1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN VÀ CÔNG TY
1.1. Tổng quan về Ban quản lý dự án
1.1.1. Khái niệm Ban quản lý dự án
a- Khái niệm quản lý dự án và ban Quản lý dự án
Quản lý dự án là nghệ thuật, chỉ đạo, điều phối các nguồn lực, thiết bị và
vật tư trong suốt chu kỳ của một dự án bằng việc sử dụng các kỹ thuật quản lý
hiện đại và thích hợp để đạt được những mục đích đã được xác định trước: quy
mô, phạm vi của sản phẩm hoặc dịch vụ; chi phí; thời hạn; chất lượng; thỏa mãn
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chuyển đổi PMU sang mô hình Công ty - Giải pháp huy động vốn phát triển hạ tầng giao thông vận tải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách hàng và các bên tham gia.
Ban quản lý dự án (sau đây viết tắt là Ban QLDA) là đơn vị trực thuộc
chủ đầu tư, có tư cách pháp nhân không đầy đủ hoặc sử dụng tư cách pháp nhân
của chủ đầu tư để thực hiện quản lý dự án. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban QLDA
do chủ đầu tư giao.
b- Tính chất:
Quản lý dự án ngày nay đã trở thành một triết học quản lý riêng, đáp ứng
tốt bối cảnh của các tổ chức hiện tại và tương lai. Quản lý dự án bao gồm 3 yếu
tố cơ bản:
- Một văn hóa đặc biệt:
Văn hóa là tập hợp các giá trị về nhận thức, thái độ, cách ứng xử của mọi
người tham gia dự án: quan điểm thỏa mãn khách hàng; ưu tiên các yêu cầu của
dự án; chú trọng vào nhiệm vụ và các kết quả; mở ra môi trường cho dự án; sáng
kiến, khả năng chống rủi ro; phân chia trách nhiệm và quy trách nhiệm rõ ràng;
tính nghiêm khắc, chặt chẽ, kỷ lụât, tự giác; năng lực yêu cầu của các bên tham
gia dự án; tinh thần tập thể, hợp tác.
- Một hình thức tổ chức đặc biệt
Các nguyên tắc tổ chức chủ yếu của quản lý dự án hoàn toàn đối lập với quản
lý theo khuynh hướng tổ chức chỉ đạo theo cấp bậc, phân chia các bộ phận riêng
lẻ, quan liêu bàn giấy. Mô hình tổ chức quản lý dự án bao gồm các yếu tố sau:
2
+ Vai trò của người hòa nhập các bộ phận với nhau: Giám đốc điều hành dự án;
+ Một ê kíp của dự án: gồm nhiều chuyên môn khác nhau, nhiều đơn vị bộ phận;
+ Một cấu trúc ít cấp chỉ đạo, quản lý, có tinh thần tổ chức cao, linh hoạt;
+ Một phương thức hoạt động mềm dẻo;
+ Các quan hệ ngang cấp (quan hệ các bên theo chiều ngang) quan trọng hơn là
các quan hệ cấp trên, cấp dưới (theo chiều dọc);
+ Phải có cơ chế quản lý các mặt phân giới bên trong và bên ngoài;
+ Sự phân chia mức độ hoạt động;
+ Các hệ thống và các quá trình đáp ứng yêu cầu của dự án.
- Một tập hợp các kỹ thuật và các công cụ:
Quản lý dự án đã trải qua thời gian đến nay đã trang bị một tập hợp các kỹ thuật
và công cụ đặc biệt để quản lý một cách hiệu quả hơn chu kỳ sống của dự án.
Sơ đồ 1.1: Minh họa các chức năng của QLDA và môi trường của nó
- Địa lý tự nhiên
- Chính sách
- Xã hội
- Quy định luật
lệ
- Công nghệ
- Kinh tế
- Văn hóa
- Khách hàng
- Người cấp vốn
- Nhà cung cấp
- Nhà thầu phụ
- Người sử dụng
- Các nhóm gây
sức ép
Tổ chức bên trong dự án
Các nguồn bên trong
M
ôi
tr
ư ờ
ng
c
ủa
d
ự
án
C
ác bên tham
gia dự án
Phạm vi quy mô Thời gian
Các chức năng của quản
lý dự án
- Lập kế hoạch
- Giám sát
- Kiểm tra
- Chỉ đạo
- Điều phối
- Quản lý mặt phân giới
Chất lượng Chi phí
3
Ở trung tâm của mô hình gồm 5 chức năng quản lý truyền thống. Phương
pháp quản lý dự án là phân nhỏ dự án hành các phần việc ngày càng đơn giản
hơn. Vì vậy, chức năng “quản lý mặt phân giới” của các bộ phận dự án được
thêm vào là một chức năng quan trọng, quyết định thành công của dự án, nó
được xem là yếu tố chính của quản lý dự án.
Đối tượng của các chức năng quản lý dự án rất đặc thù, song có thể quy
thành 4 tham số lớn là: Phạm vi - Thời gian – Chi phí - Chất lượng. Ngoài ra, dự
án còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường bên trong và bên ngoài của nó. Viện
quản lý dự án ở Mỹ đưa ra một cấu trúc về quản lý dự án như sau:
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ các chu trình quản lý của QLDA
Quản lý dự án bao gồm quản lý 8 quá trình trong suốt chu kỳ của dự án.
Mỗi một quá trình có những kỹ thuật và công cụ riêng để sử dụng để đảm bảo
thành công dự án. Trên cơ sở nắm vững bản chất của dự án và quản lý dự án
nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý dự án riêng cho từng loại dự án khác nhau.
c- Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban QLDA
Ban QLDA có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Quản lý dự án
Quản lý
phạm vi
Quản lý
chất lượng
Quản lý
thời hạn
Quản lý chi
phí
Quản lý TT
liên lạc
Quản lý
cung ứng
Quản lý
nhân lực
Quản lý rủi
ro
Các quá trình cơ bản
Các quá trình hoàn thành
4
- Thực hiện các thủ tục về giao nhận đất, xin cấp giấy phép xây dựng,
chuẩn bị mặt bằng xây dựng và các công việc khác phục vụ cho việc xây dựng
công trình;
- Chuẩn bị hồ sơ thiết kế, dự toán, tổng dự toán xây dựng công trình để chủ
đầu tư tổ chức thẩm định, phê duyệt theo quy định;
- Lập hồ sơ mời dự thầu, tổ chức lựa chọn nhà thầu;
- Đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà thầu theo uỷ quyền của chủ đầu
tư;
- Thực hiện nhiệm vụ giám sát thi công xây dựng công trình khi có đủ điều
kiện năng lực;
- Nghiệm thu, thanh toán, quyết toán theo hợp đồng ký kết;
- Quản lý chất lượng, khối lượng, tiến độ, chi phí xây dựng, an toàn và vệ
sinh môi trường của công trình xây dựng;
- Nghiệm thu, bàn giao công trình;
- Lập báo cáo thực hiện vốn đầu tư hàng năm, báo cáo quyết toán khi dự án
hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng.
Trường hợp dự án thực hiện theo hình thức tổng thầu, ngoài việc phải thực
hiện các nhiệm vụ theo quy định trên, Ban QLDA còn phải thực hiện các công
việc sau:
- Thoả thuận với tổng thầu về hồ sơ mời dự thầu, hồ sơ mời đấu thầu mua
sắm thiết bị công nghệ chủ yếu và về chi phí mua sắm thiết bị thuộc tổng giá trị
của hợp đồng;
- Phê duyệt danh sách các nhà thầu phụ trong trường hợp chỉ định tổng
thầu.
1.1.2. Quá trình hình thành và cơ sở pháp lý hoạt động của Ban quản lý dự
án
Khi áp dụng hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án thì chủ đầu tư
5
phải thành lập Ban QLDA, trừ trường hợp dự án có quy mô nhỏ, đơn giản có
tổng mức đầu tư dưới 1 tỷ đồng.
Ban QLDA được đồng thời quản lý nhiều dự án khi có đủ điều kiện năng
lực và được chủ đầu tư cho phép. Ban QLDA không được phép thành lập các
Ban QLDA trực thuộc hoặc thành lập các đơn vị sự nghiệp có thu để thực hiện
việc quản lý dự án.Cơ cấu tổ chức của Ban QLDA do chủ đầu tư quyết định phù
hợp với quy mô, tính chất, yêu cầu của dự án và nhiệm vụ, quyền hạn được chủ
đầu tư giao. Ban QLDA có thể thuê tổ chức, cá nhân tư vấn để tham gia quản lý,
giám sát khi không có đủ điều kiện, năng lực để tự thực hiện, nhưng phải được
chủ đầu tư chấp thuận.
Đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình quy mô lớn, phức tạp hoặc
theo tuyến thì Ban QLDA được phép thuê các tổ chức tư vấn để quản lý các dự
án thành phần.
Ban QLDA được ký hợp đồng thuê cá nhân, tổ chức tư vấn nước ngoài có
kinh nghiệm, năng lực để phối hợp với Ban QLDA để quản lý các công việc ứng
dụng công nghệ xây dựng mới mà tư vấn trong nước chưa đủ năng lực thực hiện
hoặc có yêu cầu đặc biệt khác.
Việc thuê tư vấn nước ngoài đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà
nước phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép.
