Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010- 2020

MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Cơ cấu công nghiệp: CCCN. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp: CDCCCN. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH, HDH. Tổng sản phẩm trong nước: GDP. Công nghiệp khai thác: CNKT. Công nghiệp chế biến: CNCB. Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước: SXPPDKN. DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP (theo giá so sánh 1994). 10 Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong GDP 11 Bảng 3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo ngành (theo giá

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010- 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
so sánh1994). 12 Bảng 4: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác (theo giá so sánh 1994) 13 Bảng 5: Tỷ trọng các ngành công nghiệp trong CNKT( theo giá so sánh 1994) 14 Bảng 6: Một số chỉ tiêu đánh giá nhóm ngành công nghiệp chế biến. 15 Bảng 7: Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp chế biến( theo giá so sánh 1994) 16 Bảng 8: Giá trị sản xuất ngành SXPPDKN( theo giá so sánh 1994) 17 Bảng 9: Giá trị sản xuất phân theo trình độ công nghệ( theo giá so sánh 1994) 19 Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp phân theo trình độ công nghệ 19 Bảng 11: Tỷ trọng của các ngành công nghiệp theo trình độ công nghệ 20 Bảng 12: Tỷ trọng các ngành công nghiệp trong công nghiệp công nghệ cao. 21 Bảng 13: Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp công nghệ trung bình. 21 Bảng 14 : Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp công nghệ thấp. 22 LỜI MỞ ĐẦU Trong các năm qua, tuy phải đối mặt với những khó khăn và thách thức trong quá trình hội nhập nhưng nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn được duy trì trong khoảng 7- 8%. Trong đó, đóng góp vào tăng trưởng của ngành công nghiệp là rất đáng kể. GDP công nghiệp liên tục tăng, tỷ trọng trong cơ cấu tổng GDP của đất nước được nâng lên ở mức cao. Giá trị xuất khẩu tăng mạnh. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Việt Nam cũng bộc lộ những yếu kém cần được khắc phục. Vì vậy, trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, trong điều kiện hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp là phải tiếp tục nâng cao sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng của ngành, tiếp tục là đầu tàu trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Một trong các giải pháp có ý nghĩa nhất là phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp đi liền với thúc đẩy sản xuất công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, phù hợp với yêu cầu của thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi xin lựa chọn đề tài: “Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam( giai đoạn 2010- 2020” Qua đề tài này, tôi xin gửi những vấn đề lý luận chung nhất về cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. Tiếp đó, dựa vào những vấn đề lý luận đã nghiên cứu, tôi phân tích thực trang cơ cấu công nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong 5 năm trở lại đây, từ đó tìm hiểu được những thành công và những điểm còn hạn chế trong cơ cấu công nghiệp Việt Nam. Từ đó, tôi đưa ra một số khuyến nghị để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong các năm tiếp theo để thực hiện mục tiêu biến nước ta cơ bản là một nước công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện được đề án này tôi xin trân thành cảm ơn(thầy) Ts.Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề án này. Người thực hiện Phạm Thanh Liêm CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIÊP. I. Các khái niệm. 1. Cơ cấu ngành kinh tế Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Như vậy, cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau: Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số lượng các ngành kinh tế không cố đình, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao động xã hội. Từ đầu thế kỷ 19 nhà kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của ngành sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên ( gồm nông nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm vô hình. Liên hợp quốc (UN) sau này, căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản xuất sản phẩm vô hình là Dịch vụ. Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội, biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay gọi là 3 ngành gộp: Khu vực I bao gồm các ngành nông – lâm – ngư nghiệp; Khu vực II là các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III gồm các ngành dịch vụ. Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số và chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng ( tính theo GDP, lao động, vốn v.v…) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoăc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện theo cấp 1, 2, 3 v.v… Nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế. 2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này xang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cỉa tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến hơn, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. 3. Cơ cấu công nghiệp Là một hệ thống phức hợp các ngành, các vùng, các thành phần… có tác động biện chứng với nhau, trong những không gian và thời gian nhất định, trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được xác định cả về mặt định lượng và định tính, cả về số lượng và chất lượng, cũng như phương thức mà chúng hợp thành. Các thành tố nội hàm của cơ cấu công nghiệp vận động không ngừng, bản thân các thành tố được xem xét trong nhiều trường hợp cũng chính là các hệ thông với cơ cấu nội tại riêng biệt và vận động. Do đó, xem xét cơ cấu công nghiệp, luôn phải tiếp cận theo tư duy biện chứng, vận động. Tuy vậy, người ta thường xem xét cơ cấu công nghiệp trên các mặt chủ yếu sau: - Cơ cấu ngành kinh tê – kỹ thuật, là tổng hợp các ngành, tỷ lệ tương quan và mối liên hệ kinh tế - kỹ thuật giữa các ngành trong tổng thể cơ cấu công nghiệp. - Cơ cấu vùng lãnh thổ - theo sự phân bố về không gian và vùng lãnh thổ. Cơ cấu vùng thường được xác định bởi các ranh giới địa lý hay hành chính. Nhưng bản thân trong đó lại hàm chứa cơ cấu kinh tê – kỹ thuật. Như vậy, cơ cấu vùng thực chất là cơ cấu ngành được sắp xếp theo các vùng địa lý hành chính nhất định mà thôi. - Cơ cấu thành phần kinh tế trong công nghiệp có nguồn gốc từ sự phân định quyền sở hữu với các tổ chức công nghiệp. Cần chú ý rằng, cơ cấu thành phần công nghiệp có ý nghĩa rất lớn đến việc trả lời câu hỏi ai quyết định trật tự công nghiệp. Ở các nước thị trường thì sở hữu tư nhân và hỗn hợp chiếm tỷ trọng đa số tuyệt đối, nên trật tự công nghiệp được quyết định bởi những “ người bỏ vốn”, do đó sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp được quyết định chủ yếu bởi tín hiệu thị trường hay còn gọi là “ dưới bàn tay vô hình”. Trong những nền kinh tế mới chuyển đổi như nước ta, vai trò kinh tế của sơ hữu nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn, do đó, sự chủ động tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhà nước còn rất lớn. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho cơ quan quản lý nhà nước, với tư cách là người nhạc trưởng cho quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, bởi vì: Một mặt, nhà nước hiện có tiềm lực kinh tế mạnh để làm đối trọng, làm lực lượng cho việc xác lập cơ cấu công nghiệp, nhưng mặt khác, các thành phần kinh tế khác với tư cách và quyền hạn của “ người bỏ vốn” , họ có thể làm thay đổi cơ cấu công nghiệp mong muốn từ phía Nhà nước ( vì họ bỏ vốn theo tín hiệu thị trường là chủ yếu). Đây cũng chính là thách thức và nếu không nắm bắt được xu thể thị trường và quyết định của những “người bỏ vốn” độc lập, quản lý nhà nước xẽ khó khăn trong việc can thiệp hình thành cơ cấu công nghiệp mong muốn. 4. