Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Đi tìm một cơ chế tỷ giá hối đoái thích hợp cho đồng tiền của quốc gia mình luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ tại các Ngân Hàng TrungƯơng (NHTƯ) .Riêng đối với các nước đang phát triển ở Đông Nam á, trong đó có Việt Nam thì điều này càng đặc biệt có ý nghĩa bởi vì tỷ giá hối đoái không chỉ là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ trong viẹc ổn định giá trị đồng nội tệ mà còn là cầu nối để một nền kinh tế h
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội nhập với nền kinh tế thế giới .Là một loại giá cả quan trọng được hình thành bởi quan hệ cung cầu trên thị trường hối đoái, tỷ giá hối đoái có giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp đến các mặt đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước .Cụ thể, tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh rồi đến thu nhập quốc dân và cuối cùng là tác động đến quyết định tiêu dùng của người dân. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái thực sự là vấn đề phức tạp cả trong lý thuyết cũng như trong thực tiễn. Do đó để xác định được cơ chế tỷ giá phù hợp với tình hình thực tế về định hướng của mỗi nước, phải đặt tỷ giá trong mối quan hệ vơí các yếu tố của nền kinh tế như lạn phát, cán cân thanh toán… Đặc biệt sự ổn định của nền kinh tế là yếu tố quyết định đến sự ổn định của đồng tiền.
ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay vấn đề tỷ giá đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập định chính sách. Bởi vì có nhiều ý kiến cho rằng đồng nội tệ đang được định giá cao song cũng có ý kiến cho rằng đồng nội tệ được địng giá sát so với giá trị thực của nó. Thêm vào tỷ giá VND/USD liên tục tăng trong thời gian vừa qua cộng với hiện trạng găm ngoại tệ cũng như tâm lý chờ tỷ giá tăng sẽ khiến tỷ giá còn tăng tiếp tục trong tương lai. Tìm hiểu nguyên nhân của những biến động trên và việc ngân hàng nhà nước Việt Nam(NHNNVN) Đã can thiệp như thế nào để đưa ra một cơ chế phù hợp với nền kinh tế nước ta đã thực sự thu hút em khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “ cơ chế điều hành của ngân hàng nhà nước Vịêt Nam”. Với sự hạn chế kiến thức và kinh nghiệm thực tế do đó tiểu luận này không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự chỉ bảo, góp ý kiến của thầy cô, các bạn và những ai quan tâm đến vấn đề này .
Cuối cùng em xin cảm ơn cô Hà Thị Sáu và các thầy cô trong bộ môn Ngân hàng Trung ương đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành tiểu luận.
Hà Nội, tháng 4 năm 2003
Phân 1 : đại cương về tỷ giá hối đoái
I- Khái niệm và phương pháp biểu hiện tỷ giá
1. Khái niệm
Ngày nay mỗi quốc gia muốn tồn tại và phát triển phải tham gia vào thương mại quốc tế. Ơ dạng đơn giản nhất, hoạt động thương mại là hoạt động mua bán hàng giữa các cá nhân hay tổ chức ở các quốc gia khác nhau. Do mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng nên trong khi thanh toán thì phải có sự chuỷên đổi đồng tiền từ nước này sang nước khác theo một tỷ lệ nhất định. Điều này, đã hình thành nên khái niệm: Tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ nước khác.
Thí dụ: 1 USD = 15275VND
Trong thí dụ trên tỷ giá giữa đồng Việt nam(VND) và USD là 15275 thì nghĩa là phải bỏ ra 15275 VND thì mua được 1USD hay nói cách khác đi giá trị thay đổi thời điểm là 1USD tương đương với 15275 VND trên thị trường.
