình trạng tài chính kém thì không thể nào có vốn nhàn rỗi để cho doanh nghiệp khác vay. Mặt khác, việc này còn kéo theo khả năng thất bại trong khi thu hút vốn đầu tư bên ngoài vì khả năng hoàn trả vốn vay kém. Một nhà đầu tư khi quyết định trước hết phải cân nhắc xem tình hình sản xuất hiện nay của doanh nghiệp ra sao, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của doanh nghiệp so với chỉ tiêu trung bình của ngành, nghề kinh doanh như thế nào,...Chỉ khi chắc chắn rằng doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh doanh tích cực hoặc đang trong thời gian phục hồi, có triển vọng phát triển thì họ mới quyết định đầu tư. Hai là: Hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn có tác động rất lớn đến hoạt động điều hoà vốn của tập đoàn, với vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm việc huy động vốn của tập đoàn. Một tập đoàn khi có hiệu quả sử dụng vốn cao sẽ làm tăng lợi nhuận giữ lại, từ đó tăng khả năng tự tài trợ cho doanh nghiệp. Khi đó việc tìm kiếm đầu tư ngay trong nội bộ tập đoàn cũng có thể thực hiện dễ dàng. Ba là: Lãi suất nội bộ. Đây là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc điều hoà vốn của tập đoàn. Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động huy động vốn nào chúng ta đều phải bỏ ra một chi phí gọi là chi phí cơ hội. Đối với hoạt động điều hoà vốn, chi phí vốn mà doanh nghiệp vay vốn trả cho doanh nghiệp cho vay gọi là lãi suất vay trả nội bộ. Hiển nhiên không phải tự nhiên mà doanh nghiệp có được vốn để sản xuất kinh doanh mà phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau và phải trả bằng những chi phí khác nhau. Một chi phí hợp lý trong nội bộ sẽ giúp các nhà quản trị tài chính có thể giải bài toán điều hoà vốn một cách dễ dàng. Lãi suất này phụ thuộc vào nhiều yếu tố song nó phải gắn với lãi suất thị trường. Có như vậy đơn vị thừa vốn mới từ bỏ ý định sử dụng vốn của nó vào một mục đích khác để nhượng lại cho đơn vị thiếu vốn vay. ở Việt Nam, vấn đề còn khó khăn hơn khi vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là vốn vay hoặc vốn ngân sách cấp. Việc họ vẫn phải trả lãi ngân hàng và thu sử dụng vốn trong khi họ cho vay mà không nhận được lãi hoặc lãi suất rất thấp là vô lý. Các doanh nghiệp không chấp nhận điều kiện này hoặc chấp nhận một cách gượng ép, tìm cách dấu giếm các khoản vốn nhàn rỗi. Điều này làm cho công tác điều hòa vốn của Tổng công ty trở nên khó khăn hơn nhiều. Bốn là: Định hướng phát triển của tập đoàn. Cách thức cũng như mức độ điều hoà vốn trong TĐKD phụ thuộc rất nhiều vào định hướng phát triển của tập đoàn. Nếu dự kiến trong tương lai tập đoàn sẽ mở rộng đầu tư cho sản xuất kinh doanh thì việc điều hoà vốn sẽ phải khẩn trương hơn để tìm kiếm nguồn vốn cho đầu tư phát triển và ngược lại. Mặt khác, ngành mà tập đoàn ưu tiên phát triển cũng sẽ được chú trọng, ưu tiên về vốn hơn nhiều so với các lĩnh vực khác. III. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt nam và cơ chế điều hoà vốn trong các Tổng công ty nhà nước 1. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam 1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước Để phát huy hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc quan trọng mang tính sống còn là tìm kiếm những loại hình tổ chức kinh doanh mới, thích hợp và có hiệu quả nhằm phát huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã xác định: “ Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường..., xây dựng một số Tổng công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài ”. Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 khoá VII tiếp tục khẳng định: “ Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từng bước xoá bỏ chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với nhà nước.” Nhằm quán triệt và từng bước triển khai chủ trương của Đảng về thành lập Tổng công ty theo hướng TĐKD, ngày 07 tháng 03 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 91/TTg về “ thí điểm thành lập các TĐKD ”, trong đó nêu ra mục tiêu là “ tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương và địa phương, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả nền kinh tế ”. Các đơn vị được lựa chọn là “ một số Tổng công ty, công ty có mối quan hệ theo ngành hoặc vùng lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp do TW hay địa phương quản lý, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh tế ra nước ngoài ”. Theo Quyết định 90/TTg các Tổng công ty muốn thành lập phải có đủ 6 điều kiện, quan trọng nhất là: Tổng công ty là DNNN có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin đào tạo; toàn Tổng công ty phải có số vốn pháp định ít nhất là 500 tỷ đồng. Đối với một số Tổng công ty trong những ngành đặc biệt thì vốn pháp định có thể là thấp hơn, nhưng cũng không được dưới 100 tỷ. Theo Quyết định 91/TTg các Tổng công ty muốn thành lập thì phải có ít nhất 7 doanh nghiệp thành viên kinh doanh đa ngành, đồng thời phải có xu hướng là ngành chủ đạo. Đối với các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg thì Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập, bổ nhiệm HĐQT ( 7 đến 9 thành viên ), ký quyết định việc ban hành điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. Toàn Tổng công ty phải có số vốn pháp định ít nhất là 1000 tỷ đồng. Đến nay, tính đến tháng 4/2000, đã có 17 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg và 76 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ như Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Hàng không, Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Cà phê,... 