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Như đã nói ở trên, cơ cấu công nghiệp bản thân là một hệ thống động bởi sự vận động liên tục của nội tại từng thành tố, bởi sự thay đổi tương quan giữa các thành tố và do đó, dẫn đến các quan hệ ràng buộc đó cũng thường xuyên thay đổi. Cụ thể hơn, đó chính là sự thay đổi các ngành, nội bộ các ngành, các vùng và các thành phần. Sự thay đổi có thể diễn ra theo hướng xuất hiện mới các ngành, vùng mới thay thế cho các ngành, vùng, thành phần không còn phù hợp do đó làm thay đổi tỷ trọng, thay đổi chất lượng của toàn hệ thống. Từ đó có thể hiểu, chuyển dịch cơ cấu công nghiêp là sự thay đổi cơ cấu công nghiệp cả trên khía cạnh các bộ phận cơ cấu ngành, vùng, thành phần, mối quan hệ giữa chúng cả trên khía cạnh số lượng và chất lượng của cơ cấu, để phù hợp với môi trường kinh tế tổng thể bảo đảm phát triển kinh tế bền vững. Để thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, Nhà nước sử dụng cả tiềm lực kinh tế của mình ( hệ thống kinh tế nhà nước) để thay đổi trực tiếp cơ cấu ngành, vùng, thông qua các chiến lược, chính sách phát triển các quy hoạch dài hạn. Đồng thời nhà nước còn sử dụng cả quyền lực để điều chỉnh trật tự công nghiệp, tiến trình ưu tiên phát triển, cũng như các chính sách hợp tác quốc tế để đẩy nhanh tiến trình hợp tác quôc tế để đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo mong muốn. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng diễn ra theo đúng kịch bản bởi rất nhiều nguyên nhân: - Thứ nhất, tầm nhìn và dự báo dài hạn thường bị những biến động bất thường làm sai lệch định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. - Thứ hai, quá trình chuyển dịch thường xuất hiện các xung đột giữa các nhóm lợi ích, nên định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong những giai đoạn, hoàn cảnh nhất định là không nhất quán. Từ đó có thể hiểu, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là “công việc” của cả hệ thống, của mọi ngành, mọi vùng và mọi thành phần tham gia. Để tạo được sự đồng thuận lớn trong chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, đòi hỏi phải có sự phân phối hợp lợi ích của các nhóm lợi ích, và huy động được mọi nguồn lực của nền kinh tế quốc dân. Để làm được điều đó Nhà nước cần phải nắm được và thừa nhận qúa trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là khách quan đồng thời sử dụng đúng đắn nguồn lực, công cụ định hướng để có thể định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu đã định. II. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu công nghiệp trong quá trình phát triển. 1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển: 1.1. Quy luật tiêu dùng của E.Engel. Ngay từ cuối thế kỷ thứ 19 một quy luật tiêu dùng thực nghiệm đã được Ernes Engel đề xướng. Quy luật này phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Đường Engel ( Engel curve) là một đường biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng cá nhân về một loại hàng hóa cụ thể. Đường Engel được minh họa dưới đây: Tiêu dùng Thu nhập Đường Engel Độ dốc của đường này ở bất kỳ điểm nào chính là xu hướng tiêu dùng cận biên của hàng hóa đó và cho thấy tỷ số thay đổi tiêu dùng so với thay đổi thu nhập, nó phản ánh độ co giãn của tiêu dùng một lọai hàng hóa cụ thể so với thu nhập dân cư. Bằng quan sát thực nghiệm, Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của các gia đình tăng lên đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Như vậy, đường Engel thể hiện quy luật tiêu dùng đối với hàng hóa là lương thực thực phẩm có xu hướng dốc lên với độ dốc cao ở đoạn đầu, sau đó độ dốc giảm dần (độ co giãn của cầu hàng hóa theo thu nhập dương) và cuối cùng là có xu hướng đi xuống khi thu nhập gia đình đạt đến một mức độ nhất định (độ co giãn âm). Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực thực phẩm nên có thể xuy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên đến một mức độ nhất định. Quy luật Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu xu hướng tiêu dùng của các loại hàng hóa khác. Các nhà kinh tế gọi hàng hóa nông sản là hàng hóa thiết yếu, các hàng hóa công nghiệp là hàng hóa lâu bền và cung cấp sản phẩm dịch vụ là hàng hóa cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra rằng, trong quá trình gia tăng thu nhập, tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa thiết yếu có xu hướng giảm, tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa lâu bền có xu hướng gia tăng nhưng mức độ nhỏ hơn mức độ gia tăng của thu nhập, còn tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng, độ dốc của hàng hóa này ngày càng cao và đến một mức nào đó thì tốc độ tăng tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. 