Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta

Lời nói đầu Đất nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, đã bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cho đến trước thời kỳ đổi mới, dù có đạt được một số thành tựu nhất định, song nền kinh tế nước ta nói chúng chưa huy động được mọi tiềm năng để phát triển sản xuất như những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, trình độ quản lý... Nguyên nhân thì có nhiều, trong đó có nguyên nhân liên quan đến vấn đề sử dụng các thành phần kinh tế. Chúng ta lúc đầu cho

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rằng, sở hữu công cọng các tư liệu sản xuất là điều kiện tiên quyết để tranh sự bóc lột người lao động, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế đã cho thấy không phải như vậy. Việc xoá bỏ các thành phần kinh tế như thành phần kinh tế cá thể, biểu chủ... đã khiến cho nước ta có một nền kinh tế trì trệ, lạc hậu. Trong nhiều năm trở lại đây, nhận thấy thiếu sót này, Đảng Nhà nước đã khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế và nước ta đã bắt đầu có những khởi sắc rõ rệt. Vấn đề đặt ra là sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có phải là tất yếu khách quan không? Nước ta có những thành phần kinh tế nào, đặc điểm, thực trạng của chúng rasao? Nguyên nhân của thực trạng đó? Phương hướng sử dụng các thành phần kinh tế này trong thời gian tới?... Việc trả lời những câu hỏi này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Chính vì vậy, tác giả của bài tiểu luận này đã chọn nó làm đề tài nghiên cứu cho mình. Hy vọng nó sẽ giúp các bạn hiểu hơn về thực trạng và tương lai phát triển của "Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta". Chương I Cơ sở lý luận - tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần 1.1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 1.1.1. Một số khái niệm. Thành phần kinh tế bao gồm những đơn vị kinh tế mà được đặc trưng bởi một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất do đó có quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối tương ứng với nó. Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm đoạt, chiếm hữu của cải vật chấ của xã hội. Trong mỗi chế độ xã hội chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở để hình thành các thành phần kinh tế. Nó là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là điều kiện của sản xuất với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất. Như vậy, cơ sở để phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau chính là quan hệ sở hữu đặc trưng về tư liệu sản xuất và mỗi thành phần kinh tế tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất nhất định. Số lượng các thành phần kinh tế và tỷ trọng của chúng trong nền kinh tế của một nước phụ thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và cơ cấu cụ thể của nền kinh tế nước đó. Cơ cấu kinh tế là một cấu trúc phức tạp của nền kinh tế, trong đó tồn tại các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế và các vùng kinh tế trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Khi nói tới cơ cấu kinh tế là nói tới cấu trúc của nền kinh tế trên ba phương diện: kinh tế - xã hội, kinh tế - kỹ thuật và không gian. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế, có loại hình sản xuất với qui mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế khác nhau, có cơ chế quản lý và cơ chế phân phối thích hợp. Để cập cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đề cập đến cấu trúc của nền kinh tế về phương diện kinh tế - xã hội, mà trước hết là về phương diện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy khái niệm cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hẹp hơn khái niệm cơ cấu kinh tế. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng ta chủ yếu đề cập đến cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 1.1.2. Cơ sở lý luận - Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Sự tồn tại của các thành phần kinh tế này của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ ở nước ta. Trước hết, bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phải có sự phù hợp đó thì sản xuất mới phát triển được. Nừu như trong nền kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển với nhiều tính chất và trình độ khác nhau, tức là tồn tại nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và do đó, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó luôn có những quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế của một nước. ở nước ta, khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát về lực lượng sản xuất, về phân công lao động xã hội, về năng suất lao động và trình độ phát triển còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, các ngành, các vùng... trong nền kinh tế, công cụ lao động còn tồn tại nhiều trình độ khác nhau, có cả thủ công thô sơ, máy móc, cơ khí, tự động hoá; n lao động có người không lành nghề, chưa qua đào tạo, có người lành nghề, được đào tạo một cách có hệ thống... Do đó, tất yếu tồn tại nhiều cách thức kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động, nhiều qui mô trình độ sản xuất khác nhau, nhiều quan hệ sản xuất khác nhau và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Lịch sử đã cho thấy, hầu như không nước nào có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhật một thành phần kinh tế. Về mặt lý luận, cả Mác và lênin đều cho rằng: không có chủ nghĩa tư bản thuần tuý và không có chủ nghĩa tư bản độc quyền thuần tuý, mà ở đó chỉ có duy nhất một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, một thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cho đến nay, nhận định này vẫn còn giữ nguyên giá trị, bên cạnh thành phần kinh tế tư bản tư nhân chiếm địa vị thống trị, còn tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ... Và lênin cũng đã chỉ ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, mặc dù ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau, số lượng thành phần kinh tế có thể nhiều ít khác nhau. Nền kinh tế nước ta do lịch sử để lại vốn đã là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Để cải biến các thành phần kinh tế đó, cải biến quá trình sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới cao hơn, đòi hỏi phải có những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, vật chất - kỹ thuật, trình độ quản lý và một khoảng thời gian nhất định mà đất nước ta chưa thể đáp ứng ngay được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, nước ta xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể... Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen vào nhau, xoắn xuýt với nhau, tạo thành đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu cầu của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sản xuất hàng hoá, dù vẫn còn những khuyết tật, song có nhiều ưu thế vượt trội so với sản xuất tự cung, tự cấp. Trong nền kinh tế hàng hoá, dưới tác động của các qui luật kinh tế như quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung - cầu thì sản phẩm được tạo ra ngày càng rẻ hơn, đẹp hơn, nhanh hơn... Nhưng để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển thì trước hết phải phôi phục cơ sở tồn tại của nó - đó là nền kinh tế nhiều thành phần. Như vậy nếu sản xuất hàng hoá tồn tại là tất yếu thì sự tồn tại của các thành phần kinh tế cũng là tất yếu và cần thiết. Hơn nữa, trong thời kỳ đổi mới, đất nước ta có nhiều nhiệm vụ đặt ra cần giải quyết như công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giải quyết vấn đề làm việc, thực hiện công bằng xã hội... Để thực hiện được điều đó thì không thể chỉ dựa vào nền kinh tế chỉ có thành phần kinh tế quốc doanh mà cần phải phát huy mọi tiềm năng về vốn, về tài nguyên thiên nhiên, trình độ quản lý, kỹ thuật, công nghệ, không chỉ ở trong nước mà cả của nước ngoài. Mục đích đó chỉ có thể thực hiện khi sử dụng được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Chính sự tồn tại của các thành phần kinh tế đã góp phần phát huy tốt hơn mọi tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế. Như vậy, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một tất yếu khách quan. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra: "Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, với sự điều tiết và quản lý của Nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài của nước ta" Chương II Các thành phần kinh tế và vấn đề sử dụng ở nước ta 1.1. Các thành phần kinh tế ở nước ta 1.1.1. Thành phần kinh tế Nhà nước Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất. ở nước ta, kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế cơ bản bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, ngân sách tài nguyên thiên nhiên... Phần góp vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp cổ phần hay liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước. Kinh tế Nhà nước là một thành phần kinh tế có nhiều bộ phận hợp thành trong đó, doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận nòng cốt. ở nước ta, kinh tế Nhà nước được hình thành chủ yếu bằng hai con đường: quốc hữu hoá những cơ sở kinh tế của chính quyền cũ và một số cơ sở kinh tế của tư bản tư nhân, hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng mới từ nguồn vốn ngân sách tự có, vốn vay hoặc nhận viện trợ của nước ngoài. Trong nến kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước không ngừng lớn mạnh và đóng vai trò chủ đạo. nó nắm những lĩnh vực then chột trong nền kinh tế, những ngành, những lĩnh vực có tác động đến toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội hoặc có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, chính trị của đất nước như ngành điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, công nghiệp quốc phòng... Nó là một công cụ có sức mạnh vật chất mang tính quyết định để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phàan phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo số liệu thống kê "tính đến cuối năm 1989 ở nước ta có 12.084 đơn vị kinh tế quốc doanh, chiếm trên 2/3 tài sản quốc gia, 80 - 90% lao động lành nghề (lao động kỹ thuật, cán bộ khoa học, cán bộ quản lý đã qua đào tạo). Tuy nhiên, hàng năm kinh tế quốc doanh chỉ cung cấp 30 - 40% tổng sản phẩm xã hội, 20 - 30% thu nhập quốc dân, hao phí nguyên, nhiên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm cao gấp 2 - 3 lần mức trung bình của thế giới. Vấn đề cốt yếu của kinh tế hàng hoá là chất lượng sản phẩm lại ít được chú ý. Nhìn chung từ năm 1990 trở về trước, tỷ lệ giữa mức đóng góp củakv kinh tế quốc doanh so với mức chi của ngân sách Nhà nước cho khu vực này là 1:3". Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chưa được đảm bảo. Nguyên nhân là do ý thức chủ quan, duy ý chí, coi các đơn vị kinh tế quốc doanh càng nhiều thì càng mau chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà không chú ý đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ nhận thức sai lầm đó, các đơn vị kinh tế quốc doanh chỉ có số lượng mà không có chất lượng hầu như không có sức cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được duy trì trong một thời gian dài cũng là một nguyên nhân làm cho thành phần kinh tế này không làm tròn chức năng của mình. Hàng năm ngân sách Nhà nước chi bao cấp hàng nghìn tỷ đồng cho các đơn vị hoạt động sản xuất nhưng việc thu hồi thì rất là nhỏ. Việc bù lỗ, bù tiền lương... càng làm giảm sự kích thích nâng cao hiệu quả hoạt động. Vấn đề quản lý còn chồng chéo giữa quản lý kinh tế của Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cũng là một vấn đề nan giải. Khi quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợ ích không gắn liền với nhau thì không thể có động lực cho việc nâng cao năng suất, mà còn đem lại nhiều tiêu cực như tham nhũng, làm thất thoát tài sản... Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế... tất cả tạo nên một bức tranh ảm đạm của nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Sau đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta bắt xoá bỏ dần nền kinh tế quan liêu bao cấp, bước vào nền kinh tế thị trường. Nhà nước chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh, đề ra nhiều đổi mới và sắp xế. Chỉ trong vài năm số doanh nghiệp Nhà nước giảm mạnh, chủ yếi là các cơ sở làm ăn thua lỗ, không đứng vững được trong cạnh tranh. Điều này đã làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, giúp Nhà nước có thể đầu tư hơn nào các lĩnh vực trọng yếu. Sau một thời gian đầy biến động do việc đổi mới cơ chế quản lý, các doanh nghiệp Nhà nước đã dần dần đi vào ổn định và phát triển. Gần đây sau khi thành phần kinh tế quốc doanh đổi tên thành thành phần kinh tế Nhà nước thì mục đích, phương hướng, những ưu - khuyết điểm của nó được xác định rõ ràng hơn. Để có thể khắc phục những khó khăn, vướng mắc như công nghệ còn lạc hậu, trình độ quản lý kém... và để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình, thành phần kinh tế Nhà nước cần thực hiện những biện pháp sau: - Tiếp tục đổi mới, tổ chức, sắp xếp lại các thành phần, các đơn vị kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. - "Tập trung phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, cơ sở hạ tầng...; các cơ sở, doanh nghiệp trọng yếu, đặc biệt là ccs doanh nghiệp có liên quan đến an ninh quốc phòng. Chủ yếu là ot với qui mô lớn và vừa". - Từng cơ sở, đơn vị hoạt động kinh tế cần giải quyết những vấn đề sau: + Đổi mới công nghệ và cách thức tổ chức quản lý, đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ của công nhân, cán bộ quản lý. + Đặt mình trong môi trường tự do cạnh tranh, hợp tác và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. + Đi vào hoạt động ở những ngành, những lĩnh vực có lãi ít, thu hồi vốn chậm, nhiều rủi ro mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư như cơ sở hạ tầng, hoạt động ở vùng sâu, vùng xa... (Nhà nước sẽ có những ưu đãi đối với các doanh nghiệp này). + Hạn chế đi đến xoá bỏ các hành vi tiêu cực như tham nhũng, hỗi lộ, lạm dụng chức quyền... + Các đơn vị xác định rõ mục địch hoạt động của mình. Nếu hoạt động vì lợi nhuận phải thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, hơn nữa các đơn vị cần mở rộng quyền tự chủ, tự bù đắp chi phí sản xuất, có trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể, được khuyến khích bằng lợi ích vật chất... Một hình thức doanh nghiệp đang được khuyến khích phát triển đó là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của việc làm này là nhằm thu hút nguồn vốn từ người lao động, hạn chế tiêu cực, nâng cao tinh thần lao động. Đặc biệt Nhà nước có chính sách động viên chính các cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mua cổ phần. Trong các doanh nghiệp đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần hoặc cổ phần khống chế. Việc thực hiện cổ phần hoá đã được tiến hành thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh và đang được nhân rộng. Vấn đề còn vướng mắc là Nhà nước cần hoàn chỉnh quy chế và tiêu chuẩn lựa chọn hội đồng quản lý, giám đốc điều hành và tuyên truyền cho mọi người thấy lợi ích to lớn của việc cổ phần hoá. 1.1.2. Thành phần kinh tế hợp tác. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, trừ ruộng đất trong nông nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước. Đây là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh... Thành phần kinh tế này tồn tại trong mọi ngành nghề kinh tế và dưới nhiều hình thức. ở nước ta nó tồn tại chủ yếu dưới dạng tập đoàn sản xuất và hợp tac xã (hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng...) Thành phần kinh tế hợp tác ở nước tă được hình thành chủ yếu từ khi tiến hành hợp tác hoá đối với những người sản xuất nhỏ, cá thể. Cùng với inh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác cũng là một bộ phận của hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để nó có thể hoạt động với hiệu quả cao cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của quá trình hợp tác hoá mà V.I. lênin đã đề ra. Đó là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợ dưới sự lãnh đạp của Đảng. Trong đó, nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên, cơ bản nhất. Ngoài ra còn có những nguyên tắc khác như: phải sử dụng các hình thức đa dạng, từ lĩnh vực lưu thông, dịch vụ, đến lĩnh vực sản xuất, phát triển từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã, quản lý dân chủ... Tất cả các nguyên tắc trên có liên quan mật thiết với nhau. Chẳng hạn, không thể đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, nếu như gia nhập hợp tác xã mà không mang lại lợi ích cho người lao động, trứơc hết là lợi ích kinh tế và để các tổ chức kinh tế đó có thể mang lại lợi ích cho người lao động, thì nó phải sản xuất - kinh doanh có hiệu quả. ở nước ta, quan trọng hợp tác hoá đối với những người sản xuất nhỏ diễn ra từ sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954). "Năm 1958, ở miền Bắc có từ 65 - 67% số hộ nông dân đã vào kinh tế tập thể dưới hình thức tổ đội công. Đến năm 1960 đa số hộ nông dân (85,8%) đã vào hợp tác xã (chủ yếu là bậc thấp)". Tiếp sau đó là q chuyển từ hợp tác xã bập thấp lên hợp tác xã bậc cao, các tư liệu sản xuất được tập thể hoá ở mức độ cao và mở rộng quy mô sản xuất. ở miền Nam sau khi giải phóng, các tổ chức kinh tế hợp tác cũng được thành lập. Trong tiểu, thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, quá trình hợp tác hoá cũng diễn ra như vậy, tuy mức độ có thấp hơn. Nhìn chung kinh tế tập thể đã có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhưng khi cả nước cùng bước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sau khi bước vào cơ chế thị trường nó đã bộc lộ các khuyết tật của mình, làm cho sản xuất trì trệ, nhiều hợp tác xã không cònhd, đời sống của người lao động chậm được cải thiện... Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là: - Trước đây chúng ta cho rằng có càng nhiều hợp tác xã với quy mô càng lớn thì tính chất xã hội chủ nghĩa càng cao. - Chúng ta đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của quan trọng hợp tác hoá, trước hết là nguyên tắc tự nguyện. - Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các hợp tác xã còn rất thấp. Ví dụ: "Trong những năm 80, quy mô trung bình của một hợp tác xã là 640 người, với diện tích đất canh tác là 214 ha, nhưng chỉ có 0,51 máy kéo". Do đó, năng suất lao động của các hợp tác xã không cao, điều đó có nghĩa la những hợp tác xã bậc cao mà chúng ta thiết lập, không phải do tính tất yếu kỹ thuật quy định. - Trình độ cán bộ quản lý kém, còn nhiều hạn chế, phần lớn chưa qua đào tạo một cách chính qui. Tất cả nước nguyên nhân đó đã làm biến dạng ệ hợp tác hoá ở nước ta, nó biến thành quá trình tập thể hoá tư liệu sản xuất. Từ sau Đại hội Đảng VI, thành phần kinh tế này đã có những thay đổi rõ rệt. Chẳng hạn, trong nông nghiệp: "Từ 18.631 hợp tác xã năm 1989 giảm xuống còn gần 12.000 hợp tác xã năm 1991, trong đó 15% đổi mới có kết quả, khoảng 30% số hợp tác xã đang trong quá trình chuyển đổi, số còn lại chỉ tồn tại một cách hình thức, tiến tới xoá bỏ". Đồng thời với nó là sự ra đời của một số hợp tác xã kiểu mới tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhưng đã có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế. Để củng cố và phát huy hơn nữa thành phần kinh tế này cần có một số biện pháp như sau: - Cần phải phát triển các loại hình hợp tác đa dạng, đặc biệt là hình thức hợp tác xã cổ phần "được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung ra đời và phát triển do yêu cầu khách quan của sản xuất - kinh doanh, do những người xã viên tự động góp vốn, góp sức, tự chịu trách nhiệm, có tư cách pháp nhân,...". Cần phân biệt kinh tế hợp tác với vai trò là một trong hai thành phần kinh tế chủ đạo với vai trò kinh tế của nó. Có như vậy mới phát huy được cao độ thành phần kinh tế này theo đúng mục đích tồn tại và phát triển của nó. Trong giai đoạn hiện nay thành phần kinh tế này được hình thành chủ yếu trong các khâu như: thuỷ lợi, cung ứngvật tư, dịch vụ kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh... mà từng hộ xã viên không làm được hoặc làm không có hiệu quả bằng hợp tác xã. - Ngoài ra để phát triển tốt thành phần kinh tế hợp tác cần giải quyết một loạt các vấn đề có liên quan đến chính sách hỗ trợ, đầu tư, thuế, tín dụng, áp dụng khoa học - kỹ thuật,... Phải đổi mới căn bản vể quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối, giải quyết tốt những vấn đề đó sẽ làm cho quá trình hợp tác hoá diễn ra phù hợp với qui luật khách quan, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, thành phần kinh tế này cũng cần phải được đổi mới theo xu hướng trên tạo ra sự đồng bộ với các hợp tác xã nông nghiệp. Có như vậy thành phần kinh tế hợp tác mới thực hiện được toàn vẹn chức năng của mình. 1.1.3. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và chế độ bóc lột lao động làm thuê. Nó bao gồm những đơn vị kinh tế mà 100% vốn của tư bản tư nhân, hoặc số vốn của họ chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế tư bản tư nhân gồm cả kinh tế tư bản trong nước và tư bản ngoài nước, một bộ phận tồn tại sẵn trong nền kinh tế do lịch sử để lại, còn đa số được hình thành trong thời gian gần đây Đảng ta đã chỉ rõ "khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh". Thành phần kinh tế này nắm tiềm năng khá lớn về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý, do đó, nó có vai trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết làm việc, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống. Tuy vậy, đối với nước ta, kinh tế tư bản tư nhân chưa phát triển mạnh mẽ vì: - Chúng ta còn có quan niệm giản đơn, cho rằng chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất phi hàng hoá, là sự kế hoạch hoá, tập trung... vì thế, chúng ta đã nôn nóng xoá bỏ các thành phần kinh tế cũ, xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá... không thấy được sự tồn tại của nó là tất yếu khách quan mà chỉ muốn xoá bỏ nó càng nhanh càng tốt. Đây là quan niệm không biện chứng, xã hội mới ra đời phải trên cơ sở xã hội cũ, phát huy những tích cực của xã hội cũ, chỉ thủ tiêu những gì là tiêu cực mà thôi. Từ khi có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, may mặc, xuất khẩu, khách sạn, du lịch,.. Nó góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu xã hội, huy động được nguồn vốn lớn của các nhà tư bản, đặc biệt là các công ty nước ngoài đầu tư vào nước ta, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này mới tập trung ở những lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ, du lịch, khách sạn... với qui mô và dự án nhỏ chứ chưa phát triển mạnh trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Các khu công nghiệp (IZS) và khu chế xuất (EPZs) hoạt động thiếu hậu quả. Sở dĩ vậy là vì: - Chúng ta chưa tạo được niềm tin vững chắc, nhất quán và lâu dài trong chính sách đối với kinh tế tư bản tư nhân, do đó họ thiên về những hoạt động dễ sinh lợi và có thể thu hồi vốn đầu tư nhanh khi điều kiện thay đổi. - Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thuận lợi. + luật đầu tư chưa đồng bộ, còn nhiều thủ tục phiến hà, tốn thời gian, tiền của, thậm chí là lỡ cơ hội đầu tư. + lạm phát tuy đã được kiềm chế song khả năng bộc phát lại còn rất cao, dễ dẫn tới rủi ro. + Cơ sở hạ tầng vật chất xã hội còn thấp kém.. + Đồng tiền Việt Nam có giá trị quá thấp so với các đồng ngoại tệ. - Nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém, tích luỹ nói chung và tích luỹ của dân cư còn nhỏ. Để có thể khai thác được mọi tiềm năng của thành phần kinh tế này chúng ta cần thực hiện. - Khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô, phạm vi hoạt động trong các ngành nghề pháp luật cho phép. - Hoàn chỉnh luật đầu tư, tạo niềm tin cho các nhà tư bản đầu tư vào nước ta. - Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy, cải cách hệ thống hành chính, giảm bớt thủ tục phiền hà... Ví dụ: hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh, thuế, hợp đồng kinh tế. - Nhà nước đẩy mạnh liên doanh với các tư bản tư nhân trong và ngoài nước để hình thành loại hình kinh tế tư bản Nhà nước. 1.1.4. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhâna trong nước và nước ngoài bằng nhiều phương pháp góp vốn hợp tác liên doanh. Kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế kết hợp với những tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... của các nhà tư bản đã làm cho thành phần kinh tế này có nhiều lợi thế to lớn. Các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh lớn, điều kiện hợp tác rộng, hoạt động vì lợi ích của bản thân các nhà tư bản cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay chúng đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim nghạch xuất khẩu, tạo các chỗ làm nhiều hơn... Tuy nhiên, việc phát triển thành phần kinh tế này còn nhiều khó khăn như: - Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém - Trình độ tay nghề, kinh nghiệm, khả năng giao tiếp, vốn ngoại ngữ... của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được so với nhu cầu của thời kỳ hiện nay. - Nước ta chưa có thị trường chứng khoán, việc huy động vốn vào đầu tư còn chưa nhanh và gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa thành phần kinh tế này có liên quan đến nhiều lĩnh vực như an ninh, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, xã hội... Điều đó giải thích tại sao gần đây, kinh tế tư bản Nhà nước mới được khuyến khích phát triển. Dưới cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nền kinh tế nước ta tuy là nền kinh tế khép kín song đã bắt đầu chịu ảnh hưởng. Số vốn đầu tư vào nước ta phần lớn là từ các nước châu á, khi các nước bị tác động, lẽ tất nhiên, nước ta cũng bị tác động. Đã có nhiều nhà máy, cơ sở bị phá sản, số người thất nghiệp gia tăng, giá cả biến động thất thường... Để phát triển hơn nữa thành phần kinh tế này chúng ta cần có một số biện pháp như: - "Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh". - Nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng - Thành lập