Cơ cấu thị trường Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng & xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường

Lời mở đầu. Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, thế giới đang có những sự thay đổi lớn lao về nhiều mặt, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập đó.Nó có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc giao lưu thương mại nói chung và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng là một mục tiêu kinh tế hàng đầu không nằm trong phạm vi của một quốc gia nào cả.Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ. Nước

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ cấu thị trường Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng & xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta là một nước có nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, dân số phát triển với tỉ lệ cao, cán cân thương mại bị thâm hụt, mức dự trữ ngoại tệ còn nhỏ bé nên việc xuất khẩu để thu ngoại tệ,nâng cao cơ sở vật chất, cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và hội nhập thế giới là một đòi hỏi tất yếu để phát triển tiềm lực kinh tế của đất nước.Chính vì vậy,để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài “Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu thị trường.”Nghiên cứu đề tài này, em mong người đọc một phần nào có thể biết thêm được về thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời mở cửa.Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do đề án môn học có hạn và kiến thức còn hạn chế, do đó bài viết không tránh khỏi sai sót.Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cám ơn ! Phần nội dung. Chương I. Những vấn đề cơ bản về thị trường xuất khẩu hàng hoá. I. Bản chất và vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1. Các khái niệm liên quan đến thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1.1. Hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá ( phân biệt với xuất khẩu dịch vụ gắn với khái niệm thương mại dịch vụ) theo quy ước của liên hiệp quốc và của WTO là những sản phẩm hàng hoá hữu hình đựơc sản xuất và gia công tại các cơ sở sản xuất, gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường ngoài nước ( xuất khẩu) đi qua hải quan. Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá quá cảnh không thuộc diện của hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng ở trong nước. Những hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hoá phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng,kĩ thuật và môi trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu.Ví dụ,sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu và khối EU hay mỹ phải đạt các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP. Vấn đề nhãn mác hàng hoá gắn liền với uy tín của doanh nghiệp và rất được các nước công nghiệp quan tâm. Ví dụ hàng hoá của Trung Quốc mang thương hiệu Made in China, hàng của Nhật Bản mang thương hiệu Made in Japan, trong khi đó Việt Nam lại chưa chú ý đúng mứcđể phát triển hàng hoá xuất khẩu mang thương hiệu Made in Việt Nam bởi hàng hoá của ta chất lượng kém, số lượng ít, khối lượng nhỏ. 1.2. Thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1.2.1. Khái niệm. Thị trường xuất khẩu là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán, chất lượng hàng hoá và các điều kiện mau bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới. Thị trường xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả thị trường xuất khẩu hàng hoá trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian) . Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt Nam hoặc nhập hàng hoá của Việt Nam rồi mang ra xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá cua Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng thị trường xuất khẩu hàng hoá không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước trong nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng hoá tại chỗ (nhất là đối với các nghành xuất khẩu dịch vụ: Du lịch, tài chính-ngân hàng,bảo hiểm…). Đối với hàng hoá xuất khẩu từ các khu chế xuất của Việt Nam vào chính thị trường Việt Nam thì khi đó thị trường nội địa có thể coi là một thị trường xuất khẩu hàng hoá đối với hàng hoá của các khu chế xuất. 1.2.2. Phân loại thị trường hàng hoá xuất khẩu. Có rất nhiều cách phân chia thị trường xuất khẩu dưới đây là một số loại thị trường xuất khẩu được phân chia theo một số tiêu thức đó là: - Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương: * Thị trường truyền thống: Đây là thị trường xuất khẩu mà từ lâu đã xuất khẩu sang thị trường đấy và xuất khẩu thường xuyên cho đến bây giờ. Đây là thị trường khá quan trọng đối với nước ta. Khu vực thị trường các nước ASEAN là thị trường truyền thống của Việt Nam và một số thị trường khác nữa * Thị trường hiện có: Là thị trường xuất khẩu mà hiên tại bây giờ là nước nhập khẩu của nước xuất khẩu đó. Thị trường hiện có là thị trường quan trọng quyết định rất lớn đến vấn đề xuất khẩu của nước xuất khẩu trong thời gian hiện tại. Và từ thị trường hiện có này có thể giải quyết được các vấn đề xuất khẩu trong nước trong tương lai. Có thể nói thị trường hiện có bao gồm thị trường truyền thống và thị trường mới.ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thị trường nhập khẩu hàng hoá như: Khu vực Đông Nam á, Mỹ, các nước EU... * Thị trường mới: Không phải là thị trường xuất khẩu từ lâu mà mới xuất hiện, tức là chỉ xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này chưa được nhiều lần. Với những thị trường mới cần nghiên cứu xem xét kỹ tính chất cũng như văn hóa của thị trường này để từ đó cung cấp hàng hoá theo đúng nhu cầu và phù hợp nhất * Thị trường tiềm năng. Là thị trường mà từ đó nước xuất khẩu có thể xâm nhập thị trường và từ đó có thể phát triển việc xuất khẩu sang thị trường này.Thị trường tiềm năng có thể là thị trường mà nước xuất khẩu đã từng xuất khẩu sang hoặc chuẩn bị xuất khẩu sang đó.Tuỳ theo mặt hàng xuất khẩu có thể cho chúng ta biết được thị trường nào là thị trường tiềm năng về mặt hàng đó. Ví dụ, thị trường Trung Đông cũng là thị trường tiềm năng của Việt Nam. - Căn cứ mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát triển thị trường của nước xuất khẩu đối với các thị trường xuất khẩu: * Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính. Đối với loại thị trường này, trong quan hệ ngoại thương nước xuất khẩu có thể phải chấp nhận một số thiệt thòi về lơị ích trước mắt để thu được lợi ích lâu dài (nhấtlà trong đàm phán kí kết các hiệp định thương mại cấp chính phủ) . Đây là một trong những thị trường mà một nước sẽ nhằm vào khai thác chính và trong một tương lai lâu dài. * Thị trường xuất khẩu tương hỗ. Đối với loại thị trường này, nước xuất khẩu duy trì quan hệ giao thương theo nguyên tắc tương hỗ-tức là hai nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau những ưu đãI và nhân nhượng tương xứng nhau, nhất là trong việc mở rộng thị trường. - Căn cứ vào mức độ mở cửa của thị trường mức, độ bảo hộ, tính chặt chẽ và khả năng xâm nhập thị trường. * Thị trường ‘’khó tính’’. Là thị trường rất khó xâm nhập, thị trường này có tính bảo hộ cao và rất chặt chẽ trong mọi vấn đề. Với thị trường này không phải lúc nào cũng thâm nhập được không phải nước nào cũng thâm nhập được, nên phảI nghiên cứu kỹ thị trường này trước khi muốn thâm nhập. Nhật Bản là một ví dụ của một thị trường xuất khẩu rất khó tính . * Thị trường “dễ tính”. Trái ngược với thị trường khó tính thì thị trường này rất dễ thâm nhập không có đòi hỏi cao hay nhiều gì trong xuất khẩu, chế độ bảo hộ không cao. Thị trường Nga