1.2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, trên cơ sở quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: khu vực thứ nhất bao gồm ngành nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác khoáng sản, khu vực thứ hai bao gồm ngành công nghiệp chế biến, xây dựng và khu vực thứ ba là các ngành dịch vụ, A.Fisher đã phân tích: Theo xu thế phát triển khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là để đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến một lượng lao động như cũ và vì vậy, tỷ lệ lực lượng lao động cho nông nghiệp có xu hướng giảm dần trong cơ cấu kinh tế. Trong khi đó ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế lao động hơn nông nghiệp do tính chất phức tạp của việc sử dụng công nghệ mới, mặt khác độ co giãn của nhu cầu tiêu dùng sản phẩm này là một đại lượng lớn hơn không vì vậy theo sự phát triển kinh tế, tỷ trọng lao động trong công nghiệp có xu hướng tăng lên. Ngành dịch vụ được coi là khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra nó, rào cản cho sự thay thế công nghê và kỹ thuật mới là rất cao. Trong khi đó, độ co giãn của nhu cầu sản phẩm dịch vụ khi nền kinh tế ở trình độ cao là lớn hơn 1 tức là tốc độ tăng nền kinh tế ở trình độ phát triên cao là lớn hơn 1 tức là tốc độ tăng cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế ngày càng phát triển. 1.3. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Từ những cơ sở lý thuyết trên có thể rút ra xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn chuyển một nền kinh tế từ nông nghiệp xang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước: chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp xang công- nông nghiệp để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nội dung cụ thể của xu hướng này thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi trong khi đó tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng đáng kể cả GDP và lao động. Một xu hướng khác cho thấy khi nền kinh tế bước xang giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao hơn tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng cao như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, luật, giáo dục, y tế, du lịch sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao. 2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. 2.1. Xu hướng chung. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục theo hai khuynh hướng: Khuynh hướng chuyển dịch tự phát: Đây là một hiện tượng khách quan bởi việc quyết định đầu tư của những “người bỏ vốn” vào các ngành, vùng theo một phương thức nào đó theo tín hiệu của thị trường, nhằm đạt được hiệu quả cao. Khuynh hướng này thậm chí nhiều khi nằm ngoài tầm kiểm soát của quản lý nhà nước, chỉ đến khi hiệu quả thực tế không như mong đợi thì sự chuyển dịch lại theo hướng khác, tức là đầu tư lại chảy vào các ngành, các vùng nào khác. Các tín hiệu thị trường không phải lúc nào cũng đúng như dự báo, do đó khuynh hướng chuyển dịch tự phát nhiều khi dẫn đến lãng phí các nguồn lực công nghiêp. Khuynh hướng chuyển dịch tự giác và có chủ đích: Nhà nước với bộ máy quản lý, hệ thống pháp luật và chính sách cùng đầy đủ nguồn thông tin khởi xướng và chỉ huy quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp vì lợi ích toàn xã hội. 2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Thứ nhất, sự chuyển dịch các ngành, nhóm ngành công nghiệp từ các quốc gia trong khu vực và quốc tế đến Việt Nam theo hiệu ứng “đàn sếu”. Chúng ta đều biết rằng, ở những trình độ nhất định của sự phát triển, xuất hiện những ngành kinh tế tương ứng. (Như ví dụ đã nêu về sự chuyển giao ngành dệt may của Nhật Bản vào những năm 60 của TK XX cho Hàn Quốc). Như vậy, sự chuyển dich cơ cấu công nghiệp của một quốc gia, đặc biệt là trong quá trình hội nhập, trước hết chịu ảnh hưởng của dòng chuyển dịch khu vực và quốc tế. Đây là một xu hướng mang tính khách quan mà chúng ta cần nhận thức để chủ động đón nhận. Thứ hai, cũng từ quá trình hội nhập, nền kinh tế cần có các tập đoàn mạnh làm đối tác trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Bởi vậy, việc ra