2- Phương pháp biểu hiện tỷ giá hối đoái
2.1. Phương pháp yết gián tiếp:
Phương pháp yết gián tiếp là phương pháp biểu hiện một đơn vị tiền tệ trong nước thể hiện bằng các đơn vị tiền tệ nước ngoài. Ví dụ: Tại thị trường hối đoái London(Anh) yết giá một bảng Anh(GBP) =1.5315đô la Mỹ (USD)
2.2. Phương pháp yết trực tiếp:
Phương pháp yết trực tiếp là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ nước ngoài bằng các đơn vị tiền tệ trong nước. Ví dụ:Tại thị trường hối đoái việt nam yết giá 1USD = 15275 VND hay (VND/ USD) = 15275. Đây cũng là cách yết giá được sử dụng trong bài viết
II- Vai trò của tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái là một công cụ của Chính sách tiền tệ
Bất kỳ một chính sách tiền tệ nào cũng nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng: ổn định giá trị tiền tệ. NHTƯ thông qua nhiều công cụ để đạt được mục tiêu này. Trong đó, tỷ giá là công cụ được cung được chấp nhận trên thị trường quốc tế để điều chỉnh các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm ổn định giá trị tiền tệ đối ngoại tạo điều kiện cho ngoại thương phát triển, từ đó tăng trưởng kinh tế dẫn tới ổn định giá trị đồng tiền tệ thông thường NHTƯ là chủ thể được nhà nước giao nhiệm vụ lập chính sách, sử dụng dự trữ ngoại tệ, có quyền can thiệp vào thị trường hối đoái để thiết lập nên một tỷ giá thích hợp nhằm đạt tới mục tiêu kinh tế đã đề ra. Bên cạnh đó, thông qua việc mua ngoại tệ trên thị trường, NHTƯ phát hành thêm tiền vào lưu thông, hoặc thông qua việc bán ngoại tệ nhập khẩu, trả nợ… ổn định tỷ giá có một vị trí quan trọng trong ổn định nền kinh tế. Sự mất giá tiền tệ thể hiện qua tỷ giá ngày càng ảnh hưởng không những đối với xuất nhập khẩu mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đên tốc độ phát triển của nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Một nước có sự mất giá tiền tệ thường sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán trên thị trường quốc tế, từ đó gây nên khủng hoảng kinh tế đất nước.
2. Tỷ giá ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng dịch vụ ngày nay đều hoặc chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của tỷ giá. Với tư cách là loại giá cả quốc tế, tỷ giá hối đoái được dùng để tính toán và thanh toán cho hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, khi tỷ giá hàng hoá sản xuất trở nên hấp dẫn hơn trên thị trường quốc tế vì chúng rẻ hơn tương đối so với hàng cùng loại do nước ngoài sản xuất. Do đó doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn không chỉ từ việc hưởng trênh lệch tỷ giá mà còn bán được nhiều hàng hoá hơn. Tuy nhiên không nghĩa là tỷ giá càng tăng (nội tệ càng mất giá) thì càng thu nhiều lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Điều này chỉ đúng khi tỷ giá tăng đến một giá trị nhất định. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thì ngược lại, nếu tỷ giá tăng họ phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để mua một đơn vị ngoại tệ cho nhập khẩu và họ sẽ có lợi khi mua ngoại tệ để nhập khẩu trong trường hợp tỷ giá giảm.
Với xu thế phân công lao động quốc phát triển, sản suất là để xuất khẩu để thoả mãn thì phải nhập nên tỷ giá có một vị trí lớn. Sự biến động tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sản suất toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu á năm 1998 vừa qua là một vị trí điển hình.
Đối với các doanh nghiệp đang sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu tư liệu sản suất, trả lương chuyên gia, thuê mua tài sản kinh doanh… Khi tỷ giá tăng lên sẽ dẫn đến việc trả nợ trở nên khó khăn thậm trí thua lỗ, phá sản. Do đó các doanh nghiệp khi vay, trả nợ phải xác định xem nên chọn đồng tiền nào cho phù hợp.
3. Tỷ giá đối với lưu thông tiền tệ và đầu tư nước ngoài
Thông qua điều tiết cung- cầu ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái tác động đến tốc độ và lưu lượng của các luồng ngoại tệ vào và ra nền kinh tế. Tỷ giá cao có thể được NHTƯ sử dụng như một nam châm hút ngoại tệ từ nước ngoài. Cung ngoại tệ sẽ tăng theo chiều tăng của tỷ giá bởi người ta hấp dẫn bởi một đơn vị ngoại tệ tỷ giá mới mang lại cho nước sẽ có nhiều cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn là đầu tư ở những nước khác. Vốn sẽ được di chuyển vào trong nước. Như vậy, tỷ giá hối đoái cao lúc này đóng vai trò là một nguồn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế. Ngược lại, khi tỷ giá khi tỷ giá hối đoái giảm, giá cả hàng nội địa trở nên, nếu đầu tư vào trong nước thì nhà đầu tư phải chấp nhận mức chi phí sản xuất cao hơn đồng nghĩa với mức lợi nhuận thấp hơn so với đầu tư ở các quốc gia khác. Chính phủ thấy tác động xấu của tỷ giá thấp buộc phải can thiệp làm giảm tốc độ đến lưu lượng luồng ngoại tệ này bằng một tỷ giá cao hơn. Như vậy, NHTƯ có thể tác động tới lưu lượng cung cùng cầu ngoại trong nước và cả quốc tế, từ đó có thể tham gia điều tiết lượng ngoại tệ lưu thông trên thị trường, thu hút vốn đầu tư.