được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá khá dễ tính - Căn cứ và loại hình cạnh tranh trên thị trường: * Thị trường độc quyền: Là thị trường duy nhất nhập khẩu hàng hoá của nước xuất khẩu, dẫn đến thành viên này có sức mạnh thị trường và là người đặt giá. Trong trường hợp này nước xuất khẩu dễ bị rơi vào thế bị động hay bị ép giá . * Thị trường độc quyền nhóm: Tức là một nhóm các thị trường liên kết với nhau tạo thành độc quyền nhóm. Trong nhóm đó thành viên nào tăng giá thì các thành viên khác cũng tăng theo và có nghĩa là họ cũng là người có khả năng ép giá. * Thị trường cạnh tranh hoàn hảo; * Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: một dạng của loại hình này đã được nhiều nước ứng dụng thành công khi tìm kiếm thị trường là thị trường ngách. Thị trường ngách được xem như một loại hình thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường này đóng một vai trò rất quan trọng cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu, những nước mà khả năng cạnh tranh còn kém so với hàng hoá hiện có trên thị trường quốc tế. 1.2.3. Phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu. Khái quát về thị trường đã chỉ ra rằng: Phát triển thị trường có thể thực hiện về khía cạnh mặt hàng, theo chiều rộng và chiều sâu. Khi định hướng cho phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, một nước có thể phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu hoặc cùng một lúc phát triển theo cả hai hướng này. Phát triển về mặt hàng có thể thực hiện về lượng và về chất. Thứ nhất việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng,mong muốc thoả mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuậtvà công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất những sản phẩm đa dạng trên để đáp ứng nhu cầu của con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hoá trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hay một đất nước nào phát hiện, khơI gợi, nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường. Thứ hai, việc phát triển các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hoá nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng đòi hỏi cao hơn của con người. Phát triển theo chiều rộng là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển cả về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó. Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể được thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng. Theo nội dung này, phát triển hàng hoá xuất khẩu sẽ có tác dụng tích cực trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Đó là việc tăng cường được số lượng thị trường nhập khẩu, tăng cường được xuất khẩu về chất lượng cũng như số lượng, thay đổi tích cực cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 2. Vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 2.1. Vai trò của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở lên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra xã hội lớn cho tất cả các nước nhất là những nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. - Xuất khẩu tạo nguồn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích các nghành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nên kinh tế, cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ dồi dào là điều kiện cần thiết giúp cho quá trình ổn định ngoại tệ và chống lạm phát. - Xuất khẩu đóng góp vào dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm điều này có hai cách hiểu đó là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa và xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ nhờ vậy sản xuất có thể phát triển và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu có tác động tích cực đến vấn đề giải quýêt việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Tạo nguồn vốn nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu ngày càng cao của nhân dân. Đồng thời xuất khẩu cũng có tác động tích cực đến tay nghề và thay đổi thói quen của những người sản xuất hàng hoá. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới. 2.2. Vai trò của thị trường xuất khẩu hàng hoá trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Thị trường nói chung và thị trường xuất khẩu nói riêng được xem là vấn đề nhạy cảm và có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hànghoá. Xem xét tác động của thị trường xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu dựa trên hai vấn đề: + Quy mô hàng hoá: Phát triển càng rộng thị trường xuất khẩu đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp xuất khẩu phải sản xuất ra càng nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng, mong muốn thoả mãn và khả năng thanh toán của xã hội. Do đó sẽ làm cho số lượng hàng hóa xuất khẩu tăng lên, chủng loại phong phú, cơ cấu mặt hàng thay đổi để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. + Chất lượng hàng hoá: Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu có nghĩa là các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh với các doanh nghiệp nội địa. Do đó mà các doanh nghiệp phải áp dụng không ngừng các thành tựu khoa học kĩ thuật và hoàn thành cải tiến nâng cao chất lương sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang và sẽ được cung cấp trên thị trường. Đảm bảo phù hợp giữa chất lượng giá cả hàng hoá so với hàng hoá cạnh tranh sẽ có tác động tích cực chiếm lĩnh thị trường là yếu tố quyết định đến thành công của doanh nghiệp. Như vậy, thị trường xuất khẩu tác động đến cả chất lượng và số lượng hàng hoá, nó đồng thời tác động đến hoạt động xuất khẩu của một quốc gia cả tích cực và tiêu cực. Nếu biết khai thác nhu cầu và tiềm lực một cách có hiệu quả sẽ làm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và ngược lại. Đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Do đó phát triển thị trường xuất khẩu được đảng và nhà nước ta xác định như một trong các chiến lươc xuất khẩu nói riêng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung. II. Những yếu tố của thị trường xuất khẩu hàng hoá. 1. Cầu về hàng hoá xuất khẩu. Xem xét cầu hàng hoá xuất khẩu trên các thị trường xuất khẩu tức là xem xét khối lượng hàng hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy mô thị trường hiện tại mà sản phẩm đang được bán. Nghiên cứu quy mô thị trường xuất khẩu phảI nắm được cơ bản về thị hiếu, đối tượng tiêu dùng hàng hoá chính, thu nhập,…muốn vậy đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường phảI được quan tâm. 2. Cung về hàng hoá. Trên cơ sở để xác định xem khả năng sản xuất trong một thời gian các doanh nghiệp có khả năng cung ứng cho thị trường mà doanh nghiệp đang cung cấp là bao nhiêu. Dựa trên các yếu tố thông tin về lao động, vật tư tìên vốn, dự trữ vật tư hàng hoá và các tiềm năng khác của doang nghiệp để xác định cung của doanh nghiệp có khả năng đáp ứng trên thị trường,từ đó biết được quy mô của doanh nghiệp là lớn hay nhỏ. Ngoài đảm bảo về số lượng hàng hoá cung cấp trên thị trường cần phải quan tâm đặc biệt tới chất lượng của hàng hoá đó nữa bởi vì chất lượng là một yếu tố quan trọng để có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày càng cao của con người và đảm bảo thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn kỹ thuật mà nước nhập khẩu đặt ra đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa. Chất lượng đóng vai trò đảm bảo cho hàng hoá có thể bán được và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo cạnh tranh hàng hoá nội địa và hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh. 3. Giá cả thị trường Đứng ở góc độ doanh nghiệp thì giá cả thị trường là một yếu tố quan trọng đánh giá