1.2. Một số kết quả ban đầu Theo số liệu đã được thông báo đầu năm 2000, các Tổng công ty nhà nước chỉ chiếm 24% về số lượng nhưng chiếm tới 68% về vốn, 60% về lao động và góp phần vào ngân sách nhà nước tới 69% so với toàn bộ các DNNN hiện có. Riêng 17 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ hiện có 600 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, nắm 56% tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các DNNN, 35% tổng số lao động đang làm tại DNNN, 65% về lãi trước thuế, 56% về thu nộp ngân sách trong khi chỉ chiếm 9,2% về số lượng. Cùng với thời gian, các cơ chế chính sách được hoàn thiện dần, mô hình hoạt động rõ nét hơn. Một số Tổng công ty tập trung đổi mới trang thiết bị, công nghệ, đào tạo nhân lực, đa dạng hoá ngành nghề, vững vàng trong cạnh tranh và thắng thầu trong các công trình trong và ngoài nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các Tổng công ty nhà nước cũng còn nhiều hạn chế, đó là những vướng mắc trong việc phân chia quyền hạn, nghĩa vụ giữa HĐQT và Tổng giám đốc (TGĐ); bộ máy quản lý nặng nề, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành cao, giảm sức cạnh tranh. Các chỉ tiêu hiệu quả giảm dần: năm 1996, các Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg đạt tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn là 15% thì năm 1997 rút xuống còn 13,2%. So với các DNNN khác, các Tổng công ty nhà nước chiếm tỷ trọng lớn về vốn ( 72%) nhưng hiệu quả sử dụng không cao, chỉ tạo ra 49,8% doanh thu. Đa số các Tổng công ty đều tăng chỉ số tuyệt đối nhưng mức tăng đều giảm qua các năm. Thậm chí nhiều Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg làm ăn thua lỗ buộc phải chuyển thành các Tổng công ty nhà nước như các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 90/TTg hoặc phải được nhà nước hỗ trợ bằng cách hoãn nợ, khoanh nợ. 2. Cơ chế điều hoà vốn trong các Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay 2.1 Cơ chế điều hòa vốn 2.1.1 Các Tổng công ty Nhà nước chưa thành lập các tổ chức tài chính trung gian Nhà nước thành lập các TĐKD với mục đích nhằm tăng cường sức tập trung, tích tụ các nguồn lực hiện có để phát triển nền kinh tế. Trong quá trình phát triển đó sẽ hướng các Tổng công ty phát triển lên thành các TĐKD lớn mạnh, làm đầu tầu cho nền kinh tế. Các Tổng công ty càng lớn mạnh thì yêu cầu về một quy chế tài chính phù hợp càng trở nên bức thiết. Hiện nay, các Tổng công ty đang có yêu cầu thành lập các tổ chức tài chính ngành mà đặc biệt là công ty tài chính để phục vụ cho hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như việc phân bổ, sử dụng tốt nhất nguồn vốn giới hạn hiện có. Tuy nhiên, việc thành lập công ty tài chính còn đang được Chính phủ xem xét phê duyệt các điều kiện, trong đó quan trọng nhất là điều kiện về vốn điều lệ của công ty tài chính vì trong tình trạng tài chính còn yếu của phần lớn các Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 90/TTg, 91/TTg như hiện nay thì việc bỏ ra vài chục tỷ làm vốn kinh doanh cho các công ty này khó có thể thực hiện được. Trong khi chờ đợi sự cho phép thành lập các tổ chức tài chính ngành, các Tổng công ty này hoạt động theo quy chế tài chính dành cho các Tổng công ty nhà nước theo Luật DNNN cũng như quy chế tài chính được quy định trong điều lệ của Tổng công ty. Quy chế tài chính bao gồm nhiều vấn đề về hoạt động tài chính của Tổng công ty trong đó có hoạt động điều hòa vốn. Nhìn chung, trong các Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay gồm các phương thức điều hòa vốn chủ yếu sau : Điều hoà vốn bằng việc điều động tài sản: Theo quy chế tài chính thì các Tổng công ty có quyền thay đổi cơ cấu cũng như điều động vốn và tài sản bằng cách ghi tăng vốn và tài sản thuộc vốn ngân sách và vốn tự bổ sung cho đơn vị nhận còn ghi giảm vốn và tài sản cho đơn vị giao. Riêng tài sản bằng vốn vay đơn vị nhận sẽ phải trả cho đơn vị bị điều động phần giá trị tài sản còn lại của tài sản bằng vốn vay. Đối với khối sự nghiệp việc điều hoà vốn được thực hiện theo quy chế tài chính và chỉ giới hạn ở phần tài sản thuộc nguồn tự bổ sung hoặc vốn vay để tránh làm mất vốn ngân sách cấp. Điều hoà vốn bằng việc trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung: Các quỹ tài chính tập trung được thành lập nhằm đề phòng những biến cố bất thường có thể xảy ra làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc trích lập được thực hiện đều đặn hàng năm ngay cả khi chưa có rủi ro. Vì vậy, nếu có kế hoạch sử dụng hợp lý thì lượng vốn nhàn rỗi này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các Tổng công ty được thành lập nhằm tập trung quản lý các đơn vị nhỏ riêng lẻ một cách tâp trung, nhờ đó tăng sức mạnh tài chính cũng như sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Để thực hiện chức năng quản lý tài chính tập trung của mình, Tổng công ty cần có một lượng tài chính đủ mạnh. Vì vậy, các quỹ tài chính tập trung ra đời để phục vụ cho hoạt động của Tổng công ty. Các quỹ này hình thành từ phần lợi nhuận sau thuế của các đơn vị thành viên theo quy chế tài chính, cụ thể bao gồm các quỹ sau: - Quỹ đầu tư và phát triển: Đây là quỹ có vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động của mỗi doanh nghiệp đơn lẻ cũng như của các Tổng công ty. Nó được hình thành từ các nguồn sau: - Huy động không hoàn lại quỹ đầu tư phát triển được trích hàng năm của các doanh nghiệp hạch toán độc lập. Mức huy động cụ thể được quy định trong Quy chế tài chính của từng Tổng công ty. - Lợi nhuận sau thuế các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và phần lợi nhuận được chia từ liên doanh do Tổng công ty trực tiếp quản lý. Mức cụ thể do HĐQT phê duyệt theo đề nghị của TGĐ. Tổng công ty được huy động dưới hình thức vay với lãi suất nội bộ quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn khấu hao cơ bản của doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập. Mức huy động do TGĐ quyết định theo uỷ quyền của HĐQT. Lãi suất nội bộ do HĐQT quyết định nhưng không được thấp hơn mức thu về sử dụng vốn ngân sách do nhà nước quy định. Quỹ này được dùng để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như liên doanh, góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu, bổ sung vốn điều lệ cho Tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên,... - Quỹ dự phòng tài chính: Tổng công ty được điều động quỹ dự trữ tài chính được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để hình thành quỹ dự trữ tài chính tập trung của Tổng công ty. Mức điều động cụ thể được quy định trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Quỹ này được sử dụng để khắc phục rủi ro về thiên tai, địch hoạ, rủi ro trong kinh doanh của Tổng công ty và của các đơn vị thành viên mà các khoản dự phòng được trích trong giá thành, tiền đền bù của cơ quan bảo hiểm không đủ bù đắp. Trong trường hợp cần thiết, Tổng công ty có thể huy động dưới hình thức vay với lãi suất nội bộ quỹ dự trữ tài chính của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để sử dụng chung cho Tổng công ty và hỗ trợ cho doanh nghiệp thành viên khi rủi ro mất vốn. Ngoài ra, khi quỹ này nhàn rỗi hoặc có số dư lớn nó cũng được dùng để đầu tư phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập gặp rủi ro mất vốn lớn có thể vay từ quỹ này với lãi suất do Tổng công ty quy định để khắc phục tình trạng khó khăn của mình. Thông thường, mức lãi suất này lớn hơn tỷ lệ thu trên vốn phải nộp ngân sách nhưng lại thấp hơn lãi suất quy định của ngân hàng. - Quỹ trợ cấp mất việc làm: Quỹ trợ cấp mất việc làm được trích từ phần lợi nhuận sau thuế của văn phòng Tổng công ty và các đơn vị thành viên với định mức trích nộp được quy định cụ thể trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Quỹ được sử dụng để trợ cấp cho người lao động bị mất việc hoặc tạm nghỉ việc trong khi chờ đi làm lại. Trong khi nhàn rỗi nó cũng được Tổng công ty sử dụng để đầu tư sinh lợi. - Quỹ Khen thưởng - Phúc lợi: Tổng công ty được huy động một phần quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên để hình thành quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng của Tổng công ty. Mức huy động cụ thể được quy định cụ thể trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Nó được dùng để khuyến khích người lao động sản xuất, tăng năng suất bằng việc khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích tốt hoặc làm các công tác phúc lợi xã hội như thăm bệnh, chúc Tết... Cũng như các quỹ trên, bình thường lượng tiền nhàn rỗi của quỹ này có thể dùng đầu tư cho các hoạt động sinh lợi khác. - Quỹ khấu hao cơ bản: Quỹ này được hình thành trên cơ sở trích quỹ khấu hao vốn ngân sách cấp hàng năm của đơn vị. Mức trích cụ thể được quy định trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Vì các đơn vị thành viên chủ yếu là các DNNN nên số khấu hao trích nộp Tổng công ty là rất lớn. Quỹ này phục vụ cho hoạt động đầu tư và đổi mới trang thiết bị, tăng cường sức sản xuất của toàn Tổng công ty. Điều hoà vốn bằng cơ chế vay, trả với lãi suất nội bộ: Trong mọi thời điểm, trong Tổng công ty đều có các doanh nghiệp thừa và thiếu vốn. Với chức năng tài chính của mình, các Tổng công ty hoàn toàn có thể điều hoà vốn, làm cho những đơn vị thừa và thiếu vốn gặp nhau, cùng thoả mãn nhu cầu vay và cho vay của mình một cách nhanh nhất, thuận tiện và hiệu quả nhất bằng việc tạo ra một môi trường chính sách, một mức lãi suất hợp lý và đứng ra làm trung gian, kết nối những đơn vị có nhu cầu lại với nhau. Thế nhưng hiện nay các Tổng công ty của chúng ta chưa thực hiện được điều này bởi vì có quá nhiều vướng mắc trong đó quan trọng nhất là cơ chế chính sách. Các đơn vị chỉ thừa vốn trong một thời gian nhất định và họ chỉ vui lòng cho thuê quyền sử dụng lượng vốn nhàn rỗi tạm thời này nếu họ được bù đắp một cách xứng đáng với việc họ phải từ bỏ cơ hội được giữ tiền, được duy trì khả năng thanh khoản cao. Điều kiện có thể là một mức lãi suất hấp dẫn, việc giao dịch thuận tiện hoặc khả năng rút tiền khi cần một cách nhanh chóng. Trong khi đó, các Tổng công ty áp dụng một mức lãi suất nội bộ quá nhỏ so với lãi suất ngân hàng, tạo tâm lý cho các đơn vị giấu giếm các khoản nhàn rỗi, không khuyến khích cho vay. 2.1.2 Các Tổng công ty nhà nước đã hình thành các tổ chức tài chính trung gian Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian ( công ty tài chính, công ty bảo hiểm, ngân hàng) của ngành có hoạt động rất đa dạng và với các mặt hoạt động đó, nó thực hiện điều hoà vốn dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều so với một phòng hay ban tài chính trong các Tổng công ty. Việc xây dựng và phát triển các trung gian tài chính mà khởi đầu là các công ty tài ch._.quả đó khá tương xứng với phạm vi hoạt động của công ty tài chính. Chưa thể đưa ra những nhận xét đánh giá về hiệu quả hoạt động của các công ty tài chính của các Tổng công ty thông qua các chỉ tiêu phân tích tài chính vì các công ty này mới đi vào hoạt động được hơn 2 năm, hoạt động kinh doanh chưa đi vào hoạt động, nhưng có thể nhận định rằng các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước đã phần nào thể hiện được ưu thế “bạo” vì nguồn tài chính lớn của mình cũng như sự nhập cuộc, thích ứng nhanh chóng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, một lĩnh vực được coi là có độ rủi ro cao nhất trong các hoạt động kinh doanh. Việc thành lập và đi vào hoạt động của công ty tài chính ngành Giấy là đòi hỏi cấp thiết cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động điều hòa vốn nói riêng của Tổng công ty Giấy Việt Nam. 2. Ban hành chính sách công khai và cụ thể về kế hoạch cũng như phương thức điều hòa vốn Tuy cơ chế điều hòa vốn đã được quy định trong quy chế tài chính do Bộ tài chính cũng như Tổng công ty ban hành, song những quy định này còn chung chung và quá sơ sài. Trong đó không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các đối tượng trong công tác điều hòa vốn. Vì vậy, hoạt động điều hoà vốn còn mang năng tính chủ quan, kém hiệu quả. Đôi khi tình trạng tiêu cực xảy ra như những công ty biết “ưu ái”, “khéo chiều” thì không bị rút vốn hoặc được tăng vốn, ngược lại thì bị rút vốn, dẫn đến những