4. Tác động của tỷ giá tới lãi suất
Nếu như lãi suất thực sự là một yếu tố quan trọng quyết định gián tiếp đến sự hình thành lên mức lãi suất, có tác dụng điều chỉnh mức lãi suất. Khi nội tệ bị mất giá không như mong đợi, NHTƯ phải có biện pháp điều chỉnh lãi suất cao lên để thu hút lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nhưng sau khi nội tệ đã tương đối ổn định ở mức chính phủ mong muốn thì cần phải hạ lãi suất hoăc rút ngắn chênh lệch cho phù hợp, để thúc đẩy sản suất và phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ. Nứukéo dài tình trạng trên, lãi suất ngân hàng cao hơn lãi suất thực tế của nền kinh tế, cộng với số lãi thanh toán khá lớn sẽ gây sức ép buộc NHTƯ phải phát hành thêm tiền để trả nợ, làm tăng mức cung nội tệ. Kết quả là nội tệ vẫn bị đánh giá thấp và có khả năng thấp hơn nữa do mức độ lạm pháp ngày càng cao. Điều này gây tâm lý bất an trong dân chúng về nội tệ, họ sẽ cố gắng gửi ngoại tệ, làm cho nền kinh tế càng tồi tệ. Do vậy tỷ giá còn ảnh hưởng đến tâm lý cất trữ và đầu tư của công chúng.
III- Các chế độ tỷ giá và kinh nghiệm lựu chọn của các nước:
1. Các chế độ tỷ giá
Những quốc gia độc lập thường thiết lập một khung pháp lý bao gồm những quy tắc xác định những phương thức mua bán ngoại tệ. Yếu tố then chốt cua khung pháp lý này là chế độ tỷ giá hối đoái. Cho đến nay có ba loại chế độ tỷ giá cơ bản mà chúng ta đã biết là: Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn; chế độ tỷ giá cố định; chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết.
1.1. Chế độ tỷgiá thả nổi hoàn toàn :
Là chế độ tỷ giá, trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào cuả NHTƯ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự bién động của tỷ giá luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung – cầu trên thị trường ngoại hối và tỷ giá luôn đạt được ở mức cân bằng cung – cầu; do đó nền kinh tế có xu hướng đạt tới trạng thái cân bằng bên ngoài một cách tự động. Chính vì vậy NHTƯ không nhất thiết dữ trữ ngoại hối. Từ đó cho thấy, trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn thì tỷ giá dao dịch trên thị trường luôn là cân bằng cung cầu. Vì vậy, nội tệ không bị định giá coa hay bị đánh giá thấp so với tỷ giá cân bằng.
1.2- Chế độ tỷ giá cố định:
Là chế độ tỷ giá, trong đó NHTƯ buộc phải can thiệp trên thị trường để duy trì tỷ giá biến động xung quanh tỷ giá do NHTƯ ấn định trong một biên đạo hẹp. Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTƯ phải có nguồn sãn dự trữ ngoại hối nhất định. Cũng giống như trên các thị trường hàng hoá khác, khi chính phủ cố định giá cả thì luôn tồn tại một sự trênh lệch nhất định giữa cung và cầu. Trong trường hợp tỷ giá thay đổi để cho tỷ giá đạt được cân bằng NHTƯ buộc phải hấp thụ toàn bộ mức chênh lệch giữa cung và cầu ngoại tệ bằng cách mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, làm cho dự trữ ngoại hối của NHTƯ thay đổi. Điều này khác chế độ tỷ giá thả nổi, khi mà cung cầu ngoại tệ thay đổi làm cho tỷ giá thay đổi chứ không phải dự trư ngoại hối của NHTƯ.
Nếu như NHTƯ ấn định tỷ giá thấp hơn tỷ giá cân bằng cung cầu trên thị trường, thì nội tệ được coi là “ Định giá quá cao” so với tỷ giá cân bằng; ngược lại nếu như NHTƯ ấn định tỷ giá cao hơn tỷ giá cân bằng nội tệ được coi là “ định giá quá thấp” so với tỷ giá cân bằng.
1.3- Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết:
Trong thực tế NHTƯ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối hay cả trong trường hợp NHTƯ không ấn định tỷ giá, chế độ tỷ giá như vậy được gọi là chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Từ đó cho thấy, chế độ tỷ giá thả nổi khác với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn là ở chỗ NHTƯ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá; đồng thời khác chế độ tỷ giá cố định ở chỗ NHTƯ không ấn định tỷ giá và không buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá cố định. Chính vì vậy, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết được xem như chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
2. Kinh nghiệm của các nước:
Để xác định được một cơ chế quản lý tỷ giá phù hợp với điều kiện của nền kinh tế trong từng thời kỳ là một công việc vô cùng khó khăn , phức tạp song không phải là khong làm được.Kinh nghiệm thực tế cho thấy, đã có nhiều nước lựa chọn được một cơ chế điều hành tỷ giá thành công cho nước mình trong một thời gian dài.