doanh thu của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố tác động vào giá cả hàng hoá như chi phí đầu vào, các yếu tố của thị trường mà hàng hoá cung cấp trên đó như quan hệ cung cầu, giá hàng hoá nội địa của các doanh nghiệp cạnh tranh khác, mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp hoặc sự ảnh hưởng của giá hàng hoá đến việc tiêu thụ ở một số thị trường khác…Cũng tuỳ vào từng giai đoạn mà doanh nghiệp xuất khẩu có các quyết định về giá hàng hoá của mình để có thể cạnh tranh trên thị trường. Nếu như sản phẩm mới đưa vào thị trường xuất khẩu thì đòi hỏi phải đưa ra một số chiến lược về giá để hàng hoá có chỗ đứng trên thị trường như: thâm nhập thị trường,bám chắc thị trường. Nếu như hàng hoá đã có vị trí trên thị trường thì phải có chiến lược thích hợp để phát triển và mở rộng thị trường của mình đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường. 4. Khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các nhà sản xuất trong nước khi xuất khẩu sang nước ngoài sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Vì vậy để kiếm tìm được một vị thế thích hợp trên thị trường thị các doanh nghiệp hay nước xuất khẩu đó phảI xác định được: Ai là đối thủ cạnh tranh? Ai có thể là đối thủ cạnh tranh, cơ cấu cạnh tranh…? Trên cơ sở nắm bắt và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh các nhà quản trị phải biết phân loại đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp có vị trí thế nào trên thị trường là tuỳ thuộc vào những ứng biến và khả năng tiên đoán, xử lý thông tin của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy rằng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, do kinh nghiệm và thông tin về đối thủ cạnh tranh trên thị trường củadoanh nghiệp Việt Nam còn thiếu. 5. Thương hiệu Có thể nói thương hiệu là hình thức biểu hiện bên ngoài, tạo ấn tượng thể hiện bên trong (cho các sản phẩm và doanh nghiệp). Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp. Giá trị của thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà doanh nghiệp đó có thể đem lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Xem xét thương hiệu bao gồm thương hiệu hàng hoá, thương hiệu doanh nghiệp và chỉ dẫn địa lý và tên gọi hàng hoá. Hàng hoá xuất khẩu của nước ta trên thị trường thế giới vẫn chưa tạo dựng được nhiều thương hiệu nổi tiếng, chưa được người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu biết đến nhiều. Như vậy khó khăn lớn nhất của hang hoá Việt Nam là chưa xây dựng được thương hiệu trong lòng người tiêu dùng, công tác tiếp thị còn yếu kém, nhiều khi không tìm hiểu kỹ nhu cầu, quy luật của thị trường. Đây là một vấn đề lớn trong khâu đảm bảo thành công trên thị trường của nước ta. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá. 1. Công cụ chính sách thương mại thuộc về thuế quan. Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế này được đánh vào hàng hoá xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu. Theo kinh nghiệm nhiều nước,nếu dùng chính sách thuế quan để làm công cụ cho chính sách khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu sẽ dẫn tới tình trạng duy trì một nghành sản xuất kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh và do đó người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hội nhập với việc buôn bán tự do giữa các nước có sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng hàng hoá thì việc sử dụng thuế như một công cụ quản lý xuất khẩu sẽ không còn hữu hiệu, Bởi thuế xuất khẩu luôn làm cho giá cả hàng hoá tăng cao so với khi không đánh thuế hoặc thuế suất bằng không. 2. Các công cụ chính sách thương mại phi thuế quan. Quan hệ chính trị ngoại giao. Quốc gia muốn phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu thì trước hết phải có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế giới một cách nhất quán và ổn định lâu dài có quan hệ ngoại giao ngoại thương thông qua các hiệp định được kí kết và triển khai cụ thể cho từng thời kì . Sự thiết lập quan hệ ngoại giao, ngoại thương giữa các nước đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và tìm thị trường đối tác. Chính sách thương mại của nhà nước. Chính sách mậu dịch tự do: Tự do hoá thương mại gắn liền với việc nhà nước áp dụng các biện phàp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại đối với những hoạt động thương mại. Mục đích của tự do thương mại là thúc đẩy qúa trình quốc tế hoá đới sống kinh tế thế giới, hình thành một thị trường toàn cầu và phát huy lợi thế của từng quốc gia, tạo ra những môI trường cạnh tranh lành mạnh, giúp quốc gia phân phối nguồn lực trong nước một cách hiệu quả nhất. Do vậy một nước theo đuổi chính sách mậu dịch tự do thì ở đó Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tiết ngoại thương, Nhà nước sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa để cho hàng hoá và vốn đầu tư tự do lưu thông và tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển theo quy luật cạnh tranh tự do. Chính sách này đã nhấn mạnh vào các ưu điểm như : trở ngại thương mại quốc tế bị loại bỏ, tăng cường sự tự do lưu thông hàng hoá giữa các nước, làm cho thị trường nội địa phong phú hàng hoá hơn dẫn tới kích thích các nhà sản xuất kinh doanh liên tục phải áp dụng các tiến bộ khoa học_công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả quản lý, giảm chi phí trong sản xuất để từ đó có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, năng động trong kinh doanh và góp phần mở rộng thị trường ra nước ngoài. Tuy nhiên, chính sách mậu dịch tự do cũng đem lại những khuyết điểm. Khi thị trường trong nước được điều tiết bởi quy luật tự do cạnh tranh dễ dẫn đến nền kinh tế rơi và tình trạng phát triển mất cân đối và khủng hoảng. Trong trường hợp các nhà sản xuất kinh doanh trong nước còn chưa đủ mạnh thì thông qua tự do hoá thương mại sẽ rất rễ bị các nhà sản xuất kinh doanh của nước ngoàI chèn ép. Do vậy tự do hoá thương mại không được thực hiện cho toàn bộ các nghành hàng trên thế giới trong giai đoạn hiện nay, chỉ những ngành hàng đã đủmạnh và có sức cạnh tranh cao thì mới thực hiện được tự do hoá thương mại. Chính sách bảo hộ mậu dịch: bên cạnh chính sách tự do hoá thương mại, chính sách bảo hộ thương mại cũng được nhiều nước thực hiện trong thời kì mới phát triển. Khi áp dụng chính sách này, nhà nước thường sử dụng các công cụ, biện pháp thuế quanvà phi thuế quan để tránh cho hàng hoá và doanh nghiệp trong nước khỏi cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá và doanh nghiệp của nước ngoài. Cụ thể hơn, việc bảo hộ mậu dịch giúp các quốc gia tránh những cạnh tranh từ bên ngoài cho các sản phẩm, doanh nghiệp và người lao động trong nước do sự khác biệt về điều kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Chính sách bảo hộ mậu dịch thường đem lại những ưu điểm trong việc giảm cạnh tranh của hàng ngoại ở thị trường trong nước,đồng thời giúp các nhà sản xuất kinh doanh trong nước tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường nội địa. Ngoài ra việc bảo hộ mậu dịch cũng góp phần hỗ trợ các nhà sản xuất kinh doanh trong nước tăng cường khả năng cạnh tranh ở nước ngoài. Chính sách bảo hộ tuy nhiên cũng đem lại không ít những nhược điểm đó là việc nếu sự bảo hộ thị trường nội địa quá chặt thị sẽ dẫn đến xu hướng đóng cửa nền kinh tế , làm tổn thương đến phát triển thương mại quốc tế, dẫn tới sự bảo thủ trì trệ của các nhà sản xuất kinh doanh nội địa và đặc biệt là làm thiệt hại đến người tiêu dùng trong nước bởi sản phẩm sản xuất ra từ các nhà sản xuất kinh doanh trogn nước sẽ kém chất lượng,chủng loại hàng hoá không phong phú mà người tiêu dùng dễ bị ép giá. Nhưng chính sách bảo hộ này vẫn được nhiều nước áp dụng trong điều kiện hiện nay . Chính sách này được áp dụng cho những ngành hàng mà trước đó đặt mục tiêu phát triển trong tương lai. Trong điều kiện kinh tế của từng nước và dưới xu thế nhất định của thế giới nên hai loại hình chính sách thương mại này được áp dụng cùng một lúc với nhau, các nước phát triển và đang phát triển sử dụng các chính sách này một cách hoà hợp với nhau. Đối với ngành hàng còn chưa phát triển, hoặc chưa đủ sức cạnh tranh trên thế giới, chính phủ các nước phát triển thường áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch đối với những ngành hàng cụ thể này để bảo vệ sự phát triển của nó. Việc áp dụng chính sách bảo hộ này đều dựa trên nguyên tắc chọn lọc, có thời điểm. Lúc đầu là việc bảo hộ tự vệ nhằm hạn chế sự xâm lấn của hàng ngoại nhập, bảo vệ sản xuất trong nước, sau đó chuyển sang bảo hộ nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách tự do hoá thương mại lại được áp dụng cho những ngành hàng đã phát triển nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nó và chiếm lĩnh thị trường thế giới. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước: Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước tạo ra một môi trường pháp lý, thể chế thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện các hoạt động đầu tư mới, mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh. Môi trường thuận lợi về pháp lý và thể chế chưa đủ để khuyến khích các doanh nghiệp nếu không có thêm những ưu đãi cụ thể về huy động vốn, thủ tục hành chính, miễn giảm thuế có thời hạn, trợ giúp về thông tin, xúc tiến thương mại. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước là một nhân tố quan trọng nhằm tạo ra nguồn cung cấp lớn, ổn định có chất lượng cho thị trường xuất khẩu hàng hoá. Nói cách khác khuyến khích đầu tư trong nước là cơ sở quan trọng để tăng nguồn cung ứng trong nước đáp ứng cầu thị trường thế giới. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Đối với nhiều nước đang phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI là một phần quan trọng của chiến lược tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng đối với nền kinh tế sở tại thông qua: bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế; ảnh hưởng chuyển giao công nghệ, năng lực quản lý; tạo việc làm cho người lao động; đóng góp vào xuất khẩu. Tuy nhiên, thực tế thu hút và sử dụng FDI ở nhiều quốc gia cho thấy khả năng FDI có đóng góp tích cực như thế nào đối với xuất khẩu còn phụ thuộc vào chính sách thu hút, sử dụng FDI của quốc gia sở tại có tạo ra những khuyến khích hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đối với các lĩnh vực có định hướng xuất khẩu hay không? trong nhiều trường hợp những biện pháp ưu đãi của chính phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào xuất khẩu là không thoả đáng, các doanh nghiệp FDI sẽ có xu hướng chỉ tập trung khai thác thị trường nội địa trên cơ sở sử dụng các nguồn lực chi phí thấp, đặc biệt là lao động của quốc gia đó . Như vậy, chính sách thu hút sử dụng FDI sẽ có những ảnh hưởng tích cực đối với phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá nếu có những biện pháp khuyến khích về tài chính (miễn giảm thuế, thưởng xuất khẩu) , những ưu đãi về thủ tục …đối với các doanh nghiệp FDI có đóng góp tích cực vào xuất khẩu. Quy định hải quan. Hàng hoá xuất khẩu phải được thông quan một cách nhanh chóng. Nếu hoạt động hải quan phức tạp gây nhiều phiền hà cho người xuất khẩu thì sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Muốn vậy phải hoàn thiện quy trình nghiệp vụ hải quan, áp dụng cho phương tiện kỹ thuật hiện đại phân loại, hàng hoá theo mức độ quan trọng để từ đó thông quan nhanh những hàng hoá thông thường. Hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch là công cụ hạn chế khối lượng xuất khẩu cao nhất của mặt hàng hay một nhóm hàng. Hạn ngạch xuất khẩu được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và những mặt hàng quý hiếm. Tỷ giá hối đoái Nhà nước có thể điều chỉnh giá trị tiền Việt Nam tăng hoặc giảm so với ngoại tệ để không khuyến khích hoặc khuyến khích xuất khẩu. Nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng nếu dùng tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu không phải trong trường hợp nào cũng tốt vì được lợi trong xuất khẩu thì lại thiệt trong nhập khẩu. Do đó cần giải quyết đúng đắn quan hệ tỷ giá phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế và yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hàng rào kĩ thuật và vệ sinh kiểm dịch động thực vật. Đây là công cụ của WTO cho phép các nước được sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật, biện pháp vệ sinh kiểm dịch mà nước đó cho là phù hợp với việc bảo vệ môI trường, sức khoẻ cho người tiêu dùng với điều kiện biện pháp này không tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc hạn chế vô lý thương mạ quốc tế với bất kì nước nào . Các cường quốc phát triền ứng dụng nhiều nhất công cụ này để bảo hộ mậu dịch như Nhật Bản, Mỹ hay cộng đồng chung Châu Âu. Chế độ bảo vệ thương mại tạm thời Chế độ này bao gồm các biên pháp tự vệ, trợ cấp, đối kháng, chống bán phá giá…Quyền tự vệ trong thương mại quốc tế được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Vận dụng quyền này các nước đã ban hành văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Quyền tự vệ đặc biệt và quyền khước từ trong trường hợp khẩn cấp của thương mại quốc tế cũng là một quy định của WTO. Với quyền này nếu một sản phẩm của một nước mà đã được thuế hoá và bảo lưu được điều khoản tự vệ đặc biệt trong biểu cam kết quốc gia thì khi lượng nhập khẩu vượt qua số lượng giới hạn hoặc giá nhập khâủ giảm xuống mức giá giới hạn thì các nước nhập khẩu có thể sử dụng quyền tự vệ đặc biệt. Khi một nước thành viên của WTO được quyền áp dụng quyền tự vệ đặc biệt này thì có quyền khước từ bất kì một điều tra nào từ bên ngoài chứng tỏ ngành công nghiệp nội địa bị tổn thương hoặc bị đe doạ tổn thương. WTO còn cho phép áp dụng các hình thức trợ cấp và đối kháng trong thương mại quốc tế thông qua việc cho phép các nước thành viên duy trì hình thức không gây tổn hại đến lợi ích của các nước thành viên khác. WTO còn quy định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp hàng nhập khẩu bị bán phá giávào thị trường trong nước tạo sức cạnh trang không lành mạnh. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan, theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phảI hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không nước nhập khẩu sẽ áp dụng biện pháp “trả đũa”kiên quyết. Hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu Chính phủ đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kĩ thuật trang thiết bị cho việc thu nhập thông tin thị trường thế giới hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp giao lư._.u với các đối tác nước ngoài để tìm kiếm thị trường và cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa như tham gia hội trợ quốc tế, gặp gỡ trao đổi thông tin thương mại với các nhà doanh nghiệp nước ngoài. Cần có nhiều hình thức khuyến khích xuất khẩu thông qua việc phát triển quỹ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của nhà nước. Vấn đề xúc tiến xuất khẩu phải được Nhà nước quan tâm thích đáng và trực tiếp thực hiện bởi lẽ mỗi doanh nghiệp riêng lẻ không thể làm tốt hoạt động mang tính chất vĩ mô này. Tín dụng xuất khẩu Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng như điều chỉnh lãi suất theo hướng khuyến khích cho vay đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu, hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho đối tượng vay làm hàng xuất khẩu. Cần có chính sách tín dụng dài hạn cho các dự án sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu đối với những sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài. 3. Các nhân tố thuộc về môi trường thế giới. Các nguyên tắc điều chỉnh thương mại quốc tế - Nguyên tắc tương hỗ: Theo nguyên tắc này các nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng tương xứng với nhau trong mối quan hệ buôn bán dựa trên cơ sở tiềm lực của các bên tham gia. Nhưng, trong nhiều trường hợp các nước yếu hơn thường phảI buộc chấp nhận các điều kiện do các bên mạnh hơn đưa ra. - Nguyên tắc không phân biệt đối xử: nguyên tắc này được thể hiện dưới hai dạng, quy chế tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia. Quy chế tối huệ quốc (MFN) là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ kinh tế và buôn bán về mặt thuế quan, mặt hàng trao đổi, tàu bè chuyên trở, quyền lợi của pháp nhân và tư nhân của nước này trên lãnh thổ nước kia. Đây là mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp định hiệp ước giữa các nước một cách bình đẳng có đi có lại. Nếu nhận được quy chế tối huệ quốc, hàng hóa của nước nhận được MFN sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn trong thị trường nước cấp MFN. Quy chế tối huệ quốc này thường do các nước phát triển áp dụng để gây áp lực vềkinh tế cũng như chính trị đối với những nước có nền kinh tế phát triển kém hơn. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là nguyên tắc đòi hỏi các nước thành viên của tổ chức WTO đối xử với hàng hoá nhập khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ tại cửa khẩu không kém phần thuận lợi hơn so với hàng được sản xuất trong nước - Nguyên tắc ngang bằng dân tộc: Nguyên tắc này đòi hỏi một nước dành cho tư nhân và pháp nhân nước ngoàI trên lãnh thổ nước mình một sự đối sử ngang bằng như đối sử với tư nhân, pháp nhân của chính nước mình trong những vấn đề trong kinh doanh, thuế khóa, hàng hải cư trú…ngoại trừ quyền bầu cử, ứng cử, nghĩa vụ quân sự. Nguyên tắc này thường được quy định trong hiệp định kinh tế_thương mại được kí kết giữa hai nước. Tình hình chính trị quân sự. Sự biến động của tình hình chính trị quân sự trên thế giới có tác động mạnh mẽ đến tình hình cung cầu trên thị trường của các nước. Do vậy, trong hoạt động phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, việc nghiên cứu , phân tích thường xuyên tình hình chính trị này giữ một vai trò quan trọng, phục vụ cho việc tìm hiểu rõ ràng về các thông tin liên quan tới hoạt động nhập khẩu của các nước. Chương II. Thực trạng về thị trường và cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của nước ta hiện nay. I. Khái quát chung về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam thời gian qua. Một thực tế mà ta có thể nhận ra dễ dàng đó là quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được phát triển , toàn cầu hoá,mở rộng các mối quan hệ với khu vực và thế giới là một tất yếu khách quan phù hợp với xu thế chung. Nền kinh tế Việt Nam cũng như ở trên thế giới có những thay đổi đáng kể tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. trong xu thế ấy xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như mở rộng các mối quan hệ hợp tác giữa các nước. Chính vì vậy, định hướng cho thị trường xuất khẩu là vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa quyết định rất lớn đến hoạt động xuất khẩu bởi vì một nước mà có được nhiều thị trường xuất khẩu lớn hiện tại cũng như tiềm năng thị tất yếu việc đẩy mạnh kinh tế phát triển là việc hết sức dễ dàng và cũng có thể xác định được nhu cầu của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Nguyên tắc chung của định hướng thị trường xuất khẩu hàng hoá là đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, giữ vững và mở rộng thị trường truyền thống, đồng thời tích cực tìm thêm thị trường mới. Xem xét tình hình của xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam trong những năm qua ta thấy được rằng: Từ năm 1986-1990 xuất khẩu được xác định là một trong ba chương trình kinh tế lớn: lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu . Xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm này đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại, xuất khẩu phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các ngành, các cấp, trong thời gian tới nhất thiết phải đạt được sự chuyển biến xứng đáng với tầm quan trọng và khả năng thực tế của nó. Nhiệm vụ đặt ra là tăng khối lượng xuất khẩu. Thực tế lượng xuất khẩu ở nước ta trong những năm này vẫn còn rất nhỏ hẹp, số lượng xuất khẩu ít chất lượng thì chưa cao chủ yếu là xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu nói chung của Việt nam từ năm 1991-2000 là 18,4% nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần. Xuất khẩu đạt nhịp độ tăng trưởng cao, tỉ trọng các sản phẩm qua chế biến cũng được tăng đáng kể (từ 8% năm 1991 lên 31,4% năm 2002 ), khối lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cũng tăng khá (trước chỉ có 4 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD, đến nay đã có thêm nhiều mặt hàng khác) đồng thời thị trường trao đổi hàng hoá với các nước cũng được mở rộng. Những mặt hàng chủ yếu tốc độ tăng trưởng cao là: hàng dệt may tăng 8,8%, dày dép tăng 7,8%, hạt tiêu tăng 9,5%, hàng thủ công mỹ nghệ tăng 48% (đạt 250 triệu USD)…Điều này rất có ý nghĩa xét trên khía cạnh tạo công ăn việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Riêng dầu thô xuất khẩu tăng 68,3% đã góp phần tăng đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu, số ngoại tệ chuyển từ nước ngoài về do xuất khẩu lao động lên tới 1,2 tỉ USD. Rất nhiều mặt hàng có chất lượng cao của Việt Nam như gạo, chè, cafê, cao su…được khách hàng nước ngoài ưa chuộng và có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Đến năm 2000 xuất khẩu đạt được nhịp độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Giá trị kim ngạch xuất hàng hóa của cả nước đạt tới 14,3 tỉ USD, tăng 21,3%. Ta thấy đựơc rằng cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam có một sự thay đổi lớn là: xuất khẩu vào thị trường Châu á_TháI Bình Dương giảm xuống từ 77,3% năm 1991-1995 đến 65% năm 1996-2000. Những năm gần đây, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu ở nước ta đã có chuyển biến thep hướng tích cực. Nếu như trong bốn nhóm lớn hàng hoá xuất khẩu (nông lâm thuỷ sản; nhiên liệu, khoáng sản; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; nhóm hàng xuất khẩu khác) nhiều năm trước mỗi nhóm đều chiếm tỉ trọng từ 20 đến 25% thì trong những năm gần đây, tỉ lệ nhóm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được nâng lên đáng kể. Năm 2001, tuy giá dầu thô xuất khẩu còn thấp song với 17 triệu tấn dầu thô xuất khẩu đã khiến nhóm nhiên liệu, khoáng sản (dầu thô,than đá) chiếm tới 21,44.Sang năm 2003 tỉ trọng nhóm này chỉ còn 19,92%dù lượng dầu thô và than đá xuất khẩu đều tăng chút ít và giá xuất khẩu cũng tăng đáng kể. Trong khi đó, tỉ trọng nhóm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ 28,49% lên 40,52%. Hai năm 2004-2005, do xuất khẩu dầu thô và than đá đều tăng mạnh cả về lượng và giá (tăng hàng triệu tấn dầu thô và 7-10 triệu tấn than đá so với năm 2001) nên tỉ trọng nhóm này vẫn giữ trong khoảng 23-25% so vơí tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Song tỉ trọng các nhóm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp hai năm này vẫn giữ ở mức 39-40%. Còn tỉ trọng nhóm nông lâm thuỷ sản đã giảm dần từ 24,12%năm 2001 xuống 22,55% (2003); 20,66% (2004); 20,64% (2005) mặc dù tổng trị giá xuất khẩu tương ứng của nhóm trong những năm này vẫn tăng dần từ 3,667 triệu USD lên 4,472; 5,372; 6,653 triệu USD. Riêng nhóm hàng hoá khác tuy kim ngạch cá tăng song mức tăng chậm nên tỉ trọng lại giảm dần đều, số liệu nhóm này tương ứng qua các năm gần đây là: 2001: 3,944 triệu USD và 25,95%; 2003: 3,373 triệu USD và 17,01%; 2004: 4,31triệu và 16,56%; 2005: 4,72triệu USD và 14,64%. Riêng năm 2006 vừa qua thị trường xuất khẩu đã được mở rộng, đây là năm đầu tiên thực hiện theo nghị quyết đại hội X của đảng và kế hoạch 5 năm 2006-2010, xuất khẩu hàng hoá của nước ta đã đạt kết quả rất khả quan. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước tính năm 2006 đạt 39,6 tỉ USD, vượt mức kế hoạch đề ra và tăng 22,1% so với năm 2005 trong đó hàng dệt may đạt 5.9 tỉ USD chiếm 14.9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; hai mặt hàng da dày thuỷ sản do có sự đầu tư chiều sâu, tạo mặt hàng mới và mở rộng thị trường nên kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng trên đều đạt trên dưới 3.5 tỉ USD; so với năm 2005 thì năm 2006 có 9 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch 1 tỉ trở lên nghĩa là tăng thêm 2 mặt hàng mới có kim ngạch xuất khẩu 1tỷ trở lên, cao su đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1,3 tỉ USD, cafê đạt trên 1.1 tỉ USD; kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 1.38 tỉ USD, cao su đạt 1.32 tỉ USD…đáng chú ý hơn của năm 2006 là mạch tăng trưởng chung của các khu vực thị trường trọng điểm, truyền thống,láng giềng…đều có mức tăng đáng khích lệ. Xuất khẩu Việt Nam không ngừng phát triển còn được thể hiện qua ngay cả trong những ngày tháng của năm 2007 này.Theo nguồn tin từ Vụ Kế Hoạch và Đầu tư (bộ Thương Mại) ngày 7/3 cho biết: bình quân hai tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu đạt 3.38 tỷ USD/tháng, riêng tháng 1 đạt 3.76 tỷ USD (đạt trên 20%) . Đó chính là những thành tích mà Việt Nam đã đạt được ngay trong đầu năm 2007 này. II. Phân tích thực trạng về thị trường và cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá ở nước ta những năm qua. 1. Khái quát chung về thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong những năm qua. Như ta đã biết hoạt động xuất khẩu trong năm 2005 diễn ra trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động: giá dầu mỏ tăng cao kéo theo giá nhiều hàng hóa khác tăng lên; thương mại Trung Quốc phát triển mạnh sau khi ra nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới) tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với những sản phẩm xuất khẩu cùng loại của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam…Bước sang năm 2006 trước sự thay đổi của thế giới, Việt Nam cũng có những biến động rất lớn. Đây được đánh giá là năm khởi đầu cho sự cất cánh của nền kinh tế nước ta với những sự kiện kinh tế nổi bật. Đặc biệt hơn hết đó là việc Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày 7-11-2006 với rất nhiều cơ hội cũng như thách thức mà Việt Nam có được cũng như phải trải qua, hội nghị lãnh đạo các nền kinh tế APEC diễn ra thành công và tốt đẹp ngày 16-19/11, thu hút FDI vào Việt Nam đạt 10,2 tỷ USD, xuất khẩu đạt kim ngạch 39,6 tỷ USD…hay còn một loạt các sự kiện kinh tế khác nữa đáng chú ý. Trong bối cảnh kinh tế đất nước như vậy chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước đã có những giải pháp chính sách điều hành xuất khẩu nhằm vượt qua khó khăn trong và ngoài nước đó nên chính vì vậy chúng ta mới có được những thành công như đã nói ở trên đặc biệt là thành công về lĩnh vực xuất khẩu. Không ngạc nhiên, song con số 39.6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu (tăng trưởng 23%) , chiếm trên 60% GDP cả nước, là thành tích rất đáng tự hào trước khi kinh tế đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hội nhập toàn diện. Đây được xem là bước đệm và mốc phát triển quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả này đã góp phần không nhỏ và mức tăng trưởng kinh tế (GDP 8,2%) chung của đất nước. So với năm 2005 và những năm trước đây thì năm 2006 đã có sự phát triển mạnh về xuất khẩu cả quy mô thị trường cũng như khối lượng xuất khẩu. Nhận xét chung về thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong những năm qua đó là: thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, tăng nhanh cả về quy mô hàng hoá xuất khẩu lẫn quy mô thị trường xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của từng thị trường có nhiều thay đổi lớn điều đó được thể hiện rõ qua các thời kì phát triển của nước ta: Thương mại Việt Nam ngày càng phát triển kể từ sau khi đất nước ta đổi mới. Chủ trưởng của Đảng và Chính phủ mở rộng mối quan hệ kinh tế thương mại với các nước đã đưa lại kết quả to lớn, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác đầu tư vào Việt Nam. Xuất khẩu tăng nhanh đã tạo ra thị trường tiêu thụ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, giúp hình thành nhiều ngành sản xuất trong nước, nhiều đơn vị sản xuất mới, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và đóng góp trực tiếp vào ngân sách nhà nước và GDP. Đánh giá về kim ngạch thị trường xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1991-2000 nước ta có nhiều thành tựu đáng nói đến. Giai đoạn này cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng đa phương hoá thị trường và mở rộng phạm vi quan hệ, thị trường châu Âu và Mỹ tăng dần, thị trường châu á giảm dần. Một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000 như: - Thị trường khu vực Châu á, Thái Bình Dương với kim ngạch 32.3 tỷ USD chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (năm 1996-2000) trong đó các nước ASEAN đạt 11.7tỷ USD chiếm gần 23.3% tổng kim ngạch (năm 1996-2000). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 bị ảnh hưởng nhiều do hậu quả của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế từng nước bạn hàng. Các nước bị khủng hoảng nặng nề thì kim ngạch xuất khẩu giảm rõ hơn.Các nước trong khu vực nhất là đối với Đông Nam á, việc cấu trúc lại nền kinh tế để vượt qua cuộc khủng hoảng đang trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh hơn kỳ trước khủng hoảngđối với Việt Nam. Điều này ảnh hưởng rất mạnh đến xuất khẩu của Việt Nam trong thị trường này.Một số có lượng nhập khẩu lớn ở nước ta như: Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Châu á giai đoạn 1991-2000 (triệu USD) Nước 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Nhật Bản 719.3 833.9 936.9 1179.0 1461.0 1546.4 1675.4 1514.5 1786.2 2575.2 Singapo 425.0 401.7 380.3 593.5 689.8 1290 215.9 740.9 876.4 885.9 Đài Loan 58.3 67.3 141.9 220.0 439.4 539.9 814.5 670.2 682.4 756.6 Trung Quốc 19.3 95.6 135.8 295.7 361.9 340.2 474.1 440.1 746.4 1536.4 Hồng Kông, Trung Quốc 223.3 201.7 169.0 196.8 256.7 311.2 430.7 318.1 235.7 315.9 Hàn Quốc 51.3 93.5 99.4 86.4 235.3 558.3 417.0 229.1 319.9 352.6 TháI Lan 57.7 71.5 71.8 97.6 101.3 107.4 253.3 295.4 312.7 372.3 Indonexia 16.5 10.9 22.9 35.3 53.8 45.7 47.6 317.2 420 248.6 Malayxia 14.5 68.4 55.8 64.8 110.6 77.7 141.6 115.2 256.5 413.9 Philipin 0.7 1.0 1.6 3.6 41.5 132.0 240.6 401.1 393.2 478.4 - Thị trường EU là thị trường chiếm tỷ lệ quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong thời kỳ này. Các mặt hàng xuất khẩu vào EU cũng khá đa dạng như dệt may, dày dép, sành sứ, điện gia dụng. Một số thị trường chính nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam như: Kim ngạch xuất khẩu thị trường EU giai đoạn 1991-2000 (triệu USD) Nước 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Đức 6.7 34.4 50.1 115.2 218.0 228 411.4 552.5 654.3 730.3 Pháp 83.1 132.3 95.0 116.8 169.1 145.0 238.1 297.3 354.9 380.1 Bỉ 0.1 6.4 11.8 15.1 34.7 61.3 124.9 212.3 306.7 311.9 Anh 2.4 27.5 23 55.7 74.6 125.1 265.2 335.8 421.2 479.4 Italia 3.8 7.2 8.1 20.4 57.1 49.8 118.2 144.5 159.4 218.0 T.Ban Nha 0.7 1.9 2.1 7.5 8.8 27.6 66.4 85.6 108.0 137.3 - Việt Nam còn buôn bán với Canada và Hoa Kì. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong hai thị trường này cũng có xu hướng tăng lên qua các năm. Thời gian đầu kim ngạch xuất khẩu rất thấp thậm chí còn chưa có xuất khẩu sang các nước đó, sau đó thì khác,kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 2.06 tỷ USD thời gian này hay xuất khẩu sang canada với kim ngạch là 32.6 triệu USD (năm1996); 63.9 triệu USD (năm 1997); 80.2 triệu USD (năm 1998); 91.1 triệu USD (năm 1999); 98.7 triệu USD (năm 2000). Ngoài một số thị trường đó ra Việt Nam còn xuất khẩu hàng hoá sang một số thị trường mới cũng là thị trường tiềm năng của Việt Nam như: Thị trường Châu Mỹ La Tinh hay thị trường Châu Phi… Kim ngạch xuất khẩu chia theo thị trường của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 cũng có những sự thay đổi trông thấy: Xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ tăng đột biến đặc biệt đó là sự thay đổi của thị trường Mỹ-Hoa Kỳ trong khi khu vực thị trường Châu á lại giảm dần tỷ trọng, những thị trường khác đều có kim ngạch tăng dần. Điều này được thể hiện rõ qua các số liệu trong bảng sau: Kim ngạch xuất khẩu chia theo thị trường giai đoạn 2001-2005 (triệu USD) Khu vực 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 1.Châu á 8610 8684 9756 12634 16383 56067 ASEAN 2556 2437 2958 885 5450 17286 Trung Quốc 1418 1495 1748 2735 3082 10478 Nhật Bản 2510 2438 2909 3502 4639 15998 2.Châu Âu 3515 3640 4326 5412 5872 22765 EU-25 3152 3311 4017 4971 5450 20901 3.Châu Mỹ 1342 2774 4327 5642 6910 20995 Hoa Kì 1065 2421 3939 4992 6553 18970 4.Châu Phi 176 131 211 427 681 1626 5.C.ĐaiDương 1072 1370 1455 1879 2595 8371 Riêng năm 2006, như đã nhận xét ở trên đây là năm của “điểm sáng “xuất khẩu do xuất khẩu của Việt Nam trong năm này đã tạo nên nhiều ấn tượng tốt đẹp. Năng lực cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu được đánh giá đã nâng lên một bước đáng kể làm cho quy mô thị trường xuất khẩu được mở rộng thêm nữa, khối lượng hàng hoá xuất khẩu cũng tăng rất nhanh. Theo đánh giá của Bộ Thương mại,trong năm,thị trường ngoàI nước phát triển thuận lợi.Nhiều doanh nghiệp đã cố gắng tiếp cận và mở thêm thị trường, tìm đối tác mới,tăng quy mô xuất khẩu, kể cả một số thị trường đã và đang gặp phải rào cản kỹ thuật…Các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp tập trung cao độ, chỉ đạo sản xuất và xuất khẩu,nhất là tại vùng có lượng hàng hoá lớn như đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, những khu công nghiệp và đô thị lớn…Về điều hành vĩ mô, chính phủ tạo mọi điều kiện thông thoáng môI trường xuất khẩu; kiên quyết dỡ bỏ rào cản theo các cam kết quốc tế. Thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và hoạt động xuất khẩu. Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm, theo dõi khát khao và chỉ đạo trực tiếp nhiều hoạt động sản xuất và xuất khẩu. So với năm 2005, kim ngạch của một số thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong năm 2006 đã thay đổi khá lớn như: xuất khẩu sang Mỹ đạt 7.9tỷ USD chiếm 20% tổng kim ngạch; EU đạt 7.1 tỷ USD chiếm 18% tổng kim ngạch; Nhật Bản đạt 5.1 tỷ USD chiếm 13% tổng kim ngạch…và thị trường của Việt Nam còn được mở rộng sang rất nhiều các quốc gia khác trên thế giới. 2. Thực trạng cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Như đã nghiên cứu ở phần trên cho ta một kết luận chung là: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam có sự thay đổi rất lớn. Điều này được thể hiện cụ thể khi nghiên cứu thực trạng một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam từ trước đến nay. Ngay từ giai đoạn của những năm 1991-2000 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta đã vượt xa tốc độ tăng GDP. Cơ cấu thị trường xuất khẩu lúc này chuyển dịch theo hướng đa phương hoá thị trường, mở rộng phạm vi quan hệ: thị trường Châu Âu và Mĩ tăng dần, thị trường Châu á giảm dần. Ngay ở giai đoạn này thị trường xuất khẩu chính của Việt nam đã rất đa dạng: Thị trường khu vực Châu á-TháI Bình Dương; thị trường khu vực Tây Bắc Âu; thị trường các nước Nga, SNG, Đông Âu; thị trường khu vực Châu Mỹ La Tinh; thị trường khu vực Tây Nam á-Phi; thị trường Châu phi và cả thị trường Trung Cận Đông và càng về sau này thị trường xuất khẩu ở Việt Nam càng phát triển và thay đổi một cách đáng kể. Thị trường không chỉ tăng lên về số lượng thị trường mà còn tăng cả về kim ngạch xuất khẩu trong các thị trường hiện có và càng về sau này cơ cấu đó càng thể hiên một cách rõ ràng hơn. Năm 2006 là một năm mà Việt Nam thu được rất nhiều thành tựu về kinh tế. Trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO Việt Nam đã có thể xuất khẩu sang hơn 160 quốc gia trên thế giới, như vậy có nghĩa là thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng Xét trong giai đoạn 1991-1995 so với 1996-2000 ta thất xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang khu vực Châu á_TháI Bình Dương chiếm tỷ trọng đa số (77.3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu) , các nước Âu-Mỹ chiếm 17.4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, như vậy so với thời kỳ của những năm trong giai đoạn 1996-2000 thì kim ngạch xuất khẩu ở thị trường Châu á-Thái Bình Dương chỉ còn 65% trong khi đó kim ngạch xuất khẩu ở thị trường các nước Châu Âu-Mỹ thì đang có xu hướng tăng lên tới 30.2% ở giai đoạn 1996-2000 này. Xuất khẩu thị trường Châu Phi tăng gấp đôi từ 1.6% giai đoạn 1991-1995 lên 3.2% giai đoạn 1996-2000. Như vậy ta đã thấy rõ được sự tăng lên đáng kể trong việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các thị trường nước ngoài, phát triển quy mô hàng hoá thị trường mới tăng lên đáng kể. Có thể nhận rõ thấy điều đó qua bản đồ sau: Ghi chú: 1:Châu á-TBD 2:Các nước Âu-Mỹ 3:Châu Phi 4:Các nước khác Về kim ngạch thị trường xuất khẩu giai đoạn 2001-2005: khu vực thị trường Châu á đã giảm dần tỉ trọng từ 57,3% năm 2001 xuống 50.5% năm 2005, song vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Châu Âu có xu hướng tăng dù rất ít song giá trị tuyệt đối năm sau vẫn tăng so với năm trước (giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 13.5%/năm) và đóng góp trên 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong khi đó xuất khẩu vào khu vực thị trường Châu Mỹ tăng khá đột biến, chíêm tỷ trọng 8.9% năm 2001 lên 21.3% năm 2005; xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh từ 7.1% năm 2001 lên 20.2% năm 2005. Khu vực thị trường Châu Phi có tỷ trọng tăng từ 1.25 năm 2001 lên 2.1% năm 2005 và tăng được kim ngạch xuất khẩu gấp 4 lần trong giai đoạn này từ 176 triêu USD năm 2001 lên 681 triệu USD năm 2005. Tỷ trọng của khu vực thị trường Châu Đại Dương tăng chậm và khá ổn định từ 7.1% năm 2001 lên 8.0% năm 2005. Xem xét so với các giai đoạn trước thì thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có quy mô ngày càng rộng, hàng xuất khẩu có khối lượng ngày càng lớn. Sau đây là các số liệu cụ thể về tình hình thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005: Tỷ trọng xuất khẩu chia theo thị trường giai đoạn 2001-2005 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 % % % % % % 1.Châu á 57.3 52 48.4 47.7 50.5 50.6 ASEAN 17 14.6 14.7 14.7 16.8 15.6 TrugQuốc 9.4 8.9 8.7 10.3 9.5 9.4 Nhật Bản 16.7 14.6 14.4 13.2 14.3 14.4 2.Châu Âu 23.4 21.8 21.5 20.4 18.1 20.5 EU-25 21 19.8 19.9 18.8 16.8 18.9 3.ChâuMỹ 8.9 16.6 21.5 21.3 21.3 18.9 Hoa Kỳ 7.1 14.5 19.5 18.8 20.2 17.1 4.Châu Phi 1.2 0.8 1 1.6 2.1 1.5 5.C.