đời và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ là một yêu cầu khách quan. Xu hướng tập trung hoá vào một số tập đoàn kinh tế mạnh để làm trụ cột cho các nền kinh tế đang phát triển tham gia hội nhập đã được chứng minh thuyết phục ở các nền kinh tế NICs. Thứ ba, sự xuất hiện các đặc khu kinh tế, khu công nghệ cao là cửa ngõ, là trụ cột cho việc nắm bắt và chủ động hội nhập. Việc kêu gọi dòng chảy đầu tư để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đặt ra một xu hướng rõ nét là, nền kinh tế cần các “điểm mở” để mở cửa với thế giới bên ngoài. Các điểm mở này sẽ là động lực, là chất xúc tác để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Bài học của Trung Quốc sẽ mãi có giá trị về vấn đề này, chỉ tiếc là chúng ta đã chậm đón nhận xu hướng rất khách quan này. Thứ tư, khu vực dân hữu sẽ phát triển nhanh chóng hơn so với khu vực quốc hữu, dẫn đến tỷ trọng của khu vực dân hữu sẽ lớn hơn khu vực công hữu trong GDP là một xu hướng tất yếu, bởi yêu cầu của tính năng động kinh tế. Xu hướng này đòi hỏi phải được nhận thức để khu vực công hữu chỉ tham gia ở những nơi cần thể hiện vai trò của công hữu (những ngành mà dân hữu không được làm, không làm được và không muốn làm). Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước sẽ chú trọng hơn đến chi tiêu công cộng chứ không phải là nhà đầu tư kinh doanh. Công thức: Dân hữu kinh doanh, Nhà nước thu thuế và chi tiêu công cộng, sẽ là xu thế tất yếu để phát triển lành mạnh nền kinh tế. Thứ năm, kiểu doanh nghiệp “tế bào” sẽ xuất hiện ở ngành Công nghiệp Việt Nam như dự báo chung của xu thế thế giới. Chỉ có điều khác về lý do là, trong khi các nước phát triển xuất hiện kiểu DN “tế bào”nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, thì ở Việt Nam, kiểu DN “tế bào” lại xuất hiện bởi tính tư hữu được khích lệ và còn vì nó phù hợp với những vùng sâu, vùng xa có trình độ tổ chức sản xuất còn manh mún. Cần nắm bắt xu hướng này để có chính sách thích hợp cho phát triển các vùng, tiến tới xoá dần khoảng cách giữa các vùng. 3. Các phương thức, công cụ đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Phương thức khai thác lợi thế so sánh. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của mỗi quốc gia trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, chỉ có thể thành công và tham gia vào nền công nghiệp khu vực và quốc tế khi biết dựa vào lợi thế so sánh. Phương thức này nhấn mạnh việc tận dụng và phát huy các lợi thế đã có và sẽ có về các nguồn lực trong so sánh với các nước, để chọn đúng vị thế của sự phân công khu vực và quốc tế. Suốt một thời gian dài, chúng ta ngộ nhận lợi thế về tài nguyên và sức lao động, nên đã nóng vội trong việc định hình CCCN đồng bộ, dẫn đến sự dàn trải, không có lợi thế so sánh. ở đây, cần thấy rằng, bản thân sự tụt hậu đi sau lại là một lợi thế so sánh nếu chúng ta biết rút ra những bài học từ các nước và từ chính chúng ta trong quá khứ để đẩy nhanh CDCCCN. Lợi thế so sánh bản thân là yếu tố động, cần phải phát hiện và có các chính sách kịp thời để hiện thực hoá nó, nhằm đẩy nhanh CDCCCN. Khai thác hợp lý quá trình CDCCCN trong điều kiện kinh tế mở. Thực tiễn phát triển công nghiệp thế giới cho thấy, giữa các quốc gia đã đang và sẽ diễn ra quá trình CDCCCN, thậm chí là chuyển dịch với tốc độ nhanh, mức độ khá triệt để. Sau khi khai thác triệt để các lợi thế so sánh, họ thường dịch chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh đến các nước có lợi thế tốt hơn để thu lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn ngành Dệt - May cực kỳ phát triển ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ XX, nhưng đến những năm 60, khi tiền công ở đây đã cao, ngành này dịch chuyển dần sang Hàn Quốc, đến lượt Hàn Quốc không còn “chịu đựng” nổi chi phí nhân công thì ngành này được chuyển đến các nước Đông Nam á (trong đó có Việt Nam). Như vậy, bên cạnh sự chủ động, chúng ta còn bị động đón nhận những ngành nghề mà các nước đi trước chuyển dịch sang làm thay đổi căn bản CCCN của đất nước. Theo dự báo, chừng 10 năm, nữa Việt Nam sẽ là “công trường” sản xuất và lắp ráp đồ điện tử gia dụng của Đông Nam á, thay chỗ cho Malaysia, Thái Lan ngày nay. Tạo ra các ngành công