Cơ cấu tổ chức của Ban QLDA gồm có giám đốc, các phó giám đốc, các
đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ; những người tham gia Ban QLDA có thể làm
việc theo chế độ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Giám đốc, các phó giám đốc và
những người phụ trách về kỹ thuật, kinh tế, tài chính phải có trình độ đại học
thuộc chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực phụ trách và có kinh nghiệm làm việc
chuyên môn tối thiểu 3 năm. Riêng đối với các dự án nhóm C ở vùng sâu, vùng
xa thì các chức danh nêu trên có thể giao cho những người có trình độ cao đẳng
hoặc trung cấp thuộc các chuyên ngành phù hợp.
Ban QLDA được giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
6
1.1.3. Sự khác nhau giữa Ban QLDA và tổ chức tư vấn quản lý dự án:
Bảng 1.1: So sánh sự khác nhau giữa Ban QLDA và tổ chức tư vấn QLDA
Ban quản lý dự án Tổ chức tư vấn quản lý dự án
Về tổ chức - Do chủ đầu tư thành lập - Là một tổ chức được thành
lập theo Luật doanh nghiệp
Về nhiệm vụ
và quyền hạn
- Ngoài những nhiệm vụ đã
nêu tại khoản 2 Điều 36 của
Nghị định 16/2005/NĐ-CP
thì “ Tuỳ theo đặc điểm cụ
thể của dự án, chủ đầu tư có
thể uỷ quyền cho Ban QLDA
thực hiện một phần hoặc
toàn bộ các nhiệm vụ, quyền
hạn của mình ”
- Được quyền ra các quyết
định hành chính theo ủy
quyền.
- Ban QLDA được đồng thời
quản lý nhiều dự án khi có
đủ điều kiện năng lực và
được chủ đầu tư cho phép
- Chuẩn bị hồ sơ thiết kế, dự
toán, tổng dự toán xây dựng
công trình để chủ đầu tư tổ
chức thẩm định, phê duyệt
theo quy định.
- Được Nhà nước giao vốn,
ủy thác vốn để quản lý
- Ngoài những nhiệm vụ đã nêu
tại khoản 3 Điều 37 của Nghị
định 16/2005/NĐ-CP thì “Tuỳ
điều kiện của dự án, chủ đầu tư
có thể giao các nhiệm vụ khác
cho tư vấn QLDA và phải được
ghi cụ thể trong hợp đồng ”
- Tư vấn các vấn đề để cấp
thẩm quyền ra quyết định.
- Cá nhân đảm nhận chức danh
giám đốc tư vấn QLDA không
được đồng thời đảm nhận quá
một công việc theo chức danh
trong cùng một thời gian
- Kiểm tra hồ sơ thiết kế, dự
toán, tổng dự toán xây dựng
công trình để chủ đầu tư phê
duyệt .
- Nguồn vốn tự có của công ty.
7
1.2. Tổng quan về doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
1.2.2. Đặc điểm
Căn cứ vào hình thức sở hữu, mỗi quốc gia thường có những loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản, các loại hình doanh nghiệp bao
gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, có doanh nghiệp
nhà nước hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh
doanh sau đây:
- Kinh doanh cá thể (sole proprietorship)
- Kinh doanh góp vốn (pernership)
- Công ty (corporation)
Kinh doanh cá thể:
Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính
thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước.
Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu
nhập cá nhân.
Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các
khoản nợ, không có sự tách biệt tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp.
8
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp tùy thuộc vào tuổi thọ của người
chủ.
Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ.
Kinh doanh góp vốn:
Việc thành lập doanh nghiệp dễ dàng, chi phí thành lập thấp. Đối với hợp
đồng phức tạp cần phải được viết tay, một số trường hợp cần giấy phép kinh
doanh.
Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn đối với khoản nợ . Mỗi
thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng vốn góp. Nếu như một thành
viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành
viên khác hoàn trả.
Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chết hay rút vốn.
Khả năng về vốn hạn chế
Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá
nhân.
Công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba lợi ích: các cổ
đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền
thống, các cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động
của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa
chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách
mang lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi nhà
quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn:
Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới.
Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông
Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vàp công
ty (trách nhiệm hữu hạn)
1.3. Sự cần thiết phải chuyển đổi các Ban quản lý dự án thuộc Bộ Giao
thông vận tải sang mô hình các công ty hoạt động theo luật Doanh nghiệp
1.3.1. Yếu tố khách quan
9
Đất nước sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế của chúng ta đã có những
bước phát triển vượt bậc. Nhằm phù hợp và đẩy nhanh tiến trình hội nhập, hệ
thống pháp lý của chúng ta ngày càng được củng cố, đổi mới để tiếp cận các quy
định của khung pháp lý quốc tế. Đặc biệt hai năm 2005 - 2006, Nhà nước đã ban
hành nhiều quy định mới trong lĩnh vực quản lý XDCB mà cụ thể là các Nghị
định 16, 112, 131 và mới đây nhất là thông tư 02/2007/TT-BXD ngày
14/02/2007, thông tư 03/2007/TT-BKH ngày 12/3/2007.
Chúng ta gia nhập WTO, GDP đầu n gười ngày một tăng cao... đồng nghĩa
là nguồn vốn hỗ trợ phát triển với lãi suất ưu đãi (ODA) từ các nước và các Tổ
chức tài chính trên thế giới sẽ giảm và dần sẽ chuyển sang hình thức vay theo lãi
suất thương mại (OCR).
Trong khi yêu cầu phát triển hạ tần g GTVT lại càng cấp bách, thì ngoài
nguồn vốn ngân sách, chủ trương kêu gọi đầu tư vào hạ tầng bằng nhiều nguồn
vốn khác nhau và việc hình thành “thị trường vốn” để thực hiện xã hội hóa
nguồn vốn cho xây dựng hạ tầng GTVT là yêu cầu cấp thiết.
Vì vậy muốn cùng đầu tư để thu hút nguồn vốn thì phải có tổ chức có đầy
đủ năng lực pháp lý, kinh nghiệm, uy tín ... để huy động vốn từ các nguồn vốn
khác.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
Với mục tiêu ổn định: sau khi chuyển đổi các PMU tiếp tục g iữ vững, duy
trì được các hoạt động như hiện nay;
Với mục tiêu phát triển: sau khi chuyển đổi các PMU phát huy tốt mọi khả
năng để đảm nhận những nhiệm vụ có yêu cầu trách nhiệm cao hơn trong chu
trình đầu tư;
Với mục tiêu pháp lý: sau khi chuyển đổi các PMU p hù hợp với các quy
định mới được ban hành trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Đồng thời, việc chuyển đổi tổ chức từ hình thức hành chính sự nghiệp sang
doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý dự án, có thể nhận thấy :
10
- Là nhu cầu tất yếu một khi công tác quản lý dự án đã trở thành một nghề;
- Là kết quả của quá trình tích luỹ kinh nghiệm, năng lực chuyên môn của
tập thể PMU, tăng cường trách nhiệm trong chỉ đạo dự án; phù hợp với yêu cầu
phát triển của nền kinh tế và tăng cường hợp tác hội nhập để phát triển.
- Tạo điều kiện về cơ sở pháp lý để hình thành, tham gia vào thị trường vốn
đầu tư; tăng cường khả năng tự chủ trong bước khai thác, vận động nguồn vốn.
Hạn chế ảnh hưởng của cơ chế quản lý hành chính độc quyền và cơ chế “xin -
cho” trong chu trình lập kế hoạch, giao nhiệm vụ quản lý dự án.
1.3.3. Từ yêu cầu công việc
Khối lượng các dự án hạ tầng GTVT phải tập trung đầu tư trong khu vực là
rất lớn. Cụ thể một số hạng mục một số dự án trọng điểm trong tương lai gần là:
Bảng 1.2: Danh mục dự án đầu tư đến 2010 của các PMU
TT Danh mục Tổng mức(triệu USD) Ghi chú
1 Đường vành đai 2 Tp. HCM 582
2 Đường Vành Đai 3 Tp.HCM 1.321
3 Đường Vành Đai 4 Tp. HCM 675
4 Xe điện nội đô Tp. HCM 2.250
5 Đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận 704
6 Đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ 421
7 Cao tốc Bến Lức - Nhơn Trạch 1.829
8 Cao tốc Tp. HCM - TDM - Chơn Thành 845
9 Cao tốc Dầu Giây - Đà Lạt 1.329
10 Cao tốc Tp. HCM - Mộc Bài 637
11 Cao tốc Tp. HCM - Nha Trang 2.625
12 Cao tốc Giẽ - Ninh Bình 1.597
13 Cao tốc Pháp Vân – Mai Dịch – Nội Bài 2.906
14 Cao tốc Hà Nội – Đoan Hùng 1.834
Cộng tổng mức đầu tư dự kiến (theo mặt 19.555
11
bằng giá năm 2000)
(Nguồn: Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận)
Trong khu vực đã có dấu hiệu hình thành “thị trường vốn” đầu tư; nhiều tổ
chức nước ngoài chuyên ngành về Quản lý dự án đã bước đầu xâm nhập “thị
trường” để tham gia cạnh tranh v.v.
Do vậy, để đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển trong tình hình mới, việc giữ
nguyên hình thức hoạt động của các PMU với cơ chế quản lý như hiện nay, về
cơ bản, không còn phù hợp, làm hạn chế phạm vi và lĩnh vực hoạt động, không
phát huy được nguồn nhân lực, kinh nghiệm trong chuyên ngành quản lý, đầu tư
phát triển hạ tầng… Nhu cầu cần tổ chức lại mô hình hoạt động của các PMU để
phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước, phù hợp với cơ sở pháp lý hiện
hành và đảm bảo công ăn việc làm cho tập thể CBCNV đã trở thành yêu cầu cực
kỳ cấp thiết, cấp bách.