Tại các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Đức… ở đó nền kinh tế mở phát triển ở giai đoạn cao thì chế độ “tỷ giá thả nổi” thực sự phù hợp để một nền kinh tế hoạt động hiệu quả.Nghĩa là tỷ giá ở đây được quy định quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, NHTƯ tham gia vào thị trường hối đoái với tư cách là một chủ thể thông thường .Tuy nhiên, họ vẫn có thể tác động nếu như tỷ giá có sự biến động lớn.
Tại các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) đang trong giai đoạn đầu của nền kinh tế mở, thì việc thả nổi tỷ giá là việc không thể thực hiện bởi nó sẽ dẫn tới sự bất ổn trong kinh tế, chính trị của đất nước do tiềm lực tài chính yếu, cấu trúc thị trường lỏng lẻo.Vậy cơ chế tài chính nào sẽ được áp dụng thành công ở Việt Nam. Chúng ta sẽ học hỏi kinh nghiệm lựa chọn cơ chế quản lý tỷ giá thành công của hai nước trong khu vực: Ma-lai-xi-a và Trung Quốc.
Kinh nghiệm của Ma-lai-xi-a
Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á suất phát từ Thái Lan năm 1997 hầu hết các đồng tiền của các nước đều mất giá mạnh, nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ. Trong khi các nước đang đi tìm một cơ chế quản lý tỷ giá một cách phù hợp thì Ma-lai-xi-a nước duy nhất trong các nước bị khủng hỏang nặng nề đã đi ngược quan điểm tài chính chung trên thế giới để vời nới lỏng chính sách tiền tệ vừa áp dụng một chế độ quản lý ngoại hối từ ngày 2 tháng 9 năm 1998, sau khi các biện pháp tài chính khắc khổ và thắt chạt tín dụng theo IMT không giúp phục hồi được nền kinh tế Ma-lai-xi-a. Theo quản lý ngoại hối mới. NHTƯ Ma-lai-xi-a đã ấn định tỷ giá đông Ringgit ở mức 3,8MYR/USD và đưa ra một loạt quy định kiểm soát về ngoại hối, ví dụ như :các khoản ngoại tệ đổ vào thị trường chứng khoán Ma-lai-xi-a chỉ để rút ra sau thời hạn 12 tháng, bài bỏ các giao dịch bằng đồng MYT ở nước ngoài, các du khách tới Ma-lai-xi-a chỉ được mang ra khỏi nước này một lượng tiền tương đương với lượng tiền họ đã mang vào, hạn chế tối đa lượng tiền của người dân Ma-lai-xi-a được mang ra nước ngoài… nhằm khôi phục tính độc lập của đồng MYT và giảm thiếu những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu vực. Chế độ tỷ giá “neo tỷ giá” đi kèm với những biện pháp kiểm soát ngoại hối thực sự đã mang lại luồng sinh khí mới cho nền kinh tế đã lâm vào suy thoái trng vòng 13 năm qua như Ma-lai-xi-a. Những thành công thực tế là: tỷ lệ lạm phát từ 3,5%(1998) xuống còn 2,6%(2001); kim ngạch suất khẩu hàng hoá tăng mạnh từ mức 71,9 tỷ USD(1998) lên 29,9 tỷ (2000)USD; nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài âm năm 1998 đã liên tục gia tăng mạnh góp phần giúp tài khoản vãng lai của Ma-lai-xi-a luôn thặng dư ở mức cao (10% GDP năm 2000).Tóm lại chế độ “neo tỷ giá” thực sự góp phần quan trong duy trì hữu hiệu tỷ giá đồng Ringgit ở mức 3,8 MYT/USD suốt từ 2/9/1998 đến nay tạo cơ sở củng cố lòng tin vào sự phục hồi vào tăng trưởng kinh tế – tài chính của Ma-lai-xi-a và do vậy vẫn không ngừng đáng kể đầu tư nước ngoài giúp Ma-lai-xi-a có thể đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 6,5% năm trong thập kỷ 2000-2010 như dự báo mới đây.
Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh và ổn định hàngđầu Châu á đã áp dụng thành công tỷ giá hối đoái “thả nổi có quản lý” suốt từ đầu năm 1994 đến nay. Việc điều chỉnh tỷ giá đồng Nhân Dân Tệ(NDT) được dao động trong biên độ hẹp và NHTƯ có thể điều chỉnh tỷ giá mục tiêu trên cơ sở các biện pháp vĩ mô trong nước đi kèm với các biện pháp chặt chẽ vốn ra vào của chính phủ đã làm cho đồng tiền ổn định và tạo ra lòng tin thông qua việc đưa đồng tiền đến gần giá trị thực của nó. Từ tháng 12/1996 đồng NDT được chính thức chuyển đổi trên các giao dịch tài khoản vãng lai sau khi được ấn định ở mức tỷ giá 8,27 NDT/USD với biên độ giao động hẹp ±0,125% trên cở sở các thành tựu kinh tế to lớn đạt được năm 1996: GDP tăng 9,8%, lạm phát giảm mạnh xuống 6,3% từ mức 14,8% năm 1995, đầu tư nước ngoài tăng 13% , xuất siêu 14,3 tỷ NDT và dự trữ ngoại tệ mạnh tăng lên mức 105 tỷ USD. Chính chế độ tỷ giá “thả nổi có quản lý” như vậy đã biến Trung Quốc thành khu vực an toàn thu hút đầu tư nước ngoài rất mạnh kể cả trong thời kỳ khủng hoảng khu vực và đó cũng là một nguyên nhân cơ bản không những giúp Trung Quốc thoát khỏi khủng hoảng mà còn tăng trưởng cao ổn định trong suốt nửa cuối của thập kỷ 90. Đồng NDT ổn định quanh mức 8,27 NDT/USD trong hơn 5 năm qua đã thực sự là chỗ dựa vững chắc để giữ giá cho các đồng tiền ở Đông Nam á không bị rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tề khu vực. Qua đó, vai trò của đồng NDT trong khu vực đã được củng cố và ngày càng được nâng cao nhờ sự tăng trưởng mạnh và vững chắc của nền kinh tế Trung Quốc: Tính đén cuối năm 2000 GDp tăng trưởng 8% ;lạm phát 0,4% (đã thoát khỏi tình trạng- 1,5% năm 1999) đầu tư nước ngoài đạt gần 168 tỷ USD. Việc trung Quốc gia nhập tổ chức thế giới WTO trong thời gian vừa qua đã khiến nước này phải lới lỏng các quy định ngoại hối ví dụ như mở rộng biên độ giao động đồng NDT ở mức ±5%. Trong tiến hành thực hiện tự do hoá dao dịch đồng NDT chính phủ Trung Quốc đã thể hiện dõ quan điểm kiên quyết cải cách hệ thống tài chính – tiền tệ phỉa theo dần từng bước, đảm bảo có hiệu quả không thể để sai lầm về mặt chính sách sẽ gây bất ổn về kinh tế và gây xáo trộn về xã hội. Trong thời gian tới NHTƯ Trung Quốc dự kiến sẽ vẫn tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá “ Thả nổi có quản lý” bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết và thực hiện tự do hoá lãi suất đồng nội tệ trong thời gian tới mục tiêu của chính phủ Trung Quốc là trong 10 năm nữa đồng NDT trở thành đồng tự do chuyển đổi sang các đồng ngoại tệ khác và ngược lại.
ý nghĩa của việc nghiên cứu:Việc nghiên cứu các chế độ tỷ giá và kinh nghiệm lựa chọn cơ chế quản lý tỷ giá thành công của các nước trong khu vực là việc làm cần thiết bởi nó không chỉ giúp chúng ta học hỏi kinh nghiệm mà còn cho thấy sự lựu chọn sáng suốt, phù hợp của các nhà lập chính sách có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng một cơ chế quản lý tỷ giá thành công. Nhiều nhà kinh tế cho rằng “ thả nổi quản lý” là cơ chế tỷ giá hối đoái VND/USD phù hợp với bối cảnh hiện nay và thời gian tới ở Việt Nam
Phần II: Cơ chế điều hành tỷ giá của nhnn Việt Nam
I- Đánh gía cơ chế tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
1- Tiến trình cải cách tỷ giá hối đoái của Việt nam qua các năm
Tháng 3/1989, NHNN áp dụng nhiều biện pháp đổi mới trong chính sách tỷ giá xoá bỏ chế độ nhiều tỷ giá gần sát với tỷ giá của thị trường.
Năm 1991, tỷ giá hình thành trên quan hệ cung cầu được xác định qua đấu thầu tại Trung giao dịch ngoại tệ Tp. Hồ Chí Minh ( 8/1991) và Hà Nội (10/1991) :Tỷ giá mua bán ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại được phép ±0,5%
Tháng 8/1994 tỷ giá bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế theo mức độ tối đa bằng tỷ giá chính thức . ( Quyết định 177_QĐ_NH7 ngày 28/ 8/1994 ).
Tháng 9/1994 ,NHNN công bố tỷ giá chính thức giữa VNĐ so với một số loại ngoại tệ và cho phép các Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ ấn định tỷ giá buôn bán trong biên độ cho phép so với tỷ gía chính thực (Quyết định 205/QĐ_NH7 ngày 20/9/1994). Mức độ quản lý này thay đổi liên tục từ năm 1994 đến tháng 2 năm 1999.