nghiệp dẫn đầu. Lợi thế so sánh và khai thác hợp lý quá trình CDCCCN quốc tế sẽ đòi hỏi chúng ta phải có những ngành công nghiệp mũi nhọn có trình độ công nghệ cao, dẫn đầu để vừa tham gia vào quá trình phân công kinh tế khu vực và quốc tế, vừa làm đầu tầu cho quá trình CNH, HĐH nền kinh tế. Tạo ra các đặc thù cho công nghiệp. Các nhóm hàng hoá công nghiệp còn được nhắc tới bởi cả khía cạnh nhân văn. Nếu như người Mỹ tạo dáng cho ô tô sự mạnh mẽ (đôi khi là hung dữ) thì người Nhật lại thân thiện hơn với sự sang trọng và tiết kiệm nhiên liệu. Nét đặc thù công nghiệp (nhìn cả dưới góc độ nhân văn) là một phương thức mà quá trình CDCCCN cần xem xét như một phương thức để tăng sức cạnh trạnh trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và trên thế giới. Thúc đẩy chuyên môn hóa để tham gia vào phân công lao động với khu vực và trên thế giới. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong công nghiệp đã chứng minh rằng, những sản phẩm lớn, nhiều chi tiết sẽ không hiệu quả, nếu tổ chức sản xuất khép kín trong một doanh nghiệp, trong một quốc gia. Như vậy có nghĩa là, sự phân công chuyên môn hóa là một yếu tố quan trọng để khai thác mọi lợi thế, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để đẩy nhanh quá trình CDCCCN, chúng ta cần phải quán triệt vấn đề này hơn bao giờ hết, nhất là trong điều kiện hội nhập, chúng ta thường đề cao “tỷ lệ nội địa hoá” của một sản phẩm dịch vụ nào đó, mà không thấy được rằng, nếu tỷ lệ này thấp, nhưng những chi tiết mà chúng ta làm ra có thể bán ra khắp thế giới cho các hãng mua để lắp ráp vào sản phẩm của họ, thì chắc chắn hiệu quả kinh tế còn cao hơn nhiều. Thế giới đã có những khái niệm “vương quốc của trục cơ”, “xứ sở của vi mạch” hàm ý tính chuyên môn hoá cao (chuyên môn hoá chi tiết, bộ phận). Như vậy, CDCCCN cần tạo ra được các ngành, các chi tiết, bộ phận có thể tham gia vào phân công sản xuất công nghiệp khu vực và quốc tế. Có như vậy, CCCN của chúng ta mới bền vững, độc lập, chứ không phải ngược lại là làm mọi thứ, nhưng không thứ nào vào cuộc được với sự phân công kinh tế khu vực và quốc tế. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thực trạng cơ cấu công nghiệp trong nền kinh tế. 1. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân: Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP qua các năm đã có sự chuyển biến tích cực. Theo đó, tỷ trọng trong GDP của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp có xu hướng giảm còn tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng dần, thể hiện nền kinh tế đang đi đúng hướng trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể, tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong 5 năm trở lại đây có xu hướng giảm dần – từ 21.06% năm 2003, 20,39% năm 2004, 19,56% năm 2005, 18,74% năm 2006, và đến năm 2007 là 17,86%. Trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp có xu hướng tăng dần – từ 30,01% năm 2003, 30,78% năm 2004, 31,42% năm 2005, 31,98% năm 2006, 32,49% năm 2007. Nhóm ngành dịch vụ vẫn chiếm phần lớn trong tỷ trọng GDP nhưng lại bị sụt giảm về tỷ trọng vào năm 2004 – từ 40,46% xuống còn 40,26% - và đến năm 2007 vẫn chưa đạt được tỷ trọng như của năm 2003. Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP (theo giá so sánh 1994). Đơn vị: % Chỉ tiêu. 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng cộng. 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nông nghiệp, lâm nghiêp, thủy sản. 21,06 20,39 19,56 18,74 17,86 Công nghiệp và xây dựng. 38,48 39,35 40,17 40,97 41,77 + Công nghiệp. 30,01 30,78 31,42 31,98 32,49 + Xây dựng. 8,47 8,57 8,75 8,99 9,28 Dịch vụ. 40,46 40,26 40,27 40,29 40,37 2. Tương quan giữa tăng trưởng công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế: Trong 5 năm trở lại đây, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành liên tục tăng với tốc độ khá, bình quân từ 16 – 17%/ năm, trong đó kể từ năm 2005 tới nay tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp là trên 17%, vượt chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010(bình quân 15- 15,5%). Tuy nhiên, nhìn vào bảng 2 ta có thể thấy được rằng: trong 5 năm qua tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong GDP chỉ đạt khoảng 10,2%. Như vậy, có thể thấy được rằng mặc dù có sự tăng trưởng nhanh về lượng( biểu hiện ở giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng ở mức cao), nhưng chưa có sự chuyển biến rõ nét về mặt chất( biểu hiện ở tăng trưởng của công nghiệp trong GDP tăng còn chậm). Các nhóm ngành nông, lâm, thủy sản và dịch vụ tốc độ tăng trưởng còn chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong GDP Đơn vị: % Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 GDP 7,34 7,79 8,44 8,23 8,48 Nông nghiêp, lâm nghiệp, thủy sản. 3,62 4,36 4,02 3,69 3,40 Công nghiệp. 