1.4. Nghiên cứu mô hình và kinh nghiệm của công ty ngành GTVT của một
số quốc gia trên thế giới
Cùng với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của tiến trình thị trường hoá
kinh tế xã hội, việc cải cách thể chế huy động, đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạ
tầng GTVT đã gặt hái được những thành quả ban đầu, nhưng vẫn chưa thích ứng
được nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội. Trong bối cảnh thị trường hoá, buộc
phải tiến thêm một bước trong việc sáng tạo chế độ, phải xây dựng từ căn bản
một thể chế huy động, đầu tư vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường. Qua phân tích các vấn đề còn tồn tại và kinh nghiệm thu được qua cải
cách thể chế huy động, đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT ở một số quốc
gia trên thế giới, đào sâu động lực cải cách thể chế trong nền kinh tế thị trường,
kết hợp với kinh nghiệm cải cách ở các nước Châu Á, đưa ra xu hướng phát triển
cải cách thể chế. Đồng thời, chủ yếu xác định vị trí và tác động đặc biệt của các
Công ty Nhà nước ngành GTVT niêm yết trong tiến trình cải cách thể chế huy
động, đầu tư vốn.
1.4.1. Mô hình của các quốc gia phát triển
12
1.4.1.1. Mô hình của Nhật Bản
Với cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được phát triển đồng bộ, liên tục qua
hơn 5 thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống giao thông vận tải
của Nhật Bản gần như đã đạt đến trình độ “không phải phát triển gì thêm”.
“Phép màu” nào đã giúp Nhật Bản vươn lên t ừ đổ nát chiến tranh, có được
một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển vào bậc nhất thế giới như hiện nay. Điều gì
đã giúp Nhật Bản giảm bớt được sức ép lên ngân sách do nhu cầu đầu tư lớn cho
hạ tầng GTVT. Nghiên cứu mô hình Công ty quản lý cầu đường “Honshu-
Shikoku Bridge Authority” (HSBA) giúp chúng ta rút ra được một số kinh
nghiệm bổ ích.
Công ty HSBA: Công ty quản lý cầu đường Honshu-Shikoku (HSBA) được
thành lập ngày 01/6/1970 để quản lý việc xây dựng và vận hành hệ thống đường
bộ thu phí và đường sắt nối Honshu và Shikoku với Tổng vốn đầu tư khoảng 25
tỷ Đô la.
- Vốn của HSBA gồm vốn đầu tư và vốn vay. Hai phần ba vốn đầu tư là
của Chính phủ Trung ương, phần còn lại là đóng góp của chính quyền 10 địa
phương liên quan. Tiền vay dưới dạng trái phiếu có bảo lãnh của Chính phủ, trái
phiếu lĩnh trong lĩnh vực tư và các khoản vay.
- HSBA chịu trách nhiệm trước Bộ GTVT và Bộ XD trong việc xây dựng
kế hoạch, thiết kế và xây dựng, duy tu và khai thác ba tuyến đường cao tốc chính
nối Honshu và Shikoku. Hệ thống đường này bao gồm cả 15 cây cầu lớn trong
đó có cầu Tatara là cầu dây văng lớn nhất thế giới (nhịp giữa 890m) và cầu
Kurushima Kaikyo là cầu dây võng lớn nhất thế giới (nhịp giữa 1991m), các cầu
này được xây dựng và hoàn thành trong các năm 1976-1999.
- Đến nay HSBA đã và đang hoàn trả tất cả các khoản vay cho việc xây
dựng, duy tu và khai thác công trình qua việc thu phí và kinh doanh dịch vụ hệ
thống đường được giao. Để nâng cao hiệu quả quản lý, ngày 01/10/2001 HSBA
được chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn cầu đường cao tốc
“Honshu-Shikkoku Bridge Expressway Limited” (HSBE).
13
- Toàn bộ tài sản và các khoản nợ của HSBE do Cục quản lý đường cao tốc
(Japan Expressway Holding and Debt Repayment Agency – JEHDRA) giám sát.
HSBE thuê tài sản đường từ JEHDRA và trả tiền thuê đường thông qua thu nhập
từ việc kinh doanh đường. JEHDRA trả các khoản nợ xây dựng đường trong thời
hạn 45 năm.
HSBE được quyền thực hiện các chức năng sau:
- Duy tu, đổi mới, thực hiện các dự án khôi phục do thiên tai, và các công
việc vận hành khác đối với tài sản đường thuê từ JEHDRA.
- Quản lý hệ thống cầu liên hợp sắt – bộ do JEHDRA ủy thác.
- Xây dựng, nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, thí nghiệm và các nghiên cứu về
cầu nhịp lớn do Chính phủ Trung ương và chính quyền địa phương ủy thác.
- Vận hành khai thác các trạm nghỉ và trạm cung cấp gas trên toàn tuyến.
Như vậy, với mô hình HSBE, Nhật Bản chuyển giao công tác quản lý các
cơ sở hạ tầng giao thông vận tải cho chính đơn vị quản lý xây dựng dự án để
khai thác một cách đồng bộ, hoàn trả vốn đầu tư và phát triển các tiện ích, dịch
vụ bổ sung để nâng cao hiệu quả, khai thác vận hành các cơ sở hạ tầng đã được
xây dựng.
1.4.1.2. Mô hình của Hàn Quốc
Tổng công ty đường cao tốc Hàn Quốc (Korean Highway Corporation –
KHC, nay là Korean Expressway Corporation là một tổng công ty rất lớn của
Hàn Quốc chuyên về phát triển mạng lưới cầu đường bộ và đường cao tốc.
Thành lập ngày 15/02/1969, vốn đầu tư là 50 tỷ won, sở hữu 75km đường.
Đến nay công ty quản lý 23 tuyến đường cao tốc với tổng chiều dài lên tới
3.400km.
Tổng tài sản năm 2004 là 303.732 triệu won; trong đó vốn cổ phần là
169.389 triệu won, các khoản nợ là 143.343 triệu won.
Tổng thu năm 2005 là 6.069,90 tỷ won; trong đó: thu phí 2.241,80 tỷ won
(37%), đầu tư Chính phủ 1.394,50 tỷ won (23%), trái phiếu và các khoản vay
14
2.209,30 tỷ won (36%), Kinh doanh phụ 90,50 tỷ won, thu khác 133,80 tỷ won
(4%).
Chi năm 2005 gồm: trả nợ gốc 1.125,20 tỷ won (18%), lãi vay 960,80 tỷ
won (15%), duy tu – sửa chữa 725,80 tỷ won (12%), nâng cấp tiện ích 235,40 tỷ
won (4%), xây dựng mới 2.945,20 tỷ won (38%), chi phí khác 430,80 tỷ won
(8%).
Nhìn qua số liệu trên, có thể thấy, đối với một công ty lớn về đường cao tốc
tầm cỡ quốc gia và quốc tế như KHC, để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thì
vốn đầu tư của Chính phủ chỉ chiếm 23% trong khi đó vốn vay chiếm 36%,
nguồn thu phí chiếm 37% và thu từ dịch vụ khác chiếm 4%. Như vậy, vốn đầu tư
của Nhà nước thực chất là “vốn cơ bản” là “vốn mồi” để làm cơ sở vay vốn và
thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Quá trình đầu tư và phát triển thông qua một
Công ty phát triển đường cao tốc được Chính phủ ủy thác.
1.4.2. Mô hình của các quốc gia đang phát triển
Mô hình của Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách thu phí đường bộ “vay vốn làm đường, thu
phí hoàn trả khoản vay” làm trọng tâm từ những năm khoảng 25 năm nay, đồng
thời khởi đầu cao trào xây dựng đường cao tốc dưới sự tác động của chính sách
này, đến đầu năm 2004 đã xây dựng được hơn 30.000km đường cao tốc. Quy
hoạch mạng cao tốc quốc gia là 80.000km.
Trung Quốc tiến hành cải cách thể chế, đầu tư vốn xây dựng đường thu phí
theo các phương diện sau:
Đặc quyền hóa công ty: giao các Công ty Dự án đặc quyền cung cấp dịch
vụ cho người sử dụng đường theo tiêu chuẩn dịch vụ và tiêu chuẩn chất lượng
theo quy định trong Thỏa thuận đặc quyền. Công ty dự án sẽ là “Pháp nhân dự
án” độc lập, cụ thể chịu trách nhiệm đầu tư, huy động vốn, xây dựng và quản lý
vận hành kinh doanh đường cao tốc theo qui mô, tiêu chuẩn kỹ thuật được Chính
phủ phê duyệt. Thời gian kinh doanh trong Hợp đồng thường là 25 năm kể từ
ngày thông xe, sau khi hết hạn, công ty dự án sẽ bàn giao miễn phí cho Chính
15
phủ toàn bộ trang thiết bị dịch vụ quản lý đường cao tốc.
Thị trường hóa định giá: Nhà vận hành kinh doanh đặc quyền phải xây
dựng hệ thống giá thu phí linh hoạt (dưới sự kiểm soát, giám sát của Nhà nước)
tùy theo sự thay đổi nhu cầu của thị trường.
Thương mại hóa cơ cấu: thực hiện Công ty hóa đường cao tốc. Chuyển dần
vốn sở hữu Nhà nước thành sở hữu công ty và các Công ty này hoạt động, vận
hành theo luật công ty.