Tháng 10/1994 tỷ giá mua/ bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trong biên độ ± 0,5% so với tỷ giá chính thức do NHNN công bố; chênh lệch tỷ giá mua vào/ bán ra chỉ được phép tối đa 0,1% (Quyết định 254/ QĐ_NH7 ngày 3/ 10/ 1996).
Tháng 11/ 1996 , tỷ giá giao dịch ngoại tệ được quản lý trong biên độ ±1% so với tỷ giá chính thức (Quyết định 311/ QĐ_NH7 ngày 21/ 11/ 1996)
Tháng 2/1997, tỷgiá giao dịch ngoại tệ được quản lý trong biên độ±5%và tỷ giá bán ra tối đa không được quá tỷ giá mua vào +0,1% (Quyết định 45/ QĐ-NH ngày 27/ 2/ 1997 )
Tháng 10/ 1997, tỷ giá giao dịch ngoại tệ dược quản lý trong biên độ ±10%(Quyết định 342/ QĐ_NH7 ngày 13/ 10/ 1997).
Tháng 2/ 1998, tỷ giá chính thức được phá 6%biên độ giao dịch giữ nguyên ±10% (Quyết định 37/ TTg ngày 14/ 2/ 1998 về tăng cường quản lý ngoại hối ).
Tháng 8/ 1998, tỷ giá giao dịch ngoại tệ đựơc quản lý trong biên độ ±7% (Quyết định 267/ QĐ_NHNN7 ngày 6/8/1998 và đồng Việt nam được phá 10%)
Tháng 2/1999, tỷ giá giao dịch được quản lý trong biên độ không quá 0,1% so với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày (NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức, thay vì công bố tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó ; Quyết dịnh 64/NHNN7 ngày 25/2/1999 ).
Tháng 7/2002 ,NHNN mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch lên 0,25% so với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Quyết định này đã quy định cả tỷ lệ tối thiểu sàn –0,25%. (Quyết định 679/2002/QĐ/NHNN ngày 1/7/2002).
Tháng 9/2002 NHNN quết định mở rộng đối tượng chi trả kiều hối.
2- Một số nhận định
Qua tiến trình cải cách tỷ giá hối đoái chi thấy NHNN Việt Nam đã từng bước điều chỉnh và đưa ra được cơ chế quản lý tỷ giá phú hợp, phản ánh trung thực về tình hình cung cầu ngoại tệ .
Nhận xét về tiến trình này, chúng ta cùng nghiên cứu một số mốc thời gian quan trọng khi đó việc cải cách mang lại sự đột phá về chất cho cơ sở quản lý tỷ giá của NHNN.
Thời điểm tháng 3/1989 : Trước năm 1989 ở Việt Nam tồn tại nhiều tỷ giá hối đoái khác nhau và phần lớn các tỷ giá này do NHNN ấn định cứng nhắc sai lệch với tỷ giá thực trên thị trường, làm thất thoát các nguồn ngoại tệ ( ước tính Nhà nước chỉ thu được 10% ngoại tệ thu được từ xuất khẩu ). Hoạt động ngoại thương được trợ cấp thông qua tỷ giá thấp . Thực trạng này góp phần tăng lạm phát, bội chi ngân sách, thiếu hụt cán cân thanh toán Quốc tế và do đó cũng làm sai lệch mọi chi tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại mà khi đó chủ yếu là ngoại thương. Cho đến tháng 3/1989 Ngân hàng nhà nước đã phá giá đồng nội tệ đưa tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thực tế. Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện cải cách chế độ và hệ thống tỷ giá ở nước ta. Chính sách tỷ giá này góp phần quan trọng trong việc mở cửa nền kinh tế thể hiện là tỷ giá hối đoái được vận hành theo cơ chế thị trường, góp phần làm cho hệ thống giá cả chung vận hành đúng như cơ chế thị trường đòi hỏi, tiếp đến tỷ giá hối đoái được sư dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng với mục tiêu hàng đầu là chống lạm phát, ổn định tiền tệ và cuối cùng chế độ tỷ giá mới dược sử dụng như là đòn bẩy cho xuất khẩu .