10,38 10,62 10,64 10,20 10,21 Dịch vụ. 6,45 7,26 8,48 8,29 8,68 Tương quan giữa tăng trưởng công nghiệp với GDP của cả nước được minh họa bằng đồ thị dưới đây. Nhìn vào đồ thị ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng độ dốc của đường tăng trưởng của ngành công nghiệp trong GDP là thấp hơn so với độ dốc của đường tăng trưởng. Điều này cũng thể hiện được rằng giá trị gia tăng thực tế của công nghiệp còn thấp, chưa có sự chuyển biến về chất. II. Thực trạng cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp. 1. Cơ cấu công nghiệp phân theo nhóm ngành cấp 1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê thì Việt Nam có 3 nhóm ngành cấp 1 như sau: - Công nghiêp khai thác (CNKT). - Công nghiệp chế biến (CNCB). - Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước (SXPPDDN). 1.1. Đánh giá chung. Nhìn chung, cơ cấu công nghiệp phân theo 3 ngành trên thay đổi theo xu hướng sau: - Ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp, năm 2003 là 10,74%, năm 2004 là 10,53%, năm 2005 là 9,21%, năm 2006 là 7,76%, năm 2007 là 6,47%. - Ngành công nghiệp chế biến có xu hướng tăng dần tỷ trọng, năm 2003 chỉ là 82,89%, năm 2004 là 83,32%, năm 2005 là 84,78%, năm 2006 là 86,39%, và năm 2007 là 87,83%. - Ngành sản xuât và phân phối điện, khí đốt và nước có xu hướng giảm dần tỷ trọng, năm 2003 là 6,37%, năm 2004 là 6,15%, năm 2005 là 6,01%, năm 2006 là 5,85%, năm 2007 là 5,7%. Mặc dù có sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, nhưng ta có thể nhận thấy rằng sự chuyển dịch này còn diễn ra chậm chưa phản ánh được xu hướng chuyển dịch vững chắc và lâu dài. Bên cạnh đó là sự xụt giảm trong tỷ trọng của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. Bảng 3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo ngành (theo giá so sánh1994). Đơn vi: %. Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100 100 100 100 100 Công nghiệp khai thác 10,74 10,53 9,21 7,76 6,47 Công nghiệp chế biến 82,89 83,32 84,78 86,39 87,83 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 6,37 6,15 6,01 5,85 5,7 1.2. Đánh giá cơ cấu 3 nhóm ngành cấp 1. 1.2.1 Nhóm công nghiệp khai thác. Theo sự phân ngành của Tổng cục Thống kê, nhóm ngành công nghiệp khai thác được chia ra thành các ngành công nghiệp cấp 2 như sau: - Khai thác than. - Khai thác dầu thô và khí tự nhiên. - Khai thác quặng kim loại. - Khai thác đá và mỏ khác. a. Về giá trị sản xuất: Giai đoạn 2003 – 2005 giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác tăng trưởng vào mức khá, đạt 38350,9 tỷ đồng vào năm 2005. Sự tăng trưởng trên xuất phát từ sự tăng trưởng của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên, nếu như năm 2003 là 25132,4 tỷ đồng thì đến năm 2005 là 27410 tỷ đồng. Đến giai đoạn 2006 – 2007 tăng trưởng của ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần, nếu như năm 2005 giá trị sản xuất toàn ngành là 38350,9 tỷ đồng thì đến năm 2006 đã giảm xuống chỉ còn 37803,5 tỷ đồng, và năm 2007 xuống còn 36902,5 tỷ đồng. Có điều trên là do sự sụt giảm của ngành công nghiệp khai thác dầu thô và khí tự nhiên( 25466,1 tỷ đồng vào năm 2006 và xuống đến 23986,6 tỷ đồng năm 2007). Còn xét về tỷ trọng công nghiệp khai thác trong toàn ngành công nghiệp thì tỷ trọng có xu hướng giảm dần. Bảng 4: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác (theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng Ngành cấp 2 2003 2004 2005 2006 2007 Toàn ngành công nghiệp 305080,4 355624,1 416612,8 487255,7 57077,7 Khai thác._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21532.doc
Tài liệu liên quan