Xã hội hóa huy động vốn: thiết lập hệ thống pháp luật, môi trường chính
sách phù hợp, giảm thiểu trở ngại mang tính chất thể chế - chính sách, khuyến
khích các nguồn vốn xã hội đầu tư vào lĩnh vực đường cao tốc thông qua các
kênh khác nhau, đồng thời đề ra cơ chế đền bù hoàn trả phù hợp.
Quá trình cải cách thể chế, đầu tư vốn xây dựng đường thu phí thực hiện
theo các bước sau:
- Cơ quan quản lý ngành (Bộ, Sở chủ quản) coi vốn đầu tư xây dựng đường
cao tốc của Nhà nước làm “vốn cơ bản”, bước đầu thành lập Công ty Dự án mà
chủ thể là vốn Nhà nước, tiếp đó ủy thác Công ty Dự án làm chủ thể huy động
vốn bằng cách vay vốn ngân hàng cho phần vốn xây dựng còn thiếu.
- Từng bước cải tổ có chọn lựa một số Công ty Dự án có hiệu quả kinh tế
cao thành công ty cổ phần, công khai huy động vốn bằng phương thức IPO trên
thị trường vốn trong và ngoài nước đầu tư vào dự án mới, bước đầu hình thành
cơ cấu huy động vốn xã hội hóa đường bộ thu phí.
- Phát triển các Công ty đường bộ niêm yết để xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ
tầng đường bộ, tạo sự liên kết hữu cơ giữa nguồn vốn xã hội và ngành đường
cao tốc.
Bảng 1.3: Tóm tắt kết quả thực hiện dự án đầu tư từ năm 2002-2007
STT Loại dự án Số dự án Khối lượng (Km)
1 Đường cao tốc 16 6.115,5
16
2 Cầu 2 30,2
3 Hầm 2 3,9
Nguồn : Naning New West Propertt $ Investment Co., Ltd
1.4.3. Đặc điểm của các công ty Nhà nước ngành GTVT trên thế giới
1.4.3.1. Quản lý
Các công ty Nhà nước chịu trách nhiệm thi công và duy tu bảo d ưỡng các
công trình xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT, với thu nhập từ họat động như tiền thu
phí, các công ty hoàn trả tất cả mọi số tiền mượn hoặc vay để xây dựng các
tuyến đường bộ và đường sắt, bao gồm tất cả chi phí thi công, duy tu bảo dưỡng
và tiền lãi.
1.4.3.2. Phạm vi hoạt động
Phạm vi hoạt động của các công ty này rất rộng, không chỉ ở phạm vi quốc
gia mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Nhằm thực hiện chiến lược cạnh tranh, chiếm lĩnh và khai thác thị trường
quốc tế, các công ty này đã mở rộng quy mô bằng việc thành lập các chi nhánh
hoạt động ở các quốc gia, tăng cường hợp tác, liên kết, phân công lao động quốc
tế.
1.4.3.3. Tài chính
a- Thu nhập
Các công ty đã đ ược tài trợ thông qua những khỏan đầu tư và những khoản
vay. Những khoản đầu tư, đã được tài trợ mà không có bất kỳ khoản tiền lãi nào,
đã được sử dụng để hạ tỷ lệ tiền lãi đối với các khỏan vay chưa được hoàn trả.
Như vậy, các công ty đã không chịu gánh nặng quá mức về tiền lãi trên khoản
nợ. Hai phần ba tổng số tiền đầu tư do chính phủ trung ương tài trợ, số còn lại
được phân chia bởi chính quyền địa phương bị ảnh hưởng bởi dự án. Các khỏan
vay bao gồm những trái phiếu đ ược chính phủ bảo lãnh, trái phiếu và những
khỏan vay của lãnh vực tư. Những nguồn khác bao gồm thu nhập do họat động
17
như tiền thu phí, thu nhập từ Tổng Công ty phụ trách.
b- Chi tiêu
Những số tiền này đã được dùng để trang trải chi phí thi công, khai thác,
nghiên cứu và phát triển về dự án xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT cũng như để rút
về các trái phiếu đã được phát hành từ trước đến nay và để trả những khỏan vay
chưa trả.
c- Hoàn trả
Tất cả mọi số tiền đã mượn để xây dựng đường, bao gồm chi phí thi công,
duy tu bảo d ưỡng và tiền lãi, sẽ được hòan trả bằng tiền thu phí trong vòng 20
năm tính từ ngày công trình hoàn thành.
1.4.4. Những ưu và nhược điểm của các công ty nhà nước ngành giao thông
trên thế giới
1.4.4.1. Cơ sở pháp luật về việc thế chấp quyền thu phí công trình đường bộ
− “Luật bảo lãnh của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” qui định rõ ràng
phạm vi quyền lợi của việc thế chấp, tức là có giới hạn cho việc này, nhưng lại
vẫn qui định điều khoản có tính linh hoạt.
− “Phê chuẩn vấn đề bảo lãnh vay vốn công trình đường bộ thu phí của Quốc
vụ viện” năm 1999 qui định, pháp nhân công trình xây dựng đường bộ có thể đề
nghị Ngân hàng trong nước cho vay thế chấp bằng quyền thu phí công trình
đường bộ.
− Các chú thích của Toà án Nhân dân tối cao về việc áp dụng “Luật bảo lãnh
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” năm 2000 qui định, việc thế chấp quyền
thu lợi bất động sản như cầu đường bộ, hầm đường bộ hoặc phà đường bộ v.v.
có thể đưa vào các quyền thế chấp khác qui định trong Luật bảo lãnh.
1.4.4.2. Các vấn đề còn tồn tại về mặt pháp luật trong việc thế chấp quyền
thu phí công trình đường bộ
- Nguyên tắc quyền thu phí nhất thiết phải có và giá trị được xác định – vật thế
chấp đã có và giá trị được xác định.
18
- Trong giai đoạn xây dựng công trình hoặc giai đoạn huy động vốn bằng quyền
thu phí không được thế chấp.
- Theo qui định của Luật bảo lãnh, trước và sau khi thiết lập bảo lãnh, giá trị vật
bảo lãnh nếu bị giảm không bởi nguyên nhân của người bảo lãnh, quyền bảo
lãnh nợ chỉ có thể ưu tiên đối với vật bảo lãnh này, cho nên, quan trọng nhất là
giá trị khi thực hiện quyền thế chấp.
- Một khi kinh doanh đặc quyền bị huỷ hoặc Chính phủ vi phạm qui ước trong
kinh doanh đặc quyền, quyền thu phí sẽ không còn cơ sở hoặc bị tổn hại nghiêm
trọng, thì không thể thu hồi được khoản vay dự án đường bộ hoàn trả bằng hình
thức thu phí. Để tránh rủi ro tín dụng Chính phủ kiểu này, Ngân hàng phải tham
gia vào quá trình đàm phán tho ả thuận kinh doanh đặc quyền. Trong thoả thuận
chỉ qui định Chính phủ mua lại hoặc bồi thường là chưa đủ, mà còn phải qui
định phạm vi và tiêu chuẩn mua lại hoặc bồi thường trong từng trường hợp cụ
thể, đồng thời yêu cầu cung cấp bảo lãnh nghĩa vụ mua lại. Ngoài ra, Hợp đồng
hoặc điều khoản bảo lãnh phải ghi rõ giá trị của quyền bảo lãnh, như vậy khi bảo
lãnh thành công phải tiến hành ước tính mức tổn thất trong các tình huống khác
nhau. Đồng thời, hợp đồng thế chấp cũng qui định giá trị thu được do mua lại sẽ
ưu tiên dùng để hoàn trả khoản vay.
1.4.4.3. Vấn đề thực hiện quyền thế chấp trong vay vốn dự án đường bộ
- Về chế độ thực hiện quyền thế chấp. Luật bảo lãnh qui định, phương thức thực
hiện thế chấp quyền thu lợi là khấu hao giá, bán đấu giá hoặc phát mại quyền thế
chấp và số tiền thu được sẽ ưu tiên đền bù trước.
- So với việc thanh toán tiền mua nhà theo kỳ, bản thân giá trị trang thiết bị
đường bộ tập trung vào quá trình kinh doanh thu phí chứ không phải bản thân tài
sản cố định đường bộ, cho nên, giá trị chuyển đổi của quyền thu phí đối với sự
đảm bảo quyền đòi nợ là không lớn. Thế chấp quyền thu phí công trình đường bộ
chủ yếu là một biện pháp phòng ngừa, tránh trường hợp bên Nợ làm cách bảo
lãnh khác trong tương lai, ảnh hưởng đến quyền đòi nợ ban đầu.
19
Căn cứ đặc điểm giá trị công trình đường bộ thu phí, xuất phát từ mục đíc._.h
chắc chắn, Ngân hàng nên chú trọng giám sát quá trình kinh doanh công trình
đường bộ thu phí.
20
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Mô hình công ty quản lý dự án trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng giao thông
đã ra đời và phát triển ở các nước trên thế giới. Qua thực tiễn kinh nghiệm của
một số nước, biện pháp khắc phục khả thi và quản lý đầu tư phát triển hạ tầng
GTVT chất lượng cao là tận dụng các ưu điểm của cơ chế thị trường để phát
triển hạ tầng GTVT. Các nhà đầu tư chịu trách nhiệm thi công và duy tu bảo
dưỡng các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng GTVT, với thu nhập từ những lợi
ích của dự án như tiền thu phí, khai thác hành lang dọc tuyến, không gian dự
án…các nhà đầu tư hoàn trả tất cả khoản vay để xây dựng công trình, bao gồm
chi phí thi công, duy tu bảo dưỡng và tiền lãi.
Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng GTVT trong thời gian tới
sẽ ngày càng lớn, trong khi khả năng đáp ứng cho lĩnh vực này của chúng ta
đang phải đối mặt với những yếu tố khách quan sau đây: Ngân sách Nhà nước
không thể đáp ứng, nguồn tài trợ theo hình thức ODA sẽ hạn chế và chuyển dần
sang hình thức OCR, vốn đầu tư cho hạ tầng GTVT có chiều hướng phát triển đa
lĩnh vực (nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng; năng lực nhà đầu tư trong
nước có xu hướng phát triển mạnh về chất; thị trường chứng khoán phát triển,
bước đầu đã huy động vốn nhàn rỗi của dân để phát triển kinh tế), trong khi
chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận, huy động và phát triển các nguồn vốn này cho
hạ tầng GTVT.
Vì vậy, việc chuyển đổi các PMU thành công ty hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp là bước đi thích hợp trong lộ trình tách bạch rõ ràng giữa chức
năng quản lý Nhà nước và hoạt động kinh doanh, minh bạch hóa và lành mạnh
hóa mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống, khắc phục những quan liêu,
bao cấp trong quá trình hình thành thị trường vốn, xã hội hóa nguồn vốn đầu tư
để thúc đẩy phát triển hạ tầng GTVT. Thông qua thực trạng về nhu cầu vốn,
quản lý vốn của các ban QLDA ở Việt Nam trong Chương II chúng ta sẽ làm rõ
những vấn đề cần giải quyết và nhìn nhận cụ thể hơn về mô hình chuyển đổi này.
21
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NHU CẦU VỐN, QUẢN LÝ
VỐN CỦA CÁC BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN THUỘC BỘ GIAO THÔNG
VẬN TẢI HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình hiện tại của các PMU thuộc Bộ GTVT
Qua hơn 10 năm hoạt động thực tiễn, các PMU đã có những đóng góp to
lớn vào sự nghiệp phát triển mạng lưới hạ tầng GTVT cả nước. Hệ thống đường
bộ, đường sắt được khôi phục và nâng cấp từng bước; một loạt công trình tầm cỡ
về quy mô, quan trọng về chức năng đã được đưa vào sử dụng như cầu Mỹ
Thuận, nâng cấp QL1, QL18, QL51, QL14, cầu Thanh Trì, Bãi Cháy, hầm
đường bộ Hải Vân v.v. đã tạo nên bộ mặt giao thông mới, phục vụ yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kết quả lao động sáng tạo, thành tích mà các PMU trực thuộc Bộ GTVT
đạt được trong hơn 10 năm qua là không thể phủ nhận. Các tổ chức này đã có sự
trưởng thành về nhiều mặt, đã tập hợp được đội ngũ đông đảo các kỹ sư, cán bộ
quản lý được đào tạo cơ bản trong và ngoài nước; đã tích lũy được kinh nghiệm
QLDA với các loại hình và quy mô khác nhau... đây là tài sản quý mà các cơ
quan quản lý và xã hội phải thừa nhận để khai thác, phát huy có hiệu quả trong
sự nghiệp phát triển ngành GTVT.
Tuy nhiên, ở góc độ chủ quan, các tổ chức này cũng đang có những tồn tại
nhất định. Số lượng tổ chức PMU nhiều, địa bàn hoạt động chồng chéo; năng lực
điều hành, QLDA không đồng đều; đội ngũ cán bộ công nhân viên đông nhưng
tính chuyên nghiệp không cao, còn hạn chế về kiến thức pháp luật; đặc biệt, cấu
tạo tổ chức PMU chưa năng động trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập.
Những tồn tại cơ bản trong điều hành dự án
Trong chu trình tổ chức quản lý điều hành dự án đầu tư hạ tầng GTVT, qua
thực tế vận hành, nhận thấy còn một số tồn tại sau:
22
a) Trách nhiệm quản lý điều hành của PMU không rõ ràng
Trong thực hiện dự án, PMU có vai trò không rõ ràng giữa nhiệm vụ ủy
thác Chủ đầu tư và Tư vấn quản lý dự án. Từ trước đến nay, các PMU trực thuộc
Bộ GTVT nếu được quyết định giao làm Chủ đầu tư thì thực chất chỉ là Chủ đầu
tư “danh nghĩa”. Bởi vì, hầu hết các quyết định trong quá trình đầu tư đều do Bộ
GTVT ra quyết định, PMU chỉ đóng vai trò như tư vấn QLDA. Trong khi đó,
việc ký thanh, quyết toán cho Nhà thầu lại do Tổng giám đốc PMU thực hiện
như vai trò của Chủ đầu tư ủy thác.
Phương thức quản lý tập trung này đã tạo lập tình trạng “thắt cổ chai” khi
giải quyết thủ tục trong quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, tồn tại trong thời gian
dài, tình trạng không tin tưởng cấp cơ sở và vấn đề không biết quy trách nhiệm
cho ai, xử lý ai khi có “sự cố” trong chu trình đầu tư.
b) Không có cơ sở pháp lý để PMU chủ động phát huy tính năng động, linh
hoạt
Do hoạt động theo cơ chế hành chính sự nghiệp nên vai trò của PMU bị hạn
chế, các PMU hầu như trông chờ vào cơ chế “xin - cho” để có công ăn việc làm,
không có điều kiện để tự chủ xâm nhập vào thị trường vốn trong và ngoài nước
để khai thác, vận động và có thể tiến đến hợp tác đầu tư với các nhà đầu tư tiềm
năng. Mô hình PMU này chỉ phù hợp với việc sử dụng nguồn vốn huy động từ
Ngân sách và các nguồn vốn vay ưu đãi từ các Tổ chức tài trợ Quốc tế. Việc huy
động vốn vay thương mại (OCR) từ các Tổ chức tài trợ cũng sẽ gặp khó khăn
với mô hình tổ chức PMU như hiện nay.
c) Cơ chế quản lý chi phí “Quản lý dự án” không minh bạch
Là Ban QLDA, PMU hoạt động theo cơ chế hành chính sự nghiệp. Mọi thu
- chi hàng năm của PMU đều được Bộ GTVT xem xét, phê duyệt. Trong khi đó,
chi phí cho công tác QLDA lại được Nhà nước quy định bằng tỷ lệ (%) như đối
với những doanh nghiệp hành nghề Tư vấn.
Cách làm này, không thực sự tạo động lực để động viên tính tự chủ, nâng
23
cao trách nhiệm, sáng tạo của các thành viên PMU. Tiến độ dự án dù bị kéo dài,
phẩm cấp chất lượng của dự án có vấn đề... đều không ảnh hưởng đến việc sử
dụng chi phí “quản lý” đã được Cơ quan quản lý cấp trên phê duyệt hàng năm.
2.2. Các yêu cầu và điều chỉnh để chuyển đổi mô hình của PMU trong thị
trường vốn
2.2.1. Các yêu cầu thực tiễn
2.2.1.1. Các khía cạnh pháp lý
Hệ thống luật pháp mới ban hành như Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật đấu thầu, Quy chế quản lý vốn ODA v.v. đang trong giai
đoạn thực hiện chuyển tiếp, để được thực hiện cần phải có thời gian và những sử
đổi bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế. Hệ thống các quy định pháp luật
trong đầu tư và xây dựng hiện nay còn chưa được đồng bộ, hoàn chỉnh; có những
quy định khác nhau giữa luật này và luật kia trong thường gặp phải trong quá
trình triển khai thực hiện; còn xảy ra việc các quy định dưới luật như nghị định,
thông tư v.v. có những mâu thuẫn với luật; các quy định về hoạt động của Ban
QLDA có sự khác nhau trong các thông tư của các Bộ, vai trò hoạt động của các
Ban QLDA chưa được xác lập rõ ràng, cụ thể. Đây là vấn đề mà ngoài sự hỗ trợ
của Bộ chủ quản, các Ban QLDA phải sáng tạo, đổi mới để vượt qua. Biện pháp
tốt nhất là tự mình chuyển đổi để thoát ra khỏi tình trạng “nhùng nhằng” đó.
Quy định về việc các Ban QLDA phải thuộc đơn vị quản lý khai thác dự án
sau khi hoàn công đã tạo ra tiền đề pháp lý của mô hình các “Công ty đầu tư khai
thác công trình giao thông” hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, theo đó công ty được ủy thác là Chủ đầu tư ủy thác phần vốn Nhà
nước “đầu tư cơ bản” cho dự án, sau đó tiếp quản công trình và quản lý khai thác
để thu hồi vốn, đồng thời có khả năng “nhảy vào” thị trường vốn để phát động
các bước đầu tư tiếp theo về cơ sở hạ tầng GTVT theo quy hoạch phát triển
chung của ngành.
24
2.2.1.2. Yêu cầu hội nhập
- Với việc gia nhập WTO, GDP tăng nhanh chóng, các nguồn vốn đầu tư ngày
càng đa dạng, tính xã hội hóa ngày càng cao.
− Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang tích cực tìm kiếm dự án cơ sở hạ tầng
GTVT của Việt Nam để giành thị trường và cơ hội đầu tư. Họ khát khao gặp
được những đối tác rành về chính sách, thông thạo trong quản lý, am hiểu môi
trường và dự án để xúc tiến cơ hội đầu tư.
− Các nhà đầu tư trong nước cũng đang hăng hái đầu tư vào cơ sở hạ tầng
GTVT, họ cũng cần những sự hỗ trợ, sự phối kết hợp về kiến thức, kinh nghiệm
và khả năng tổ chức để quản lý thực hiện đầu tư.