Tỷ giá VND/USD từ năm 1989 đến năm 1991 ở trong bảng sau:
Năm
Tháng 1
Tháng 3
Tháng 6
Tháng 9
Tháng 12
1989
Ngân hàng
3500
4200
4350
4100
4200
Tư nhân
5200
5350
4400
4225
4575
1990
Ngân hàng
4300
4300
4800
5750
6650
Tư nhân
4650
4450
4600
6300
7050
1991
Ngân hàng
7000
7400
8300
10700
12900
Tư nhân
7400
7900
8830
11050
12550
Thời điểm ngày 3/10/1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á bắt đầu từ Thái Lan, là một nước trong khu vực Việt Nam cũng bị ảnh hưởng về mặt buôn bán, thanh toán và về mặt tâm lý . Đến ngày 3/10/1997 NHNN công bố quyết định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ ±10% so với tỷ giá chính thức cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu hết việc mua bán ngoại tệ của các Nhân hàng thương mại thường xuyên bán sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy, giá trên thị trường tự do còn cao nhiều hơn, có lúc lên trên 14000VND/USD, đây chính là hậu quả tình hình găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khả năng khủng hoảng của VND.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá đã bước đầu góp phần vào cômg cuộc đổi mới kinh tế. Cụ thể là một mặt nó đã giữ vững được giá trị của VND ( trên cả danh nghĩa và thực tế ) góp phần ổn định mặt bằng già cả trong nước, kìm chế lạm phát mặt khác vẫn khuyến khích xuất khẩu thu hút ngoại tệ lớn vào Việt nam, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu và làm tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ quốc gia.
Thời điểm ngày 26/2/1999 Ngan hàng nhà nước đã chuyển sang điều hành tỷ gá theo cơ chế mới phù hợp hôn với cơ chế thị trường. Theo cơ chế này NHNN lấy tỷ giá bình quân giao dịch thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ( của phiên giao dịch gần nhất) để công bố làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại tự xác định tỷ giá kinh doanh trên nguyên tắc không quá giới hạn cho phép so với tỷ giá bình quân do NHNN công bố hiện nay là 0,1%. Điều này cho phép NHNN điều hành tỷ giá trên nguyên tắc thị trường hơn, đảm bảo dự trữ ngoại hối không bị hao mòn do bị can thiệp thường xuyên hơn, có hịêu quả trong việc ngăn chặn tình trạng gămn giữa ngoại tệ, đầu cơ giá lên, giảm bớt sức ép về cầu ngoại tệ. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm áp dụng quyết định này đã thấy xuất hiện một số nhược điểm với nhiều ý kiến cho rằng với biên đọ giao động 0,1% là hẹp trong mối quan hệ mua bán ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng của họ dẫn tới mức tỷ giá bị ép xuống và đó không phải là mức tỷ giá cân bằng ở thị trường bán lẻ ngoại tệ. Xu hướng tăng liên tục của thị giá thị trường buôn bàn là tất yếu trong điều kiện mất cân bằng cung cầu ngoại tệ ở thị trường bán lẻ. Trước tình hình đó , ngày 1/7/2002 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định nâng biên độ tỷ giá giao dịch từ 0,1% lên 0,25%. Tuy nhiên khác với trước đây là quy định tỷ lệ trần, quyết định mới đã quy định cả tỷ lệ tối thiểu sàn –0,25%. Như vậy, căn cứ vào tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố TCTD có thể ấn định tỷ giá với phạm vi rộmg hơn nhiều so với trước đây .
Ngay sau khi NHNN cho phép áp dụng biên độ mới , tỷ giá mua bán ngoại tệ của ngân hàng bắt đầu có dấu hiệu thị trường hơn ( tỷ giá trên thị trường tự do biến động không đáng kể, có thời điểm tỷ giá trên 2 thị trường trùng nhau ); chênh lệch tỷ giá 2 thị trường hiện nay chỉ còn khoảng 10-20đ so với trước đây là 35-50đ/USD.
Theo bà Vũ Phương Liên vụ trưởng vụ quản lý ngoại hối NHNN thì mục đích của việc điều chỉnh biên độ tỷ giá lần này nhằm mở rộng điều hành gián tiếp và giảm bớt tính hành chính trong điều hành tỷ giá để từng bước đưa thị trường ngoại tệ của VN phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện cho NHTM thực sự chủ động linh hoạt trong kinh doanh ngoại tệ, thoả thuận giá cả phù hợp với nhu cầu của thị trường, tiếp cận với cách thức hoạt động trong nền kinh tế thị trường, chuẩn bị tốt cà nâng cao khả năng cạnh chanh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập nền kinh tế.
Về phía các NGTM họ cho rằng đẫ trờ đợi quyết định này từ lâu, một số ý kiến còn cho rằng biên độ 0,25% vẫn còn hẹp và vẫn còn mở rộng hơn nữa. Việc mở rộng biên độ sẽ làm cho quyền chủ động của doanh nghiệp được nâng cao trong kinh doanh ngoại hối.
II . Diễn biến tỷ giá trong thời gian vừa qua. Thực trạng – nguyên nhân
Từ năm 1997 tỷ giá VND/USD liên tục tăng, đặc biệt là những tháng cuối năm 2000 điều này là dễ hiểu trong thập niên 90 nền kinh tế Mỹ có sự phát triển ổn định , cộng với lãi suất đồng USD tăng liên tục (đạt mức cao nhất từ năm 1991là 6,5%) do đó đã thu hút nguồn vốn ngắn bằng USD đổ vào Mỹ, khiến USD ngày càng có giá, cầu về USD trên bình diện quốc tế ngày càng tăng nhanh, vì vậy tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền khác đều gia tăng .