trường hợp điều vốn từ doanh nghiệp làm ăn có lãi và bảo toàn được vốn sang doanh nghiệp thua lỗ, mất vốn,...Do vậy, tình trạng quan liêu cửa quyền là không tránh khỏi, các doanh nghiệp thành viên muốn có vốn để sản xuất kinh doanh ít nhiều phải “ lễ lạt” thì mới được xem xét và “lễ’ càng nặng thì càng có cơ hội được phê chuẩn. Để khắc phục tình trạng trên, Tổng công ty Giấy cần xem xét những biện pháp sau: - Phải có kế hoạch điều hòa vốn một cách công khai và cụ thể. Chính sách điều chỉnh cơ chế điều hòa vốn phải được quy định cụ thể trong điều lệ của Tổng công ty. - Thực hiện điều hòa vốn phải có kế hoạch cụ thể, tạo sự chủ động sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các đơn vị thuộc diện điều chỉnh. Có như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này mới được duy trì, ổn định. - Điều hòa vốn phải thực hiện trên những nguyên tắc nhất định, đó là nguyên tắc hiệu quả của việc điều hòa vốn, nguyên tắc hợp lý giữa lợi ích chung của Tổng công ty với lợi ích cục bộ của các doanh nghiệp thành viên. - Trong hoạt động điều hòa vốn, nên hạn chế việc ghi tăng, giảm vốn mà nên áp dụng phổ biến phương thức vay trả trực tiếp ( khi chưa có công ty tài chính ngành ). Dĩ nhiên, lãi suất này cần được quy định một cách hợp lý, tạo sức hút tối đa cho hoạt động tài chính của Tổng công ty. 3. Đầu tư vào các doanh nghiệp thành viên kinh doanh có hiệu quả, tránh lãng phí đồng vốn, mặt khác bảo đảm sự phát triển đồng đều giữa các doanh nghiệp thành viên Trong nền kinh tế thị trường, với sự điều tiết tự nhiên, vốn được đưa tới nơi thực sự cần và có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. Điều này tạo nên sự cân đối hợp lý giữa cung và cầu về vốn, động thời xác định mức chi phí chung cho thị trường. Tuy nhiên, trong các Tổng công ty, các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau và với Tổng công ty về mặt quản lý tài chính. Tổng công ty với chức năng tài chính của mình, nhận vốn nhà nước giao rồi giao lại cho các doanh nghiệp thành viên hoặc sử dụng quỹ của mình để đầu tư cho các doanh nghiệp thành viên kinh doanh. Nếu Tổng công ty có quyết định đúng đắn thì sự tác động của Tổng công ty sẽ mang lại hiệu quả, bằng không sẽ là một sự lãng phí gấp đôi đồng vốn đang rất cần thiết để mở rộng khả năng sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Mặc dù vây, việc phân phối, điều hoà vốn ở Tổng công ty không phải khi nào cũng đạt được hiệu quả cần thiết. Thực tế, trong Tổng công ty có những doanh nghiệp có vốn lớn, năng suất thấp, lợi nhuận kém và ngược lại, một số công ty có quy mô vốn nhỏ nhưng rất hiệu quả. Như vậy là vấn đề đầu tư vốn chưa hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Tổng công ty cần thực hiện ngay các biện pháp sau: - Xem xét cấp vốn trên cơ sở tính hiệu quả của doanh nghiệp: Tổng công ty cần phải đánh giá một cách khoa học các dự án, phương án cần vốn của các đơn vị. Khi cấp vốn phải theo dõi hiệu quả sử dụng vốn và đòi hỏi những cam kết sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả. - Giảm số lượng và khối lượng các trường hợp cấp vốn để cứu các doanh nghiệp bị thua lỗ quá lâu. Các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ không được khuyến khích, phấn đấu phát triển khi họ phải “ nuôi ” quá nhiều và quá lâu các đơn vị như thế này. - Tránh tiêu cực trong việc xem xét cấp vốn: doanh nghiệp “lễ nặng” thì được cấp và ngược lại. Song song với việc cố gắng đầu tư cho các doanh nghiệp lớn, Tổng công ty cũng cần quan tâm đầu tư cho các doanh nghiệp khác, tạo sự phát triển đồng đều giữa các doanh nghiệp trong toàn Tổng công ty, vì có tạo được sự phát triển đồng đều tương đối giữa các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty mới có thể phát triển nhanh và ổn định. Đây là một việc làm khó khăn với một nguồn vốn bị giới hạn. Nhìn chung, trước mắt Tổng công ty cần có các thay đổi sau: - Xem xét, điều chỉnh lại năng lực chuyên môn cũng như khả năng quản lý của bộ máy điều hành ở các đơn vị. - Đánh giá chính xác năng lực, thế mạnh của từng đơn vị thành viên để có hướng sản xuất kinh doanh hợp lý. - Kiên quyết xoá bỏ các đơn vị thành viên thua lỗ quá lâu. - Quan tâm đầu tư cho các doanh nghiệp thành viên còn chưa có hiệu quả với sự theo dõi sít sao của Tổng công ty về phương hướng đầu tư, cách thức cũng như hiệu quả đầu tư để loại bỏ tình trạng bị cụt vốn. 4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn Hoạt động điều hòa vốn là bộ quan trọng nhất của hoạt động tài chính trong các Tổng công ty. Nó bảo đảm hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết tốt nhất nhu cầu cho vay cũng như sử dụng vốn trong nội bộ Tổng công ty. ở Tổng công ty Giấy Việt Nam cũng vậy, điều hoà vốn chiếm một mảng khá quan trọng và thường xuyên trong các hoạt đông tài chính của Tổng công ty. Tuy nhiên, một điều không hợp lý ở đây là Tổng công ty không hề tiến hành theo dõi, đánh giá hiệu quả của công tác điều hòa vốn. Tổng công ty tiến hành điều hòa vốn nhưng mới chỉ dừng ở đó. Tổng công ty giao tiền cho các đơn vị cần nhưng lại không theo dõi xem họ dùng nó như thế nào thì sớm hay muộn nó cũng không phát huy được hiệu quả, thậm chí còn bị hụt đi theo kiểu “hết rồi lại xin”. Đối với mỗi quyết định tài chính của Tổng công ty, đã làm thì nên xem xét, tính đến hiệu quả của nó. Có như vậy mới không làm lãng phí đồng vốn giới hạn của mình. Thực tế hiện nay Tổng công ty thậm chí còn chưa có những phương pháp đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn. Vì vậy, Tổng công ty nên áp dụng những phương pháp sau: - Đối với việc điều động tài sản: Sau khi quyết định chuyển tài sản từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp kia, Tổng công ty phải tiến hành theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng ở các doanh nghiệp mới bằng cách so sánh năng suất, hiệu quả của tài sản cố định so với năng suất hiệu quả của nó khi vẫn còn ở doanh nghiệp cũ. Nếu máy móc