Đây là cơ hội mà các tổ chức PMU cần chủ động nắm lấy để tạo ra những
phát triển đột biến trong nội bộ.
2.2.1.3. Tận dụng những nguồn lực hiện có, phát huy kinh nghiệm và thành quả
đã đạt được, tiết kiệm nguồn lực xã hội để phát triển
Như trên đã nêu, các nguồn lực mà các PMU hi ện có - đặc biệt là nguồn
nhân lực có trình độ cao là tài sản quý. Nếu các Ban QLDA được thành lập một
lần rồi “ra đi” khi dự án hoàn thành thì các nguồn lực này sẽ bị phân tán, mai
một dần. Việc đổi mới là để phát huy kinh nghiệm và nguồn lực sẵn có, tiết kiệm
chi phí xã hội trong đầu tư, phát triển nguồn lực con người, nâng cao hiệu quả
đầu tư phát triển hạ tầng GTVT.
2.2.2. Các điều chỉnh để chuyển đổi mô hình PMU trong thị trường vốn
2.1.2.1 Điều chỉnh quy định
Theo quy định hiện hành, dự án có mức v ốn trên một (01) tỷ đồng phải
thành lập Ban QLDA, nếu thực hiện như vậy thì quả là lãng phí tài nguyên xã
hội. Đồng thời, rất có thể, một sự “hỗn loạn” mới về tổ chức về cơ chế điều hành
lại xảy như một cái vòng luẩn quẩn của cơ chế trách nhiệm “chung chung” vốn
“cố đế thâm canh” gắn với thói quen quan liêu bao cấp.
25
Hiện tại, ở một số nơi, vì ý tứ “tạo công ăn việc làm” mà tính chuyên
nghiệp của công tác quản lý dự án bị xem nhẹ, bỏ qua. Đây đó, ở nơi này nơi kia,
các “vườn trẻ” được tạo dựng để “bao cấp, nuôi nấng và bảo trì”, vô hình trung,
tạo điều kiện cho cách hành xử theo kiểu “hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại” là
một trong những nguyên nhân gây nên những điều tiếng này hay khác.
Cùng với sự phát triển xã hội, văn minh quản lý sẽ được tạo dựng và đề
cao, những “quan hệ” kiểu trên sẽ được hạn chế hoặc loại bỏ, tính chuyên
nghiệp trong công tác QLDA phải trở thành yêu cầu tất yếu để đảm bảo hiệu
quả xã hội của đầu tư phát triển.
2.1.2.2 Điều chỉnh cơ chế hoạt động
Nhằm mục tiêu đầu tư phát triển hạ tầng GTVT chất lượng cao, cụ thể là
mạng lưới đường ôtô cao tốc, yêu cầu cấp bách hiện nay là cần có những tổ chức
đủ năng lực, nguồn lực và kinh nghiệm trong công tác quản lý dự án để thực
hiện các yêu cầu: (i) tận dụng tối đa công cụ tài chính trong thị trường vốn trong
và ngoài nước; (ii) áp dụng sáng tạo các loại hình huy động, đầu tư vốn.
Để triển khai, chủ trương tăng cường năng lực tài chính, điều chỉnh cơ chế
tổ chức của một số PMU; tạo đủ khả năng pháp lý về sử dụng hiệu quả lao động
và nguồn lực xã hội trong lĩnh vực QLDA của PMU để thực hiện tốt vai trò Chủ
đầu tư Ủy thác, huy động vốn cho hạ tầng giao thông là một trong những giải
pháp hiệu quả.
2.3. Thực trạng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng GTVT
2.3.1. Nguồn vốn để đầu tư Hạ tầng GTVT
Theo chiến lược phát triển Giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, hệ
thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam gồm 219.192 km đường bộ, 3.143
km đường sắt, 17.139 km đường sông đang khai thác, hơn 90 cảng biển lớn nhỏ
và 52 sân bay, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông
đến năm 2020 dự kiến là 2.119.364,0 tỷ đồng tương đương 132,46 tỷ USD. Bình
quân mỗi năm cần đầu tư 117.744,0 tỷ đồng.
26
Bảng 2.1 : Nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông
Đơn vị: tỷ đồng
stt HẠNG MỤC 2002-2010 2011-2020 2002-2020 BQ/năm 2002-2020
1 Đường bộ :
Đường cao tốc
Quốc lộ
Đường tỉnh
245.990
56.570
139.420
50.000
328.530
158.530
125.000
45.000
574.520
215.100
264.420
95.000
31.918
11.950
14.690
5.278
2 Đường sắt :
Đường cao tốc
Đường thường
218.661
204.000
14.661
393.576
361.500
32.076
612.237
565.500
46.737
34.013
31.417
2.596
3 Đường biển 20.378 65.000 85.378 4.744
4 Đường sông 4.673 4.507 9.180 510
5 Hàng không
dân dụng
17.880 36.330 54.210 3.012
6 Giao thông đô thị
(HN và TP HCM):
Đường
bộ
Đường sắt
Hỗ trợ VTCC
195.886
129.385
56.510
10.000
423.595
221.448
193.147
9.000
619.481
350.833
249.648
19.000
34.416
19.491
13.869
1.056
7 Giao thông
nông thôn
86.500 77.850 164.350 9.131
Tổng cộng 789.977 1.329.388 2.119.364 117.744
Nguồn: Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống giao thông - Trang web Bộ GTVT.
Ở góc độ tổng thể, để nâng cao tính cạnh tranh của ngành vận tải - nội dung
đặc biệt quan trọng của nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia - phải đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ. Tuy nhiên, việc đầu tư phát triển hạ tầng
GTVT đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn trong khi thời gian thu hồi vốn dài,
thông thường từ 15 năm đến 50 năm. Nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTVT
từ trước đến nay chủ yếu gồm:
− Vốn Nhà nước (ngân sách, trái phiếu Chính phủ, vốn ứng của Chính phủ,
ngân sách địa phương…) là nguồn vốn cơ bản trong đầu tư Hạ tầng GTVT.
Trước năm 2002, nguồn vốn này chủ yếu được sử dụng làm nguồn “đối ứng”
cho các dự án ODA và xây dựng một số công trình quan trọng về dân sinh, quốc
27
phòng. Từ cuối 2002 đến nay, Chính phủ huy động thêm nguồn Trái phiếu Chính
phủ để đầu tư xây dựng một số công trình Giao thông - Thủy lợi trọng yếu.
− Vốn viện trợ không hoàn lại chủ yếu để thực hiện các trợ giúp kỹ thuật
(chuẩn bị, thiết kế dự án...) hoặc thực hiện công trình có mục tiêu đặc biệt như
cầu Mỹ Thuận được xây dựng với 66% vốn viện trợ của AusAID.
− Vốn ODA để thực hiện dự án chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu đầu tư từ
năm 1992 đến nay. Nguồn vốn này chủ yếu đến từ các chức tài trợ Quốc tế như
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Cơ quan Hợp tác Phát triển Pháp (ADF),
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW)
và Ngân hàng Thế giới (WB) thông qua các Hiệp định vay song phương hoặc đa
phương giữa Chính phủ Việt Nam với các tổ chức này.
− Vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước chủ yếu đầu tư vào hệ
thống đường sá trong các khu Công nghiệp, khu Chế xuất và thường đi kèm với
các Hợp đồng phát triển hạ tầng đồng bộ của các khu vực này. Ở góc độ khác,
trong những năm gần đây, một số dự án về giao thông vận tải đã được triển khai
tương đối hiệu quả như cầu Cỏ May, QL1A đoạn An Sương - An Lạc, QL1K
v.v.
− Vốn xã hội hoá từ các tầng lớp nhân dân được huy động không đáng kể, chủ
yếu trên tinh thần tự nguyện để làm giao thông nông thôn và đóng góp vào công
tác giải phóng mặt bằng.
2.3.1.1. Thực tế đầu tư :
Bằng nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như vay vốn ưu đãi ODA, nhiều
công trình giao thông đường bộ đã được khôi phục, nâng cấp, đến năm 2000, xây
dựng mới 7.037 km đường, 1.624 cầu, nâng cấp 10.000 km đường, duy tu
160.000 km đường/ năm; tới năm 2005 nâng cấp 40.000 km, duy tu 170.000
km/năm.
Nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, mỗi năm cần bình
quân 118 nghìn tỷ đồng, tương đượng 7,4 tỷ US D, trong khi đó khả năng đáp
ứng của các nguồn vốn hiện có từ ngân sách, từ ODA, trái phiếu Chính phủ chỉ
28
tổng cộng khoảng 2-3 tỷ USD đạt tương đương 42% nhu cầu, cơ cấu vốn đầu tư
thống kê trong các năm qua:
- Chính phủ (ngân sách, trái phiếu …): 25% số vốn cần thiết.
- Nguồn ODA : 17% số vốn cần thiết
Vốn tư nhân hiện đang tham gia rất khiêm tốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng giao
thông ở Việt Nam, lý do của sự thiếu vắng này là Chính phủ có thái độ không
nhất quán về đầu tư tư nhân và kỳ vọng không thực tế vào hiệu quả khu vực kinh
tế này mang lại, vai trò tương quan còn chênh nhau giữa luật pháp Việt Nam và
quốc tế khi giải quyết tranh chấp.