Sang năm 2001, những tháng đầu năm nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu trững lại và thực sự trì trệ khủng hoảng vào cuối năm (do cũng ảnh hưởng thêm của cuộc khủng bố ngày 11/9), lãi suất liên tục giảm(từ 6,5% - 2,5%). Tuy vậy tỷ giá giữa đồng USD và VND vẫn tiếp tục tăng. Lý giải vấn đề trên ta tìm hiểu các nguyyen nhân : Thứ nhất việc mất giá của đồng tiền trong khu vực và trên thế giới mạnh so với USD(trên dưới 10%) do đó đã tạo sức ép đến việc giảm giá VND. Thứ hai việc giảm cân đối cung cầu ngoại tệ là do nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu và để trả nợ nước ngoàicó xu hướng tăng; bên cạnh đó nguồn thu từ suất khẩu giảm do đó một số mặt hàng suất khẩu chủ lực giảm mạnh cùng với việc găm giữ ngoại tệ (đặc biệt từ phía doanh nghiệp và tư nhân) tăng lên do kỳ vọng và sự mất giá vào đồng việt nam.
Bước sang năm 2002 tỷ giá tăng thấp nằm ngoài dự đoán giữa tháng 12/2002 tỷ giá là 15100-15400VND/USD.Có thể nói rằng tỷ giá nư vầy là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất luồng kiều ngoại tệ tiền mằt chuyển vào Việt Nam tăng cao.Với trên 2.5 triêu viêt kiều ,310.000 người Viêt nam đi xuất khẩu lao động chuyển về nước trong cả năm ước tính gần 2.2tỷ USD.Ngoài ra ,còn có các nguồn ngoại tệ tiền mặt do người việt nam đi công tác ở nước ngoài chuyển về, người nước ngoài đi du lịch tại việt nam…Do đó năm 2002 nhập siêu lớn nhưng do ngưồn ngoại tệ tiền mặt tăng cao cộng với diễn biến trái chiều lái suất, làm hạn chế tình trang dầu cơ và sự dịch chuyển tiền tệ theo chiều hường ngược lại trước đây
Thứ hai do NHNN tiếp tục đổi mới mành mẽ công cụ điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối .
Trên thị trường ngoại hối thế giới, năm 2002 đồng USD bị mất giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác (mất giá tới 10, 83% so với đồng Euro; 9,82% so với đồng Yên Nhật; 5,35% so với đồng Bảng Anh ). Theo các nhà phân tích tài chính, nguyên nhân chính làm cho đồng USD liên tục bị mất giá tâm lý bi quan ngày càng tăng của các nhà đầu tư về tốc độ phục hồi kinh tế Mỹ, sự sút giá liên tiếp của các chỉ số chứng khoán trên thị trường Mỹ. Đặc biệt là các vụ xì căng đan tài chính của các tập đoàn kinh tế lớn như WORLDCOM và XEROX, tình trạng bạo lực leo thang chưa có dấu hiệu chấm dứt tại Trung đông và thái độ thiên vị của Mỹ đối với ISAREL cũng là yêú tố khiến sự tin tưởng của các nhà đầu tư vài nền kinh tế Mỹ suy giảm .
Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000, 2001 và nửa đầu năm 2002
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Tháng
12/2002
Tháng
2/2002
Tháng
3/2002
Tháng
4/ 2002
Tháng
5/ 2002
Tháng
6/2002
Tỷ gía liênNH(VND/USD)
14022- 14501
14534-15070
15108
15128
15176
15205
15237
15260
Tăng so với tháng trước %
2,5
1,3
3,2
1,9
2,1
1,5
Tỷ giá TT tự do(VND/USD)
14160-14540
14630-15120
15150
15170
15250
15250
15300
15290
Tăng so với tháng trước %
2,0
1,3
5,3
0,0
3,3
-0,7
Tỷ giá năm 2002 biến động không nhiều , tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố đến 31/12/02 tăng 1.97% so với cuối năm 2001, tỷ giá giao dịch của các NH trên thị trường liên NH tăng 2.13% so với cuối năm 2002.Tỷ giá diễn ra ổn đinh đã góp phần khuyến khích XK.Trong những tháng đầu năm 2003 tỷgiá có phần giảm do chiến tranh xảy ra .
Quan sát diễn biến trên thị trường ngoại tệ trong nước và quốc tế chúng ta có thể nhận thấy rõ sự biến động ngưộc chiều của tỷ giá đồng USD, mặc dù đồng USD đã mất giá khá mạnh so ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35410.doc