thị trường chứng khoán, đào tạo các nhân viên và cán bộ có đủ năng lực điều hành để sớm đưa vào hoạt động. - Khuyến khích các ngân hàng thương mại, cá công ty tài chính và các doanh nghiệp Nhà nước hùn vốn và huy động các thành phần kinh tế khác cùng góp vốn thực hiện các dự án, hoặc để tăng tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các công trình hợp tác liên doanh. - Một số vấn đề lớn hiện nay là mặc dù người Việt Nam có tỉ lệ biết chữ cao song trình độ ngoại ngữ thì kém, kể cả phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp. Nếu giải quyết tốt vấn đề này a sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn vào kết quả đã đạt được như: "tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm qua tăng bình quân 50% hàng năm; phần vốn đi vào hoạt động khoảng 1/3 tổng số vốn đăng ký theo dự án" chúng ta thấy rằng với sự góp mặt của kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước nền kinh tế nước ta đã có nhiều bước tiến lên đáng kể. Đó là minh chứng cho đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. 1.1.5. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu thủ. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ. Nó tồn tại ở phạm vi tương đối lớn, chủ yếu là dưới dạng các cơ sở sản xuất - kinh doanh của những hộ nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ,.. nó được khuyến khích phát triển trong rất nhiều ngành nghề và ở hầu hết các vùng của nèn kinh tế. Ưu điểm của thành phần kinh tế này là linh hoạt, nhạy bén, phát huy nhanh và hiệu quả sử dụng vốn lớn. Nó có thể là một mắc xích của sản xuất, hỗ trợ cho các cơ sở lớn, lại có thể là một cơ sở độc lập, tự sản xuất và tiêu dùng. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt là trong chặng đường đầu, thành phần kinh tế này cũng có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu cho sản xuất cũng như cho tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Chẳng hạn, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến (mía - đường), hàng may mặc cho tiêu dùng và xuất khẩu... Một ý nghĩa to lớn của thành phần kinh tế này là nó không chỉ đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn duy trì và phát triển những di sản văn hoá dân tộc, nhất là ở các làng nghề truyền thống. Nhưng hiện nay rất nhiều đồ thủ công mỹ nghệ không còn duy trì được và đang bị mai một. Nguyên nhân là do nền kinh tế thị trường, khi hàng hoá không bán được trong khi các công việc khác kiếm được nhiều tiền hơn thì người lao động sẽ chuyển hướng sản xuất. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách ưu đãi và giúp đỡ người sản xuất tiêu thụ sản phẩm ra cả thị trường bên ngoài. Nước ta bước vào thời kỳ quá độ với sản xuất nhỏ là chủ yếu, vì thể thành phần kinh tế cá thể, tiểu thủ chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là buôn bán nhỏ và kinh doanh dịch vụ. Nông nghiệp là lĩnh vực có phong trào hợp tác hoá mạnh nhất nhưng vẫn luôn tồn tại những người sản xuất nhỏ, cá thể. Trong những năm 80, hộ nông dân cá thể chiếm 10% tổng số hộ nông dân và đất đai canh tác. Hiện nay, do sự tan rã của nhiều hợp tác xã, sô hộ sản xuất cá thể có tăng lên, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích để họ đi vào các loại hình hợp tác. và tất yếu con đường hợp tác của họ phải được thực hiện trên các nguyên tắc tự nguyện, không gò ép và cùng có lợi. Trong một thời gian dài, chúng ta chưa phát huy được hết vai trò của kinh tế cá thể, tiểu thủ vì: - Chúng ta đã vận dụng máy móc quan điểm chỉ có sản xuất lớn là tiến bộ, còn sản xuất nhỏ là cơ sở làm chủ nghĩa tư bản. Do đó chúng ta đã đề ra những chính sách và biện pháp như cải tạo, tập thể hoá không tự nguyện... nhằm xoá bỏ sản xuất hàng hoá nhỏ. Trong khi thực tế cho thấy, các nước lớn tiên tiến vẫn phải tồn tại sản xuất hàng hoá nhỏ, không thể xoá bỏ được. Nó cũng có những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, công nghệ... nó giúp đỡ cho sự phát triển của sản xuất lớn vì thế sự phát triển của nó cũng là tất yếu. Trong thời gian gần đây, nhận thức được đúng đắn về vấn đề này, chúng ta đã có nhiều biện pháp để phát huy vai trò của thành phần kinh tế này là: - Khuyến khích nó phát triển trong các thành thị, nông thôn ở nhiều ngành nghề khác nhau. Kinh tế cá thể không._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0362.doc
Tài liệu liên quan