đó tạo ra nhiều lợi nhuận hơn thì khi đó mới có thể kết luận việc điều hòa vốn mới có hiệu quả. - Đối với việc sử dụng các quỹ tài chính tập trung: Tổng công ty nên huy động tập trung theo mức quy định từ các quỹ tài chính của các đơn vị thành viên để hình thành nên các quỹ tài chính tập trung của Tổng công ty. Có như vậy, Tổng công ty mới phát huy được vai trò của việc sử dụng phương thức trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn. Việc sử dụng các quỹ tài chính hiện nay ở các đơn vị thành viên trong Tổng công ty Giấy chủ yếu là cho công tác khen thưởng, phúc lợi. Như vậy, việc sử dụng quỹ để mở rộng đầu tư phát triển chưa được coi trọng. Do đó, việc huy động tập trung các quỹ tài chính về Tổng công ty càng trở nên cần thiết hơn, giúp Tổng công ty có kế hoạch sử dụng các quỹ tài chính một cách hợp lý, chú trọng đầu tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. - Đối với nguồn vốn vay luân chuyển nội bộ: Giống như đối với tài sản cố định, Tổng công ty cũng cần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của đơn vị nhận vốn vay so với hiệu quả ở đơn vị cho vay để có quyết định cho vay đúng đối tượng. 5. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính nội bộ Xây dựng một hệ thống thông tin tài chính nội bộ hoạt động có hiệu quả là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các TĐKD lớn trên thế giới. Nó giúp cho các TĐKD nắm được tình trạng cân đối và sử dụng vốn của các doanh nghiệp thành viên để có kế hoạch điều hòa vốn. Việc theo dõi chỉ tiến hành qua sổ sách nên Tổng công ty chưa có khả năng quản lý sít sao thực trạng tài chính của mỗi doanh nghiệp thành viên ở từng thời điểm nên không có được những quyết định tài chính kịp thời, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác điều hòa vốn. Hệ thống thông tin tài chính này còn giúp cho Tổng công ty nắm bắt được diễn biến và xu hướng thị trường sản phẩm giúp nhà quản lý ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Với những lý do trên, việc tổ chức và vận hành một hệ thống thông tin tài chính nội bộ là đòi hỏi hết sức bức thiết. Về hình thức tổ chức, có thể tiến hành như sau: - áp dụng công nghệ máy tính vào quản lý, trước hết là tổ chức nối mạng giữa văn phòng Tổng công ty với các Phòng Tài chính - Kế toán của các doanh nghiệp thành viên. Nhờ đó, Tổng công ty có thể theo dõi liên tục khả năng cũng như nhu cầu tài chính của các đơn vị để có những điều chỉnh kịp thời. - Bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ tài chính cũng như khả năng vận hành các máy móc bổ trợ cho đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính. 6. Kết hợp sự quản lý, điều tiết về vốn của Tổng công ty với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý vốn và tự chủ tài chính đối với các đơn vị thành viên Theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của các Tổng công ty nhà nước thì Tổng công ty nhà nước là đối tượng được nhà nước giao vốn, đất và các nguồn lực khác để quản lý và sử dụng thống nhất trong toàn Tổng công ty. Trên cơ sở đó, Tổng công ty có trách nhiệm giao lại cho các đơn vị thành viên tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ do Nhà nước giao. Trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh, luôn luôn xuất hiện những yêu cầu phải bố trí, sắp xếp, điều chỉnh lại tiền vốn, lao động, máy móc,... giữa các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty cho phù hợp với yêu cầu của từng điều kiện cụ thể. Vì vậy, Tổng công ty phải tiến hành điều hòa vốn. Trong quá trình điều hòa vốn, Tổng công ty bị kẹt giữa hai vấn đề: Một là để quá trình này phát huy hiệu quả, Tổng công ty phải tăng cường quản lý, điều tiết vốn nhằm đạt được mức cân đối vốn hợp lý nhất trong nội bộ Tổng công ty. Hai là Tổng công ty đồng thời phải tạo điều kiện để doanh nghiệp được tự chủ trong mọi hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thực tế hiện nay ở Tổng công ty, sự quản lý, điều tiết nhiều khi quá nặng nề ảnh hưởng rất lớn đến tính chủ động trong quản lý và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên. Nói chính xác hơn, Tổng công ty can thiệp quá sâu vào hoạt động tài chính của các doanh nghiệp thành viên, trong khi đó lại xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý trong hoạt động điều hòa vốn. Để khắc phục tình trạng này, Tổng công ty Giấy cần giải quyết hài hòa các vấn đề sau: Thứ nhất: cần theo dõi chặt chẽ tình hình tài chính của các doanh nghiệp thành viên và của bản thân Tổng công ty. Thứ hai: cần theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cũng như công tác điều hòa vốn của Tổng công ty. Thứ ba: Tổng công ty cần tham gia vốn với các đơn vị thành viên nhằm góp phần nâng cao trách nhiệm của Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên. 7. Cổ phần hóa một số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Tổng công ty Với nhu cầu lớn về vốn cho chiến lược phát triển ngành giấy trong thời gian tới, để công tác điều hòa vốn đạt được hiệu quả thì Tổng công ty Giấy Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Cổ phần hóa là bước đi cần thiết và đúng đắn để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên, thực hiện tốt chủ trương huy động vốn từ mọi nguồn của Tổng công ty, đồng thời giảm bớt gánh nặng trong công tác điều hòa vốn của Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên. Về đối tượng cổ phần hóa, các công ty hạch toán độc lập hội đủ những điều kiện sau thì nên cổ phần hóa: Một là có quy mô vừa và nhỏ. Hai là có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Ba là không thuộc diện doanh nghiệp phải giữ 100% vốn sở hữu Nhà nước. 8. Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp giấy Việt Nam a - Phát triển nguồn nhân lực là một tất yếu khách quan Ngành công nghiệp giấy Việt Nam bước vào thiên niên kỷ mới với những vận hội mới của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành giấy Việt Nam đứng trước cơ hội tăng trưởng về quy mô sản lượng và nâng cao sức cạnh tranh để hòa nhập vào ngành giấy khu vực. Ngoài những thách thức lớn về vốn đầu tư cần được tháo gỡ, ngành giấy Việt Nam đang đứng trước những thách thức nan giải về sự bất cập của nguồn nhân lực. Trong những năm 1960, đội ngũ lao động ngành giấy đông đảo, được đào tạo có hệ thống ở các trường, lớp trong và ngoài nước và hiện nay đã trở thành cán bộ quản lý, chuyên gia kinh tế kỹ thuật, thợ đầu đàn ở các đơn vị trong toàn ngành. Nhưng lực lượng lao động chủ lực này đang ngày càng mai một, một số đã hưu trí. Một số nhà máy đang lâm vào tình trạng mất cân đối về cơ cấu ngành nghề, thiếu hụt lao động chuyên ngành trầm trọng. Đội ngũ lao động ngành giấy ngày càng già đi theo năm tháng và hẫng hụt lớp người thay thế. Theo báo cáo thống kê năm 1996, cơ cấu độ tuổi trên 40 tuổi chiếm tỷ rất cao trong đội ngũ lao động toàn ngành. Vì vậy, ngành công nghiệp giấy đứng trước đòi hỏi cấp bách phải nhanh chóng xây dựng đội ngũ lao động vững mạnh, đủ sức giải quyết những mục tiêu chiến lược của quy hoạch phát triển. Muốn vậy phải củng cố và nâng cao năng lực hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng lao động hiện có. Đó là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, một chỉ tiêu thách thức hết sức ngặt nghèo. Thách thức đó chỉ có thể vượt qua nếu được sự quan tâm thích đáng của Nhà nước, sự ủng hộ tích cực của các cơ quan hữu quan và khi đó đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải trở thành quốc sách trong phạm vi quốc gia và trong toàn ngành. Từ đó hình thành một hệ thống chính sách đào tạo phù hợp, tập trung được sự phối hợp có hiệu quả của các ngành liên quan, các đơn vị đào tạo và sử dụng. b - Củng cố và hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực Đào tạo cán bộ đại học và trên đại học Tổng công ty Giấy Việt Nam cần phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu, các cơ quan chức năng trong nước và ngoài nước để mở rộng quy mô một cách hợp lý, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý điều hành các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng công tác đào tạo chuyên ngành giấy, kết hợp đào tạo mới với đào tạo lại, đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật Tổng công ty Giấy Việt Nam phối hợp với các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề của Bộ công nghiệp, đặc biệt là các trường chuyên ngành giấy, mở rộng các hình thức đào tạo tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo bổ túc tay nghề,.... xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi, công nhân lành nghề, nâng cao hiệu quả đào tạo, sản xuất nhiều sản phẩm mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hoàn thiện chính sách tổng thể thu hút và phát triển nguồn nhân lực Xây dựng chính sách tổng thể thu hút và phát triển nguồn nhân lực hướng tới mục tiêu gắn kết sản xuất và đào tạo, đào tạo và sản xuất, đào tạo và đầu tư, tăng khả năng thu hút lao động vào các trường dạy nghề, trung học và đại học chuyên ngành; củng cố và khuyến khích đội ngũ lao động hiện nay yên tâm công tác, phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 9. Phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn Trong những năm tới, để thoả mãn nhu cầu cho đầu tư xây dựng cơ bản, ước tính Tổng công ty cần số vốn đầu tư như sau: - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Tổng số vốn đầu tư XDCB đến năm 2010 ước tính là 2591 triệu USD - Nguồn vốn: Nguồn vốn khấu hao cơ bản: ước tính tổng số nguồn vốn KHCB tái đầu tư giai đoạn 1997 - 2010 khoảng 2610 tỷ đồng( tương đương 210 triệu USD ). Số vốn còn phải huy động thêm là 2400 triệu USD. Vì vậy phải tìm kiếm các nguồn khác để thực hiện quy hoạch đầu tư phát triển ngành. Dự tính: + Vay vốn ưu đãi XDCB của Nhà nước 500 triệu USD. + Vay vốn ưu đãi đầu tư dài hạn của các tổ chức tín dụng quốc tế 500 triệu USD. + Kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án xây dựng nhà máy mới theo phương thức liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp với số vốn là 1400 triệu USD. Việc đầu tư hàng năm một lượng vốn lớn như vậy sẽ gây ra không ít khó khăn cho Tổng công ty Giấy trong công tác huy động vốn, và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả công tác điều hòa vốn. Để đảm bảo huy động đủ vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển, theo em việc huy động vốn bằng trái phiếu công trình là một khả năng rất lớn mà Tổng công ty Giấy nên tiến hành vì những lý do sau: Thứ nhất: Tổng công ty dù mới thành lập năm 1995 và đã đi vào hoạt động nhưng có nền móng vững chắc là các doanh nghiệp thành viên đã thành lập từ trước với thời gian tương đối dài. Quy mô nhân sự khá lớn, thu nhập bình quân của CBCNV trong toàn Tổng công ty ngày càng được nâng cao. Vì vậy, khả năng thu hút vốn nhàn rỗi của CBCNV cũng như của các doanh nghiệp thành viên làm ăn có hiệu quả là rất cao. Thứ hai: lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn. Theo ước tính hiện nay, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư là khoảng 60000 tỷ đồng vậy mà chỉ 7% được gửi dưới hình thức tiết kiệm, còn lại lại là mua vàng, ngoại tệ, đất đai và giữ tiền mặt (10%). Trong khi đó, nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng lại thiếu vốn gay gắt, và đó cũng không phải là ngoại lệ với các Tổng công ty nhà nước. Nếu có thể huy động một phần nguồn tiền này dưới hình thức phát hành trái phiếu công trình thì sẽ giải quyết được đáng kể nhu cầu về vốn của Tổng công ty. Thứ ba: Khi nền kinh tế đi vào ổn định, niềm tin của các nhà đầu tư và của dân chúng tăng lên, khi đó các đối tượng này rất cần nơi đầu tư vốn trung và dài hạn có khả năng sinh lời cao. Đối với họ, chứng khoán của các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 90/TTg và Quyết định 91/TTg có độ an toàn cao, độ rủi ro chỉ nhỉnh hơn rủi ro của trái phiếu kho bạc nhưng khả năng sinh lợi lại rất cao, do hầu