Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay

I/ ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY Giai đoạn từ năm 1995 đến tháng 7/2000: Cơ chế điều hành lãi suất trần Năm 1995 vẫn là cơ chế điều hành khung lãi suất. Từ ngày 1/1/1996 đến tháng 7/2000, NHNN thực hiện bước thay đổi căn bản cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam theo hướng điều hành linh hoạt trần lãi suất cho vay (quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn cho vay trung hạn, trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn cao hơn

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành thị), bước đầu thực hiện tự do hóa lãi suất huy động. NHNN không còn quy định từng mức cụ thể lãi suất huy động, mà chỉ khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,35%/tháng, mức lãi suất huy động cụ thể do các NHTM tự quy định. Tiếp đến từ năm 1998, trong mối quan hệ hài hòa với tỷ giá nhằm hạn chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á 1997/1998 đến Việt Nam, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam có một số thay đổi cơ bản, đó là tự do hóa toàn lãi suất huy động (không còn quy định biên độ) và tiếp tục điều chỉnh linh hoạt trần lãi suất cho vay. Đồng thời, từ tháng 6/1999-8/2000 NHNN chỉ quy định 1 trần lãi suất cho vay áp dụng với cả cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn, nhưng vẫn giữ quy định trần lãi suất cho vay khác nhau giữa thành thị và nông thôn để đảm bảo chi phí hoạt động của các NHTM trên địa bàn nông thôn. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn…, cơ chế lãi suất trần đã trở nên không còn thích hợp, làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn trong xã hội và hạn chế khả năng cạnh tranh giữa các TCTD, hạn chế sự luân chuyển vốn trong xã hội, cũng như sự phát triển các công cụ thị trường tiền tệ. Đặc biệt trong tình hình diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế trong năm 2000 có xu hướng ngày càng tăng, việc thực hiện cơ chế lãi suất trần cho cả đồng Việt Nam và ngoại tệ đã cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài, gây thua thiệt cho DN cũng như các TCTD. NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất: - Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). - Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999. - Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. - Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn; - Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. (Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của TCTD. Giai đoạn từ 8/2000 đến 5/2002: cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.  Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo quy định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02 tháng 8 năm 2000 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam có những nội dung như sau: Nay thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ theo quy định cụ thể tại các điều dưới đây. Đối với lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ: Cho vay bằng Đôla Mỹ: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất Đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngành Ngân hàng Xinh-ga-po (lãi suất SIBOR) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung hạn, dài hạn tại thời điểm cho vay và một biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. Cho vay bằng các ngoại tệ khác: Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Quyết định trên được đưa ra để thay thế cho quyết định năm 1996. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy NHNN đã quan tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá và từng bước gắn lãi suất trong nước với thị trường khu vực và thế giới. Theo cơ chế này, NHNN công bố lãi suất cơ bản hàng tháng. Trên cơ sở lãi suất cơ bản, các TCTD được phép cộng thêm biên độ, đối với cho vay ngắn hạn cộng 0,3%/tháng, cho vay trung và dài hạn cộng 0,5%/tháng… Đến tháng 6/2001, lãi suất ngoại tệ đã được tự do hóa, mức lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ đều do các NHTM tự quyết định theo cung cầu vốn trên thị trường. Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các DN tại NHTM và tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN chưa được tự do hóa mà vẫn do NHNN quy định, nhằm khuyến khích các DN bán ngoại tệ cho các NHTM và các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài. các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Hình 1 cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, và kết quả, như trên Hình 1, là LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất. Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. Giai đoạn từ 6/2002 đến nay: Cơ chế lãi suất thoả thuận Từ ngày 1/6/2002, NHNN thay cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam thông qua lãi suất cơ bản và biên độ bằng việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Có thể nói, đó là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Để định hướng lãi suất thị trường, từ tháng 3/2003, NHNN đã bước đầu hình thành khung lãi suất với lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần theo hướng làm lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được quy định theo hướng làm lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng; đồng thời áp dụng phân bổ hạn mức chiết khấu. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Quá trình đổi mới kiểm soát lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất trần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận (thực chất là tự do hóa lãi suất) là những bước đi rất thận trọng và đến nay đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế, các lãi suất do NHNN công bố chưa có tác động hiệu quả đến lãi suất thị trường bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất chưa phản ánh xác thực tương quan cung – cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường tiền tệ; NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân hàng; việc tiếp cận các nghiệp vụ hỗ trợ vốn từ NHNN, nhất là nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu còn hạn chế; NHNN còn chưa xác định rõ cơ chế chuyển tải CSTT bao gồm cả việc xác định mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian của CSTT (NHNN cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu điều hành CSTT như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ, an toàn hệ thống). Đồng thời để hỗ trợ cho việc tự do hóa lãi suất, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cũng như cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn ngoại tệ có hạn chế, mở rộng thực hiện thí điểm các giao dịch hoán đổi giá cả hàng hóa. Ngoài ra, khi có yêu cầu, NHNN vẫn xem xét, cho phép các NHTM thực hiện thí điểm từng trường hợp cụ thể đối với các giao dịch phát sinh khác. Các biện pháp hỗ trợ này đã góp phần tạo điều kiện để các NHTM đa dạng hóa các sản phẩm, hạn chế và phòng chống rủi ro phục vụ khách hàng. Kết quả: Nguồn vốn huy động tăng 22,7%, thấp hơn so với kế hoạch (24-26%). Tốc độ tăng trưởng tiền gửi bằng VNĐ năm 2002 tăng tới 33,8% (năm 2001 tăng 21,8%), trong khi tốc độ tăng trưởng tiền gửi bằng ngoại tệ giảm xuống chỉ còn 6,1% so với năm 2001 (năm 2001 tăng 28,6%). Nguyên nhân là do tỷ giá giữa VNĐ và ngoại tệ (USD) tương đối ổn định trong khi chênh lệch lãi suất giữa huy động VNĐ và USD khá lớn (khoảng 6%/năm), làm cho việc gửi bằng VNĐ hấp dẫn hơn. Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2002 ổn định ở mức 0,6%/tháng; tuy nhiên, 4 tháng cuối năm lãi suất cơ bản đã tăng thêm (0,02%). Mặc dù nhu cầu tín dụng đã tăng lên trong những tháng cuối năm, nhưng lãi suất cơ bản vẫn được giữ ổn định; nhờ đó đã hạn chế sự nóng lên của thị trường vốn nội địa vào dịp cuối năm như đã từng xảy ra trong một số năm gần đây. Chính sách lãi suất và chính sách tín dụng đã khuyến khích các ngân hàng thương mại (NHTM) cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) vay. Kết quả là khu vực KTTN được phát triển đáng kể. GDP năm 2000 của khối doanh nghiệp này chiếm 42,3% GDP cả nước, khoản thu từ KTTN chiếm 14,7% tổng thu ngân sách. Năm 2002, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã sử dụng trên 50% tổng vốn tín dụng ngân hàng. Nhìn chung, có ba ý kiến khác nhau bình luận về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN: Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản + biên độ không có gì khác với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Đó là do chi phí cho vay các đối tượng này thường lớn nên không thể cho vay trong khuôn khổ trần lãi suất hay lãi suất cơ bản cộng biên độ. Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức LSCV khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, LSCV thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế lãi suất mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đó là vì, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho những doanh nghiệp nhà nước được chính phủ bảo lãnh ngầm vay vốn với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi cho khu vực này vay vốn là rủi ro hơn. Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro. Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy cho rằng: “Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này (cơ chế tự do hóa lãi suất) là tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay ... Một tác động khác của cơ chế mới là: Tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam.” Thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện cho thấy, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân, theo tác giả, chủ yếu vì: tính độc quyền của các NHTM nhà nước và những ưu đãi trong cho vay chỉ định của Chỉnh phủ. Trong mảng tín dụng thì “bốn đại gia” NHTM nhà nước đã chiếm trên 70% thị phần nên chưa tránh được việc lãi suất bị các ngân hàng này chi phối. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay theo qui định các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài (trừ các ngân hàng Mỹ), không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị trường của lãi suất. Theo quan điểm của tác giả, việc cho phép TCTD được tự thoả thuận lãi suất cho vay bằng VND dựa theo quan hệ cung-cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng trong điều kiện môi trường cạnh tranh giữa các TCTD chưa bình đẳng, một số vùng nông thôn còn chưa đa dạng về loại hình TCTD… cần có các giải pháp hỗ trợ tránh việc lãi suất có thể bị đẩy lên cao do sự độc quyền của một số TCTD có nguồn vốn lớn, làm mất tác dụng của cơ chế tự do hoá lãi suất. NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần phát huy vai trò của mình tránh để việc này xảy ra. Nên chăng nới rộng, tiến tới xóa bỏ các qui định về huy động tiền gửi VND cho các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, điều này cũng phù hợp với tiến trình hội nhập. Nếu nới lỏng các hạn chế như: không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh, các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ giảm được tình trạng thiếu nguồn vốn VND và do vậy có thể tham gia tích cực hơn vào nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó thì việc nâng cao hiệu ứng tác động của lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất liên ngân hàng và lãi suất thị trường cũng cần được chú ý đúng mức. Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trò là lãi suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định làm sàn của thị trường liên ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm (tháng 6/2003) và từ tháng 9/2003 là 2%/năm phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo ra một khung lãi suất để cho các mức lãi suất liên ngân hàng biến động. Lãi suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu. Từ khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất thị trường có lúc tăng lên, rồi lại giảm do NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu, sửa đổi cơ chế cho vay ngắn hạn, chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN đối với NHTM để mở rộng khả năng tiếp cận kênh tái cấp vốn cho các NHTM, các NHTM Nhà Nước đã hiệp thương thoả thuận thống nhất việc giảm LSTG và khống chế chung mức trần LSTG, các NHTM khống chế tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung và trên cơ sở nguồn vốn huy động. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn đã bước đầu có tác động đến lãi suất thị trường. Song tác động này còn hạn chế. Do qui mô, độ sâu của thị trường tiền tệ ở mức thấp và trong điều kiện dư thừa vốn khả dụng thì việc điều chỉnh giảm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng chỉ có tác dụng phát tín hiệu nới lỏng tiền tệ để định hướng lãi suất thị trường, ít có tác động đến khối lượng tiền cung ứng và cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Dầu vậy, việc thường xuyên điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn căn cứ vào mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ để hoàn thiện khung lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn rất cần thiết để lãi suất tái cấp vốn phát huy tác động hiệu ứng của nó. Quá trình đổi mới kiểm soát lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất trần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận (thực chất là tự do hóa lãi suất) là những bước đi rất thận trọng và đến nay đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế, các lãi suất do NHNN công bố chưa có tác động hiệu quả đến lãi suất thị trường bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất chưa phản ánh xác thực tương quan cung – cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường tiền tệ; NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân hàng; việc tiếp cận các nghiệp vụ hỗ trợ vốn từ NHNN, nhất là nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu còn hạn chế; NHNN còn chưa xác định rõ cơ chế chuyển tải CSTT bao gồm cả việc xác định mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian của CSTT (NHNN cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu điều hành CSTT như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ, an toàn hệ thống). Đồng thời để hỗ trợ cho việc tự do hóa lãi suất, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cũng như cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn ngoại tệ có hạn chế, mở rộng thực hiện thí điểm các giao dịch hoán đổi giá cả hàng hóa. Ngoài ra, khi có yêu cầu, NHNN vẫn xem xét, cho phép các NHTM thực hiện thí điểm từng trường hợp cụ thể đối với các giao dịch phát sinh khác. Các biện pháp hỗ trợ này đã góp phần tạo điều kiện để các NHTM đa dạng hóa các sản phẩm, hạn chế và phòng chống rủi ro phục vụ khách hàng. II/ GIẢI PHÁP ĐỂ THÀNH CÔNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM Quá trình tự do hóa lãi xuất ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1992 khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chuyển việc điều hành lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương. Để quá trình tự do hóa lãi suất thành công, “Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường... Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường và đi tới loại bỏ quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ”, cần có các giải pháp sau: Hoàn thiện các quy định về lãi suất, quy chế quản lý ngoại hối theo thông lệ quốc tế Hiện nay, hoạt động lãi suất của nước ta còn ở mức độ tự do hóa thấp. Chúng ta đang quy định lãi suất thỏa thuận, song NHNN vẫn công bố lãi suất cơ bản hàng tháng dựa trên lãi suất cho vay của 15 khách hàng kinh doanh hiệu quả nhất trong từng thời kỳ. Nhà nước cần công bố lãi suất tiền gửi và cho vay bằng đồng Việt Nam tính theo năm, các kỳ hạn cụ thể đối với lãi suất cho vay và huy động được tính trên cơ sở lãi suất năm như đối với lãi suất ngoại tệ cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Thời gian qua, lãi suất tiền gửi và cho vay tại các NHTM trong nước được ấn định tương đối cao để phù hợp với mức lạm phát từng thời kỳ. Nếu tính lãi suất theo năm sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của người vay do mức lãi suất quá cao. Nhưng hiện nay lãi suất đang được duy trì ở mức thấp, nên hoàn toàn có điều kiện để xác định và công bố lãi suất theo năm đối với cả tiền gửi và cho vay, theo đúng thông lệ quốc tế. Hơn nữa việc tính lãi suất theo năm sẽ phản ánh một cách chính xác các chi phí về vốn đối với người gửi, người vay và các NHTM. Việc phát hành trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ phải được tiến hành thông qua đấu thầu qua NHNN và thị trường chứng khoán. Nên chấm dứt hình thức phát hành trực tiếp tới dân chúng theo lãi suất cố định. Tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa lãi suất tín dụng nhà nước và lãi suất kinh doanh của các NHTM, đồng thời tiết kiệm chi phí cho NSNN. NHNN cũng nên bỏ khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại các Tổ chức tín dụng để tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nên trao quyền cho các Tổ chức tín dụng tự chủ trong việc phát hành trái phiếu của mình trên cơ sở các điều kiện và quy định của Nhà nước. Tiến tới thực hiện cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của NHNN - lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cho vay qua đêm. Với lãi suất cơ bản, khi đã bỏ biên độ thì vai trò của nó thực chất chỉ còn mang tính hướng dẫn, tham khảo, không có vai trò kiểm soát và tác động trực tiếp tới lãi suất trên thị trường. Vì vậy, vần chuyển sang cơ chế lãi suất chỉ đạo của NHNN. Trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập, lãi suất có quan hệ mật thiết với tỷ giá (lãi suất ngoại tệ). Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất, nếu lãi suất có hướng giảm thì ngược lại, người ta lại quan tâm đến tỷ giá. Các hành vi bán - mua - gửi ngọai tệ luôn quan hệ xoắn xuýt với nhau và nó sẽ tạo ra dòng chuyển giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Vì vậy, quan tâm đến lãi suất không thể không quan tâm đến tỷ giá và ngược lại. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về lãi suất, NHNN cần ban hành đồng bộ hơn quy chế về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. Có nghĩa là: Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản về chính sách quản lý ngoại hối: tăng cường công tác quản lý ngoại hối khu vực biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Sửa đổi một số nghị định ban hành năm 1998 và 1999, minh bạch hóa chính sách và cải cách hành chính về quản lý ngoại hối. Pháp lệnh ngoại hối cần khẩn trương đi vào thực tiễn và đồng bộ hóa các văn bản hướng dẫn, đánh giá mức độ thực thi của Pháp lệnh ngoại hối. Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng để có thể đảm đương được nhiệm vụ chuyển tiền, thanh toán ngoại hối cho khách hàng một cách thuận lợi nhất. Luật hóa các hoạt động ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư, vay và cho vay, bảo lãnh, mua bán các giao dịch về ngoại hối. Nghiên cứu cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế kể cả NHTM được phép thu hút ngoại tệ thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra thị trường trong nước và quốc tế. Sửa đổi các quy định về tiền tệ, ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài với tinh thần thông thoáng nhất, tự do hóa thị trường giao dịch ngoại hối để các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện thuận lợi khu mua bán ngoại tệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đổi mới căn bản cơ chế quản lý ngoại hối và cơ chế quản lý nợ nước ngoài theo hướng tự do hóa giao dịch vãng lai, kiểm soát có lựa chọn giao dịch tài khoản vốn, trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện thị trường hối đoái. Đổi mới chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá hình thành một cách khách quan trên cơ sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước. Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng song song với việc phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Quản lý chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát chặt chẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của các NHTM cho các doanh nghiệp vay từ nước ngoài. Cải cách hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân mở tài khoản séc cá nhân và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Tăng cường mệnh giá đồng Việt Nam. Tiếp tục khép dần khoảng cách giữa lãi suất cho vay đồng ngoại tệ và lãi suất cho vay đồng nội tệ. Lãi suất đồng ngoại tệ phải có sức hấp dẫn để thực hiện tốt chính sách thu hút vốn hiện nay ở nước ta. Việc giảm chênh lệch giữa lãi xuất đồng ngoại tệ và đồng nội tệ là làm cho chêng lệch này phản ánh đúng rủi ro tín dụng và dự tính của tỷ giá. Theo đó, khi tỷ giá biến động có chiều hướng tăng thì NHNN có thể tăng lãi suất để phản ánh đầy đủ rủi ro và ngăn chặn xu hướng tăng tỷ giá. Từng bước nới lỏng các quy định mang tính hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho các NHTM NHTMNN là đối tượng phải chịu nhiều quy định mang tính hành chính, làm mất đi sự linh hoạt và chủ động trong các quyết định kinh doanh. Điều đó thể hiện trước hết ở các hoạt động cho vay theo chri định, cho vay chính sách. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn rất cao ở các ngân hàng này. Vì thế, cần dỡ bỏ các ràng buộc về mặt hành chính để các NHTMNN tự chủ hơn trong kinh doanh, bằng việc xóa bỏ dần cho vay chính sách trong các NHTM hoạt động kinh doanh. Nâng cao năng lực quản lý và vai trò giám sát của NHNN Cùng với việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp, NHNN trở thành cơ quan quản lý đối với hoạt động ngân hàng, là người đóng vai trò tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng, đồng thời giám sát hoạt động, làm tăng tính hiệu quả các hệ thống NHTM. Vì thế, quá trình tự do hóa tài chính muốn thành công không thể thiếu vai trò chỉ lối đưa đường của NHNN. Muốn vậy: Cần nâng cao vị thế độc lập của chính sách tiền tệ và quyền tự chủ của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ. Đổi mới cơ cấu tổ chức của hệ thống NHNN theo hướng tập trung quản lý, điều hành, nâng cao tính chuyên môn hóa; xác định rõ ràng chức năng nhiệm vụ và tăn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31170.doc