Đại Dương 7.1 8.2 7.2 7.1 8.0 7.6 So với năm 2005, cơ cấu thị trường của năm 2006 đã có sự thay đổi mạnh mẽ với tỉ trọng xuất khẩu của các thị trường như sau: theo số liêu HảI quan, xuất khẩu hàng hoá của nước ta tăng trưởng cao tại một số thị trường lớn như Mỹ tăng 36%, EU tăng 31%, Nhật Bản tăng 20% và ASEAN tăng 19%. Theo như tổng hợp từ Niên giám thống kê và báo cáo của Bộ Thương Mại thì cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2006 là: Châu á 46.4%; Châu Âu 19.3%; Châu Mỹ 23.2%; Châu Phi2.8%; Châu Đại Dương 8.3%. Từ đó ta thấy rõ được cơ cấu của thị trường Vịêt Nam thay đổi qua các năm. Nghiên cứu về sự dịch chuyển của cơ cấu thị trường này chúng ta sẽ nghiên cứu thực trạng của một số thị trường chính của Việt Nam. 2.1. Thị trường EU. 2.1.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU trước năm 1990. Sau năm 1975, mối quan hệ giữa nước Việt Nam thống nhất và cộng đồng Châu Âu (EC) dần được thiết lập.EC đã bắt đầu có một số cuộc tiếp xúc chính trị với Việt Nam và dành cho Việt Nam nhiều khoản viện trợ nhân đạo, quan trọng bằng lương thực, thuốc men trực tiếp hay gián tiếp thông qua các tổ chức Quốc tế. Đối với các nước vốn đã có thiện cảm và quan hệ tốt với Việt Nam càng ủng hộ Việt Nam hơn nữa về mọi mặt. Tuy sau đó có sự gián đoạn một thời gian song đến giữa thập kỷ 80,cùng với sự cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với các nước Tây Âu quan hệ giữa Việt Nam và EC đã có những bước chuyển mới. Các doanh nghiệp ở một số nước thành viên EC đã có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam thông qua hoạt động buôn bán như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức, Italia, Anh. Kim ngạch xuất khẩu của Vịêt Nam_EC tăng nhanh 50.71%/năm và tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng lên: Bảng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU 1985-1989 (triệu USD) Chỉ tiêu 1985 1986 1987 1988 1989 (1) Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 698.5 789.1 854.2 1038.4 1946.0 (2) Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU 18.4 25.7 33.1 47.7 93.3 Tỷ trọng (2) trong (1) (%) 2.6 3.3 3.9 4.6 4.8 Trong đó: 1.Pháp 12.3 18.5 24.1 35.6 79.7 2.Đức 0.2 3.2 4.5 7.5 8.7 3.Italia 0.3 0.6 1.7 2.2 2.8 4.Anh 1.2 1.2 1.3 1.4 1.5 5.Bỉ 2.6 2.1 1.3 0.7 0.4 6.Ha Lan - 0.1 0.2 0.3 0.2 Qua bảng trên ta thấy, trong 5 năm (1985-1989),Việt Nam đã xuất khẩu sang EC một khối lượng hàng hoá trị giá 218.2 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này năm 1989 tăng 5.07 lần so với năm 1985. Tỷ trọng của nó so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng từ 2.6% năm 1985 lên 4.8% năm 1989 tức là tăng lên 1.85 lần. Không những thế tỷ trọng này còn tăng giữa các năm trong thời kỳ. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EC là Pháp chiếm tỷ trọng 74.5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EC, tiếp đến là Đức (10.5%); Bỉ (5.7%); Anh (4.3%)… Như vậy trong 5 năm (1985-1989), Việt Nam đã xuất khẩu sang EC một khối lượng hàng hoá trị giá 218.2 triệu USD,kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này năm 1989 tăng 5.07 lần so với năm 1985. Tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng từ 2.6% năm 1985 lên 4.8% năm 1989,tăng 1.85 lần. Kim ngạch xuất khẩu của Vịêt Nam sang các nước thành viên EC năm 1989 tăng mạnh và đột ngột so với các năm trước, tăng95.6% so với năm 1988. Nguyên nhân là do Việt Nam có thêm hai mặt hàng xuất khẩu mới với khối lượng khá lớn và trị giá cao sang EC là dầu thô và hàng thuỷ sản.Hai sản phẩm này là kết quả thu được từ những thành tựu bước đầu của chính sách đổi mới và mở cửa kinh tế mà chính phủ Việt Nam đưa ra. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EC là Pháp chiếm tỷ trọng 74.5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EC, tiếp đến là Đức (10.5%), Bỉ (5.7%), Anh (4.3%)… 2.1.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU từ năm1990 trở lại đây. Quan hệ Việt Nam-EU không ngừng phát triển cùng với tiến trình hợp tác của phía EU và đà lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam do chính sách đổi mới mang lại. Hiện nay EU là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Quy mô thương mại ngày càng được mở rộng. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU phát triển mạnh triển vọng sẽ còn tiến xa hơn nữa khi Việt Nam hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và EU thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá. Sau khi hiệp định khung hợp tác Việt Nam –EU được ký vào năm 1995 quan hệ hợp tác về kinh tế và chính trị giữa hai bên đã có nhiều bước tiến đáng kể đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tăng liên tục từ năm 1993. Theo nguồn số liệu thống kê của trung tâm Tin học và Thống kê-Tổng cục Hải Quan ta có: Bảng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU 1990-2006 (triệu USD) Năm Kim ngạch xuất khẩu(1) Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam(2) Tỷ trọng(3) (%) Tốc độ tăng (1) (%) 1990 141.6 2404 5.9 - 1991 112.2 2087.1 5.4 -20.8 1992 227.9 2580.7 8.8 103.1 1993 216.1 2985.2 7.2 -5.2 1994 383.8 4054.3 9.5 77.6 1995 720.0 5448.9 13.2 87.6 1996 900.5 7255.9 12.4 25.1 1997 1608.4 9185.0 17.5 78.6 1998 2125.8 9361.0 22.7 32.2 1999 2506.3 11135.9 22.5 17.9 2000 2836.9 13962.8 20.3 13.2 2001 3152 15029 21.0 11.1 2002 3311 16706 19.8 5.04 2003 4017 20149 19.9 21.32 2004 4971 26503 18.8 23.75 2005 5450 32442 16.8 9.64 2006 7100 39605 18.0 30.28 Rõ ràng qua bảng trên đây ta thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU tăng lên liên tục đặc biệt là những năm gần đây: năm 2003 (4017 triệu USD) hay năm 2006 (7100 triệu USD). Tỷ trọng kim ngạch của xuất khẩu vào thị trường EU giai đoạn này cũng tăng lên 3.05 lần từ năm 1990 (5.9%) đến năm 2006 (18%), tuy nhiên tốc độ tăng không được ổn định và đôi khi chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trương EU. Như vậy Eu là thị trường lớn và quan trọng của Việt Nam.Xét về cơ cấu xuất khẩu theo các nước EU, ta thấy kim ngạch của Việt Nam sang thị trường EU đều tăng lên hàng năm (trừ Phần Lan và Hy Lạp). Đối với thị trường như Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan, Bỉ…có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức, chiếm 22.7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU, tiếp đến là Pháp (16.8%), Anh (14.9%), Hà Lan (47.7%), Bỉ (8.6%), Italia (7.1%), Tây Ban Nha (5.5%), Thuỵ Điển (2.6%), Đan Mạch (2.4%)…Năm 2004 các nước thành viên EU là khách hàng nhập khẩu chính của Việt Nam bao gồm Đức 1.1 tỷ USD, Anh 990 triệu USD, Pháp 525 triệu USD, Hà Lan 560 triệu USD, Bỉ 517 triệu USD…Và năm 2006 tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU lại tăng 31%. Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang EU trong những năm qua:dày dép, cafê, dệt may, sản phẩm bằng da thuộc, đồ gỗ gia dụng, đồ chơi trẻ em và các dụng cụ thể thao…Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU thời gian gần đây có một vài thay đổi: xuất hiện hàng chế biến sâu (hàng điện tử, hàng máy). Tỷ lệ hàng chế biến sâu ngày càng gia tăng, đặc biệt là các hàng điện tử mới xuất khẩu vài năm gần đây nhưng đến năm 1999 đã đạt kim ngạch đáng khích lệ. Tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng lên chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU và tỷ trọng hàng nguyên liệu thô giảm xuống còn 30%, tuy nhiên ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0532.doc