Do đó việc chuyển đổi mô hình các PMU thành loại hình doanh nghiệp để
huy động nguồn vốn đầu tư thông qua hình thức đầu tư trực tiếp (trong và ngoài
nước) là rất quan trọng. Đây là một trong những giải pháp chủ yếu giải bài toán
thiếu vốn đầu tư ( 58% ) cho kết cấu hạ tầng giao thông hiện nay.
2.3.1.2. Nhận xét, đánh giá về nhu cầu và sử dụng vốn.
- Tỷ trọng vốn: Mức đầu tư cho CSHT-GT bằng ngân sách Nhà nước đạt
mới chỉ đạt tương đương 2,5%GDP cho CSHT-GT. Theo kinh nghiệm của các
nước đang phát triển, đầu tư cho CSHT-GT tối thiểu phải đạt 3-3,5% GDP.
- Nhu cầu vốn đầu tư rất lớn bố trí kế hoạch vốn đạt 42% theo nhu cầu ;
thực tế giải ngân không đạt kế hoạch vốn (cụ thể như đăng ký kế hoạch giải ngân
của Bộ GTVT năm 2007 cho lĩnh vực xây dựng cầu đường là 11.000 tỷ đồng,
thực tế đến tháng 11/2007 mới thực hiện được tương đương 3.500 tỷ đồng. Điều
này chứng tỏ chúng ta vừa thiếu vốn, bị động trong việc triển khai thực hiện quy
hoạch, thủ tục giải ngân quá rườm rà phức tạp , cơ chế chính sách có nhiều cất
cập, bộ máy quản lý thiếu, yếu…
- Những năm gần đây ngành giao thông có nhiều sự kiện (vụ PMU 18, vụ
đổ tàu E5, sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ.v.v.), nhìn nhận đánh giá của xã hội đối với
đội ngũ làm công tác giao thông chưa đúng mức vì vậy có tâm lý co cụm, cầu
toàn trong ngành nên việc đầu tư xây dựng giảm một cách đột biến.
Việt Nam đã ra khỏi danh sách các nước nghèo chậm phát triển, vì vậy đối
với nguồn vốn nước ngoài: Viện trợ chính thức ODA sẽ giảm dần, tiến tới chủ
29
yếu là vốn vay thương mại (OCR), vốn tín dụng xuất khẩu của các nước, vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI); Đối với nguồn vốn ngân sách tuy có tăng
nhưng không đủ đáp ứng. Vì vậy cần thiết phải chuyển đổi một mô hình kinh
doanh mới để thu hút vốn đầu tư (trong và ngoài nước) là một giải pháp quan
trọng để phát triển giao thông Việt Nam.
2.3.2. Tổ chức huy động, quản lý vốn đầu tư hạ tầng GTVT
2.3.2.1. Cơ chế vận động, huy động và quản lý vốn
Với việc định dạng các nguồn vốn như trên, có thể thấy, việc tổ chức huy
động vốn cho Hạ tầng GTVT chủ yếu vẫn do các Bộ ngành Trung ương (vốn từ
ngân sách trung ương và vốn ODA) và chính quyền Địa phương (vốn ngân s ách
địa phương và quyên góp cho giao thông nông thôn) tổ chức thực hiện, nói ngắn
gọn là vẫn do Nhà nước “bao cấp” toàn diện, triệt để.
Về lý thuyết, các dự án sử dụng vốn ngân sách được quyết định căn cứ vào
các đánh về hiệu quả kinh tế xã hội, nhu cầu an ninh quốc phòng, sự phát triển
cân đối vùng ngành v.v. Do vậy, tính chất thị trường của việc thông qua quyết
định không được nâng cao, đôi lúc còn tùy thuộc vào các quan điểm và đánh giá
chủ quan.
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA, từng nhà tài trợ có các yêu cầu và
điều kiện riêng liên quan đến chính sách giải phóng mặt bằng (các quy định luật
pháp, thủ tục đền bù, hỗ trợ...), phương thức đấu thầu, thủ tục quản lý hợp đồng,
giải ngân v.v. Những vướng mắc thường gặp là các quy định của Việt Nam chưa
bắt kịp với thực tiễn quản lý quốc tế, do vậy, các quy định về phương thức triển
khai, thủ tục giải ngân... giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đôi khi có sự khác biệt
làm cho cơ chế thông qua quyết định, trình tự thủ tục giải quyết công việc phải
qua nhiều tầng lớp dẫn đến việc kéo dài thời gian thực hiện dự án, hiệu quả dự
án được phát huy chậm.
Nhìn chung, quá trình chuẩn bị, huy động vốn và tổ chức thực hiện dự án
căn bản phải thông qua các quyết định hành chính. Trên cơ sở đề nghị của các cơ
quan chức năng quản lý chuyên ngành, việc bố trí kế hoạch vốn hàng năm được
30
hoạch định, phân khai. Như vậy, bóng dáng của hình thức quản lý theo kiểu “kế
hoạch hóa tập trung” thông qua cơ chế “xin - cho” vẫn còn hiện diện đây đó làm
giảm hiệu quả huy động vốn xã hội để đầu tư phát triển Hạ tầng GTVT.
2.3.2.2. Quản lý đầu tư và quản lý khai thác
Tổ chức quản lý dự án
Căn cứ các quy định được cam kết trong Hiệp định tài trợ ký kết giữa
Chính phủ Việt Nam với các Tổ chức Tài trợ Quốc tế, các Ban QLDA - Project
Managerment Unit, PMU - trực thuộc Bộ GTVT được thành lập và hoạt động,
chủ yếu nhằm mục đích tiếp nhận, quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển và vốn
ngân sách.
Trong chu trình Quản lý dự án, các PMU này trực tiếp chịu sự chỉ đạo toàn
diện của Bộ GTVT trên các mặt kế hoạch, kỹ thuật, tài chính và giải ngân.
Nhiệm vụ chủ yếu của PMU là tổng hợp tình hình thực hiện dự án, trình Bộ
GTVT xem xét, quyết định.
Qua hơn 10 năm thực hiện, các PMU được đánh giá là hoạt động có hiệu
quả; Việt Nam đã sử dụng tốt nguồn vốn ODA. Các dự án được đánh giá là
thành công, đạt được mục tiêu dự kiến. Số tiền không giải ngân được của các
khoản vay là rất ít.
Sau khi tổ chức nghiệm thu đưa vào khai thác sử dụng, các Dự án đã hoàn
thành được Bộ GTVT xem xét, quyết định giao cho Cục quản lý chuyên ngành
hoặc Địa phương tiếp nhận quản lý, khai thác.
Những tồn tại
Với mô hình tổ chức huy động và quản lý dự án như trên, theo nhận xét chủ
quan, có một số tồn tại cơ bản sau:
− Tồn tại lớn nhất là dân chúng - người sử dụng các công trình Hạ tầng giao
thông, đặc biệt là hệ thống đường bộ - bị đứng ngoài cuộc đối với quá trình vận
động đầu tư, xây dựng và khai thác dự án. Cụ thể là:
31
+ Từ trước đến nay, các công trình Hạ tầng GTVT hầu như được Nhà nước
thực hiện bằng vốn ngân sách, vốn vay ưu đãi .... Vì vậy, người dân chỉ biết
trông chờ chứ không chủ động tham gia vào quá trình đầu tư để phục vụ lợi ích
của mình.
+ Ý thức sử dụng, gìn giữ và phát triển các công trình Hạ tầng GTVT của
dân bị hạn chế do người dân không phải trực tiếp bỏ vốn xây dựng công trình
nên không quan tâm đến hiệu quả do đầu tư mang lại. Đồng thời, người sử dụng
không cảm thấy phải có trách nhiệm bảo vệ và phát triển quyền lợi của mình qua
các công trình vì, theo lẽ tự nhiên họ chỉ biết sử dụng một cách tự nhiên chủ
nghĩa cho nhu cầu riêng của từng cá thể, chứ không quan tâm tới việc làm thế
nào để sử dụng có hiệu quả nhất cho cộng đồng.
+ Nhà nước chưa có cơ chế thông thoáng để huy động được đông đảo dân
chúng trong xã hội quan tâm góp vốn đầu tư.
− Các Ban QLDA không chịu trách nhiệm về việc v ận động, huy động nguồn
vốn. Đặc biệt, không có trách nhiệm thu hồi nguồn vốn nên thường có tình trạng
nhiều dự án phải điều chỉnh quy mô, tổng mức đầu tư trong quá trình thực hiện.
− Cơ quan quản lý, khai thác hầu như không tham gia trong quá trình vận động
nguồn vốn, triển khai thực hiện, xây dựng dự án. Các tổ chức này tiếp công trình
hoàn thành chủ yếu để quản lý, việc “khai thác” chỉ là hình thức và cũng chỉ giới
hạn ở việc thu phí thông qua “lái xe”. Các nguồn lợi khác phát sinh do đầu tư Hạ
tầng GTVT đều bị các tổ chức hoặc cá nhân khác triệt để khai thác như các dịch
vụ dọc tuyến, quảng cáo, phát triển đô thị v.v.
2.4. Phân tích thực trạng quản lý dự án của Ban quản lý dự án thông qua
một số dự án điển hình:
Vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông lâu nay đều do Nhà nước thực thi. Mặc
dù có nhiều cách tạo vốn như phát hành trái phiếu, vay nước ngoài, ngân sách...
mỗi năm đều tăng khoảng 15% song chưa đủ so với nhu cầu thực tế phát triển
của đất nước. Nhiều đô thị trong tình trạng luôn ùn tắc giao thông. Chi phí bảo
dưỡng nâng cấp hệ thống hệ thống giao thông của Nhà nước cấp chỉ đáp ứng 40-
32
50% so với nhu cầu thực tế. Nhiều công trình giao thông quan trọng bị đình trệ
do thiếu vốn.