hết các Tổng công ty này đều nắm giữ những huyết mạch chính của nền kinh tế. Thứ tư: cùng với đà phát triển của nền kinh tế, của tự do hóa và toàn cầu hóa thương mại, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều và khả năng thu hút được một lượng vốn lớn từ nguồn này là khá thực tế. Tuy nhiên, để làm được việc này đòi hỏi Tổng công ty Giấy phải xây dựng được một chiến lược hoàn chỉnh đối với việc huy động vốn bằng trái phiếu, nắm bắt được hướng phát triển của thị trường, đề ra các biện pháp cụ thể và thích ứng với từng giai đoạn. Trong chiến lược huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu công trình, Tổng công ty Giấy cần phải đạt được những mục tiêu: ă Phải xác định được số vốn cần huy động từ việc phát hành là bao nhiêu, chiếm tỷ trọng như thế nào trong tổng số vốn đầu tư. Việc xác định tỷ trọng vốn vay bằng trái phiếu là rất quan trọng. Trái phiếu là công cụ huy động vốn dài hạn, do vậy độ rủi ro của trái phiếu lớn hơn rất nhiều so với độ rủi ro của các công cụ tài chính ngắn hạn khác ( do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như rủi ro thị trường, rủi ro kinh doanh,...). Vì vậy, lãi suất trái phiếu phải lớn hơn, phải tương xứng với nó thì mới có độ hấp dẫn với các nhà đầu tư. Việc huy động vốn từ trái phiếu phải trả một chi phí khá lớn và chi phí này tỷ lệ thuận với thời gian đáo hạn của trái phiếu. Huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu nếu bị lạm dụng sẽ gây ra những khoản lãi phải trả hàng năm rất lớn, nếu không thanh toán kịp thời sẽ phải chịu lãi suất cao hơn và làm ảnh hưởng đến uy tín của Tổng công ty. Vì vậy, việc xác định được một cơ cấu trái phiếu phát hành hợp lý là rất quan trọng, vừa thỏa mãn nhu cầu về vốn đầu tư, vừa tránh cho Tổng công ty khỏi những gánh nặng nợ do việc sử dụng quá nhiều trái phiếu không cần thiết. ă Lập danh sách các công trình cần huy động vốn bằng trái phiếu vì trên thực tế không phải bất kỳ công trình nào cũng nên tài trợ bằng trái phiếu. Một công trình được tài trợ bằng trái phiếu phải hội đủ một số điều kiện sau: Công trình có thời gian xây dựng và hoàn vốn ngắn: Để vốn từ trái phiếu công trình phát huy tối đa tác dụng, đem lại hiệu quả cao nhất cho người phát hành thì trái phiếu phải có thời gian đủ dài để tài trợ cho công trình một cách hiệu quả nhất và quan trọng là thời gian xây dựng công trình phải chiếm một tỷ lệ thích hợp so với thời gian đáo hạn của trái phiếu. Yêu cầu này chủ yếu xuất phát từ mục đích tránh cho công trình phải thanh toán toàn bộ gốc và lãi trái phiếu trong khi công trình đang xây dựng dở dang, thu nhập của công trình chưa có. Khi yêu cầu này được thỏa mãn, tiền thanh toán cho trái phiếu được tính vào chi phí và thu nhập của dự án. Đối với các dự án có thời gian xây dựng lâu, thời gian hoàn vốn dài, nếu phát hành trái phiếu có thể không đem lại hiệu quả tích cực như dự kiến mà lại gây ra gánh nặng tài chính cho công trình và phải dùng vốn đầu tư cho công trình hoặc một phần vốn trái phiếu để trả nợ. Công trình có tính khả thi cao: Tính khả thi của công trình đóng vai trò rất quan trọng. Nếu một dự án không hiệu quả, thua lỗ thì tình hình càng trầm trọng khi sử dụng nợ. Lúc này nợ không còn đóng vai trò tích cực làm đòn bẩy tài chính nữa mà sẽ tác động ngược lại làm thua lỗ ngày càng trầm trọng hơn. ăXác định lãi suất trái phiếu: Đối tượng chủ yếu của trái phiếu là các nhà đầu tư, các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước. Với một thời gian và độ rủi ro nhất định, nếu có lợi nhuận hợp lý (cao hơn các chứng khoán có cùng thời gian và độ rủi ro), các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền mua trái phiếu của Tổng công ty. Vì vậy, lãi suất trái phiếu đóng vai trò thành công hay thất bại của việc phát hành. Lãi suất trái phiếu công trình phải bám sát lãi suất trái phiếu kho bạc có cùng thời hạn và phải được xác định dựa trên độ rủi ro của nhà phát hành và tính hiệu quả của dự án đầu tư. III. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt các giải pháp đề ra. 1. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước Hiện nay, công tác hỗ trợ tài chính cho các DNNN vẫn còn nhiều vấn đề chưa hoàn chỉnh. Trong khâu lập kế hoạch, do mới chỉ lập kế hoạch hỗ trợ tài chính chung cho doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là bổ sung vốn lưu động, trợ giá và hỗ trợ lãi suất tiền vay mà chưa có kế hoạch cho các khoản trợ cấp và hỗ trợ nguồn vốn trả nợ. Trong khâu cấp phát, việc cấp phát để hỗ trợ các khoản tài chính cho các DNNN thường cũng rất chậm so với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp. Trong khâu quyết toán thường thực hiện chậm so với yêu cầu và thậm chí không duyệt mà chỉ căn cứ trên báo cáo tài chính công khai của doanh nghiệp. Trong xây dựng kế hoạch cấp vốn cho các DNNN còn quá nhiều các cơ quan tham gia ( cục quản lý vốn địa phương, Bộ chủ quản, Tổng công ty xét cho các doanh nghiệp thành viên, Tổng cục quản lý doanh nghiệp, Vụ ngân sách Nhà nước). Công tác lập và kiểm tra báo cáo tài chính của các DNNN được thực hiện chưa nghiêm. Do thiếu sự kiểm tra nên nhiều DNNN đã lập báo cáo tài chính không trung thực để xin hỗ trợ tài chính, do vậy công tác hỗ trợ tài chính chưa đảm bảo chính xác. Để tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác hỗ trợ tài chính cho các DNNN, đề nghị trên cơ sở kế hoạch ngân sách nhà nước đã bố trí hỗ trợ tài chính cho các DNNN hàng năm, Bộ Tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức xét duyệt, phân bổ và cấp phát cho các DNNN có nhu cầu và chịu trách nhiệm về sự cấp phát trên, tránh hiện tượng chồng chéo như hiện nay. Việc xét duyệt hỗ trợ tài chính cho các DNNN phải căn cứ vào báo cáo tài chính đã có sự kiểm tra của cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước và cơ quan thuế. Hơn nữa, việc bố trí kế hoạch ngân sách cần phải chi tiết và đầy đủ các khoản hỗ trợ đã được quy định gồm các khoản trợ cấp, trợ giá, các khoản hỗ trợ lãi suất tiền vay, các khoản hỗ trợ trả nợ,... 2. Kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn ngân sách Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính là để nâng cao trách nhiệm của DNNN trong việc sử dụng các nguồn vốn nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiện nay, tỷ lệ thu sử dụng vốn ngân sách thấp hơn mức lãi suất cho vay của ngân hàng, đồng thời nếu DNNN kinh doanh thua lỗ thì không phải nộp thu sử dụng vốn ngân sách, do đó các DNNN có thể làm sổ sách không trung thực để trốn và chiếm dụng tiền nộp sử dụng vốn ngân sách. Việc nâng tỷ lệ thu về sử dụng vốn ngân sách ngang bằng với lãi suất cho vay vốn trên thị trường là để nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn ngân sách của các DNNN, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều hòa vốn của các Tổng công ty Nhà nước và đưa lại hiệu quả kinh tế cao cho toàn xã hội. 3. Kiến nghị phục vụ chương trình đầu tư phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam Chính sách đầu tư phát triển Giấy là mặt hàng đặc biệt mang tính chất xã hội. Về mặt quốc sách, Nhà nước cần xác định công nghiệp giấy là một trong những ngành công nghiệp cơ bản quan trọng. Do đó, Nhà nước cần thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư cho ngành giấy như sau: - Cho vay vốn ODA đầu tư phát triển công nghiệp chế biến và vùng nguyên liệu giấy. - Cho vay vốn đầu tư tín dụng dài hạn trong nước với mức lãi suất thấp. - Những dự án lớn (trên 50 triệu USD) được Nhà nước ghi vào công trình trọng điểm quốc gia. Chính sách nguyên liệu Chính phủ sớm phê duyệt quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu giấy và cơ chế, chính sách vùng nguyên liệu giấy làm cơ sở phát triển các vùng nguyên liệu. Khuyến khích nước ngoài đầu tư trồng rừng nguyên liệu giấy với chính sách ưu đãi, như giá thuê đất thấp, chu kỳ khai thác cây lần thứ nhất không phải nộp thuế,... Cho phép ngành giấy được đầu tư qua giá bán sản phẩm, khoảng 5% nếu có lãi để có thêm vốn trồng rừng phát triển nguồn nguyên liệu giấy. Chính sách tài chính, chính sách thuế. Cho phép ngành giấy giữ lại lãi trước thuế để đầu tư. Tạm thời từ nay đến năm 2006, Nhà nước không thu thuế doanh thu đối với các sản phẩm giấy. Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ tài chính bảo lãnh ngành giấy vay vốn nước ngoài để đầu tư cho các dự án đã được Chính phủ phê duyệt. Không phụ thu tiền điện đối với ngành giấy. Chính sách bảo hộ Nhà nước tiếp tục duy trì thuế nhập khẩu đối với mặt hàng giấy in, giấy in báo, giấy viết và hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này cho đến năm 2006 để ngành giấy có thời gian đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị,... tiến tới tham gia AFTA. Chính sách khoa học công nghệ và đào tạo Nhà nước tăng vốn hoạt động khoa học công nghệ và thay đổi cơ chế quản lý sử dụng nguồn vốn đối với ngành giấy theo hướng chuyển về ngành quản lý. Doanh nghiệp ngành giấy được trích 2-5% doanh thu để đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ. Nhà nước ưu tiên phân phối nguồn tài trợ của nước ngoài để đào tạo và chuyển giao công nghệ ngành giấy. Nhà nước tiếp tục cử đi đào tạo ở nước ngoài, tăng suất học bổng đào tạo hàng năm đối với các kỹ sư và công nhân kỹ thuật ngành giấy. Kết luận Được thành lập từ năm 1995 với nòng cốt là các doanh nghiệp riêng rẽ, mọi thứ đối với Tổng công ty Giấy Việt Nam còn rất mới mẻ. Trong quá trình hoạt động, Tổng công ty Giấy đã gặp không ít khó khăn. Mặc dù vậy, nhờ có chủ trương đúng đắn, kế hoạch phát triển hợp lý, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã biết vượt quá khó khăn, vươn lên trở thành một trong những Tổng công ty hàng đầu của Việt Nam, làm lợi cho Nhà nước hàng năm hàng chục tỷ đồng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, ngành giấy ngày nay đã bước tới “ngưỡng” của chính mình, đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với khu vực và thế giới, phải đối mặt với thực trạng yếu kém, gai góc để tồn tại hay không tồn tại: đó là sức mạnh cạnh tranh trong cơ chế thị trường, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập AFTA. Vì vậy, Tổng công ty Giấy Việt Nam phải không ngừng nỗ lực đổi mới toàn diện để tồn tại và phát triển, đặc biệt chú trọng công tác quản lý tài chính, trong đó có công tác điều hòa vốn. Để đạt được điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng công ty Giấy và các Bộ, ngành liên quan mà trước hết là các vấn đề về chính sách tài chính. Trong quá trình thực tập tốt nghiệp, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn cho mình một đề tài nghiên cứu, đó là cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam, với hy vọng rằng qua đó sẽ giúp em bổ sung, hoàn thiện thêm các kiến thức đã học ở trường. Mặc dù đã rất cố gắng, song do sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa, em rất mong nhận được sự góp ý, sự chỉ bảo quý giá của các thầy, cô trong việc hoàn thiện chuyên đề này. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô giáo Nguyễn Thị Bất và các cô, chú ở Tổng công ty Giấy Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Kinh tế học David Begg, NXB Thống kê - 1994 2. Kinh tế học Paul Samuelson, NXB Chính trị quốc gia - 1998 3. Thành lập và quản lý các Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Nguyễn Đình Phan, NXB Chính trị quốc gia - 1994 4. Giáo trình tài chính doanh nghiệp Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ, NXB Thống kê - 1998 5. Quy chế tài chính mẫu của các Tổng công ty Nhà nước 6. Quy chế tài chính của Tổng công ty Giấy Việt Nam 7. Báo cáo Tài chính của Tổng công ty Giấy Việt Nam năm 1998, 1999, 2000 8. Kế hoạch phát triển đến năm 2010 Tổng công ty Giấy Việt Nam 9. Luận văn tốt nghiệp 10. Tạp chí tài chính 11. Tạp chí Thông tin tài chính. 12. Tạp chí Kinh tế phát triển, Đầu tư,.. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0044.doc