Theo Bộ GTVT, năm 2007 vốn ngân sách đầu tư cho hạ tầng giao thông
khoảng 1,2 tỉ USD. Những năm trước đó con số này cũng không nhỏ. Tuy nhiên
một điều dễ nhận thấy là hạ tầng vẫn không đáp ứng được tốc độ phát triển, nhất
là tại các đô thị, trong khi đó việc xã hội hoá đầu tư hạ tầng giao thông, một
nguồn vốn đầy tiềm năng, lại chưa có cơ chế khơi thông.
Tại TP HCM : theo UBND, Ngân sách thành phố chỉ có thể đáp ứng trên
20% nhu cầu vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm, trong khi để thực hiện
quy hoạch phát triển giao thông vận tải cần hơn 410.000 tỷ đồng từ nay đến năm
2020, thiếu hơn 70% vốn đầu tư cho giao thông.
Để "giảm tải' cho nhu cầu về vốn đang ngày một cao, biện pháp trước mắt
của thành phố là tập trung mọi nguồn lực, thực hiện nhiều phương thức như kêu
gọi vốn đầu tư ODA, BOT; phát hành trái phiếu đô thị; đổi đất lấy hạ tầng; vận
động dân hiến đất làm đường... được quan tâm vì ưu điểm có thể giảm được
gánh nặng về vốn cho ngân sách thành phố.
Hiện nay tình trạng ách tắc giao thông đang là vấn đề nan giải tại Hà Nội do
hệ thống hạ tầng không phát triển theo kịp sự phát triển kinh tế. Theo đó, Thành
phố sẽ xây dựng hệ thống vận tải bằng xe buýt lớn và hệ thống đường sắt đô thị
(Thành phố đang khởi động Dự án Tàu điện trên cao Nhổn - ga Hà Nội). Cả 2 hệ
thống này kết hợp với hệ thống xe buýt hiện nay sẽ tăng tỷ lệ vận chuyển hành
khách bằng phương tiện công cộng lên 40 - 45%. Tuy nhiên, để hoàn chỉnh bức
tranh giao thông đô thị, Hà Nội cần một khoản vốn đầu tư lên đến 12,7 tỷ USD,
số vốn đầu tư mà ngay các nhà hoạch định chính sách cũng chưa thể biết sẽ huy
động từ đâu. Trong khi Thành phố vẫn còn rất nhiều dự án, công trình khác cần
đầu tư. Do vậy, câu hỏi về vốn đầu tư theo quy hoạch giao thông Hà Nội đến
năm 2020 không dễ có được lời đáp. Cơ quan chức năng phải xác định được cơ
chế huy động vốn; cơ cấu vốn đầu tư, hình thức đầu tư….
Vào thời điểm này, các dự án cao tốc ở Việt Nam phần lớn là không thể thu
được lợi nhuận nếu như nhà đầu tư không nhận được những sự hỗ trợ khác nữa
33
từ Chính phủ ngoài việc thu phí hoàn vốn. Thông qua phân tích một số dự án
điển hình để hiểu rõ hơn bức tranh thực tế về đầu tư hạ tầng giao thông hiện nay.
Bảng 2.2: Tình hình đầu tư của một số dự án
ĐVT: triệu đồng
Stt Chỉ tiêu/ Dự án đầu tư
Hạng mục
An Sương
An Lạc
Quốc lộ
1K
Sài Gòn-
Trung
Lương
HCM-
Long
Thành
- Dầu Giây
I Tổng mức đầu tư 314.293 397.056 2.155.983 4.664.274
1 Xây lắp 184.909 230.288 1.642.647 3.400.771
2 Thiết bị 5.548 6.640 40.000 63.855
3 Chi phí khác 86.698 124.032 231.447 847.296
4 Dự phòng 37.138 36.096 241.889 352.352
II Cơ cấu nguồn vốn
1 Vốn ngân sách hỗ
trợ 646.795
2 Vốn BOT 314.293 397.056 1.509.188 4.664.274
a Vốn chủ sở hữu
(30%) 94.288 119.117 452.756 1.399.282
b Vốn vay (70%) 220.005 277.939 1.056.432 3.264.992
III Đánh giá tài chính
1 Suất chiết khấu 8,4% 7,74% 8,85% 7,74%
a Chi phí sử dụng
vốn CSH 0% 4,8% 8,14% 4,8%
b Lãi suất vốn
vay/năm 12% 9% 9,15% 9%
2 NPV 109,23 112,14 441,35 444,24
3 IRR 12,7% 9,11% 11,7% 8,6%
4 B/C 1,305 1,3 1,284 1,07
5 Thời gian hoàn vốn 57 tháng
14 năm
6 tháng 15 năm 17 năm
6 Thời gian chuyển giao
6 năm 3
tháng
17 năm
6 tháng 18 năm 20 năm
34
IV Kết quả Dự án đã thi
công xong,
bắt đầu khai
thác hoàn
vốn vào năm
2004
Dự án đã
thi công
xong, bắt
đầu khai
thác hoàn
vốn vào
năm
2007
Kêu gọi BOT
trong nước
thất bại nên
đã chuyển
sang đầu tư
bằng vốn
ngân sách
Kêu gọi
BOT trong
nước thất
bại nên
chuyển
sang đầu tư
bằng vốn
vay thương
mại và vốn
vay ODA.
( Nguồn : Tổng hợp từ số liệu báo cáo đầu tư của các dự án trên)
* Nguyên nhân
(1) Dự án đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây
Qua phân tích số liệu báo cáo tài chính, tất cả các nhà đầu tư đã nêu đều
không đủ năng lực về tài chính để thực hiện khối lượng thi công theo tỷ lệ đóng
góp nếu như được giao nhiệm vụ thi công xây dựng dự án. Đồng thời vốn chủ sở
hữu của các doanh nghiệp đều rất thấp so với quy mô đầu tư của dự án (không
đủ 30% so với quy định). Nếu tính đến các rủi ro về tình trạng công nợ và số dư
quá lớn về sản phẩm dở dang thì tình hình vốn chủ sở hữu của các nhà đầu tư
đều đang ở mức báo động. Vì vậy trong quá trình đàm phán thẩm định năng lực
của Nhà đầu tư không đạt kết quả; dự án thất bại.
Trong khi đó, việc đầu tư xây dựng Dự án đường cao tốc thành phố Hồ Chí
Minh - Long Thành - Dầu Giây thực sự bức thiết và khả thi. Nếu tiếp tục kéo dài
tình trạng như hiện nay chắc chắn sẽ là kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của
cả vùng kinh tế động lực phía Nam - vùng kinh tế có những đóng góp lớn nhất
cho nền kinh tế quốc dân. Cuối cùng Bộ GTVT quyết định chuyển sang hình
thức đầu tư bằng 50% vốn vay thương mại, 50% vốn vay ODA thay vì Nhà nước
tạo điều kiện thích hợp để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài hoặc từ tư
nhân để giảm bớt gánh nặng về nợ cho quốc gia.
Cụ thể về tình hình tài chính của các doanh nghiệp tham gia dự án theo bảng sau:
35
Bảng 2.3 : Tình hình tài chính các đơn vị tham gia dự án HCM – Long Thành – Dầu Giây
Đơn vị tính : ngàn đồng
TT ĐƠN VỊ NĂM VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN LUÂN
CHUYỂN SP DỞ DANG
NỢ NGẮN
HẠN
KHOẢN PHẢI
THU
ĐÃ ĐẦU
TƯ
DÀI HẠN
Khả năng đầu
tư danh nghĩa
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)=(4)-(9)
1 IDICO
2004 128,494,636 35,391,905 159,110,369 379,415,927 179,597,455 265,087,698 -136,593,061
2005 154,786,498 13,611,221 173,717,482 436,805,101 185,394,597 309,371,950 -154,585,452
2006 221,376,057 -98,726,515 166,500,786 630,618,332 262,998,091 457,485,569 -236,109,512
2 THĂNG LONG
2004 164,042,362 -17,197,336 223,797,604 1,077,086,668 691,283,662 29,536,494 134,505,867
2005 174,367,291 -35,504,702 476,385,205 1,556,450,718 882,511,058 27,918,513 146,448,778
2006 424,067,292 107,436,082 454,092,955 1,831,394,660 1,324,682,296 28,213,513 395,853,779
3 CIENCO 6
2004 209,797,666 81,568,396 282,000,143 1,346,279,582 812,913,173 43,346,824 166,450,842
2005 255,282,344 96,968,847 398,539,960 1,727,521,096 1,136,285,146 103,389,718 151,892,626
2006 188,916,648 74,647,516 552,740,070 2,270,602,432 1,371,907,656 87,095,206 101,821,442
4 CIENCO 8
2004 328,209,732 191,527,816 294,105,196 1,110,054,831 705,728,923 62,706,443 265,503,289
2005 373,536,415 206,932,681 479,451,645 1,406,869,814 786,244,568 89,299,857 284,236,558
5 HUY HOÀNG
2004
2005 98,718,877 -89,176,484 756,321 210,075,365 14,100,453 613,256,735 -514,537,858
2006 193,630,471 -197,230,020 605,057 236,734,273 22,561,087 459,427,489 -265,797,018
Cộng 5 đơn vị năm 2005 1,151,603,021 84,778,027 1,528,699,349 5,364,381,0._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0517.pdf