Lời nói đầu
Thủ đô Hà nội là “trái tim của cả nước, đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá - kinh tế xã hội khoa học và giao dịch quốc tế”.
Hà nội đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Hà nội có 5 huyện ngoại thành bao gồm Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn. Toàn thành phố có diện tích đất tự nhiên là 92097ha, trong đó đất nông nghiệp có 43002,6 ha chiếm 46,8%. Tổng diện tích đất nông nghiệp bình quân trên nhân khẩu
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông nghiệp là 533,8m2/người. Ngoại thành là khu vực nông thôn đất ít, người đông và chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình đô thị hoá. Với vị trí, thế mạnh, tiềm năng và những lợi thế vốn có cũng như những hạn chế thách thức phải vượt qua, ngoại thành Hà Nội có thể phát triển với tốc độ tăng trưởng nhanh theo một cơ cấu thống nhất trong chiến lược phát triển thủ đô.
Trong những năm đổi mới nền kinh tế đất nước, sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Nền nông nghiệp nhiều thành phần đã phát triển với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Hàng năm nông nghiệp ngoại thành sản xuất trên 240.000 tấn lương thực quy thóc, trên 100.000 tấn rau các loại, trên 30.000 tấn lợn thịt hơi, 7.000 tấn cá, hàng chục tấn thịt gia cầm và nhiều loai hàng hoá nông sản khác để cung cấp cho nhu cầu của nhân dân thủ đô. Nhờ đó đời sống của hộ nông dân và bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được của nông nghiệp ngoại thành Hà nội, hiện nay vẫn còn tồn tại không ít khó khăn. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, hiện tượng thiếu việc làm trong lao động nông nghiệp ngoại thành vẫn còn cao sản xuất nông nghiệp vẫn còn trong tình trạnh sản xuất nhỏ thuần nông .Tốc độ chu chuyển cư cấu trồng trọt và chăn nuôi trong nông nghiệp vẫn còn chậm, tiêu thụ nông sản còn gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm ở trong nước và khu vực... Do đó trong thời gian tới cần tiếp tục bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiêp hàng hoá hợp lý, phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Từ thực tế trên, qua một thời gian làm quen và tiếp xúc với cơ quan thực tập em đã chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội”. Làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.
Mục đích của đề tài là hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội trong những năm 1996-2000; Từ đó tìm ra nguyên nhân của những tồn tại; trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp tối ưu cho ngành nông nghiệp Hà Nội trong thời gian tới.
Đề tài còn xác định mục tiêu, phương hướng chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành.
Kết cấu của đề tài bao gồm :
Lời nói đầu
Phần I : Cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội
Phần II : Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sán xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội .
Phần III : Phương hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hương công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở ngoại thàng Hà Nội.
Nhờ sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo: TS Nguyễn Văn áng và sự nỗ lực của bản thân đề tài đã được hoàn thành. Tuy nhiên do trình độ và khả năng có hạn, thời gian thực tập ngắn nên chắc chắn đề tài còn nhiều hạn chế. Em mong được sự góp ý thêm của các thầy, cô giáo và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: TS Nguyễn Văn áng và các thầy cô giáo trong khoa KTNN & PTNN trường Đại Học KTQD đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Phần I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội.
I. Khái niệm, nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
1.1. Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố, các bộ phận có mối quan hệ qua lại với nhau hợp thành nền kinh tế với quy mô, trình độ công nghệ, tỷ trọng tương ứng gắn với các điều kiện tự nhiên-kinh tế- xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển.
1.1.2 Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp .
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể nhiều thế hệ và tiểu hệ trong nội bộ ngành trồng trọt và chăn nuôi, có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ phận hợp thành tổng thể sản xuất nông nghiệp. Các mối quan hệ này được xác định cả về mặt số lượng lẫn chất lượng,mang tính tương đối ổn định và ngày càng hoàn thiện.
2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phản ánh sự phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi nước. Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan, tính lịch sử và xã hội nhất định, tính ổn định tương đối và luôn tác động lẫn nhau trong quá trình vận động biến đổi ấy, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong đó có sự tác động của con người.
Sự thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp là gắn liền với việc bố trí sản xuất và chuyên môn hoá sản xuất trong nông nghiệp .
Chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp là một tất yếu, tuy nhiên không thể tiến hành một cách cao độ triệt để như trong ngành công nghiệp mà cần thiết phải kết hợp với phát triển tổng hợp vì:
-Trong một vùng có nhiều loại đất khác nhau mà mỗi loaị đất sẽ tương ứng với mỗi loại cây trồng vì vậy mà cần phai rbiết kết hợp phát triển tổng hợp để tận dụng có hiệu quả các tiềm năng.
- Các loại cây, con trong nông nghiệp có mối quan hệ hữu cơ làm điều kiện hỗ trợ lẫn nhau vì vậy sản xuất nông nghiệp mới đem lại hiệu quả cao.
- Bản thân ngành nông nghiệp có tính thời vụ cao do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.
- Nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu nội bộ rất lớn , vì vậy kinh doanh tổng hợp góp phần giải quyết nhu cầu kinh tế nông nghiệp .
3. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
3.1 Cơ cấu ngành nông nghiệp là mối quan hệ tỉ lệ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp : quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa cây lương thực và các loại cây khác.
Trong cơ cấu ngành, nếu phân công lao động càng sâu sắc và triệt để thì cơ cấu ngành sẽ được chia càng đa dạng và tỉ mỉ. Tiền đề của sự phân công lao động trong nông nghiệp là năng suất lao động mà trước hết và chủ yếu là năng suất lao động trong khu vực sản xuất lương thực phải đạt ở mức
nhất định, đảm bảo số lượng và chất lượng lương thực cần thiết cho xã hội từ đó tất yếu sẽ dẫn đến sự phân ngành chuyển lao động từ trồng trọt sang các lĩnh vực khác như chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, chế biến và dịch vụ. Vậy để phát triển được ngành nông nghiệp chúng ta cần phải bố trí cơ cấu ngành một cách hợp lý dựa trên cơ sở khách quan của sự phát triển nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
3.2 Cơ cấu vùng lãnh thổ:
Là quan hệ tỉ lệ giữa các tiểu vùng trong một vùng kinh tế nông nghiệp đồng thời cơ cấu vùng lãnh thổ còn là sự bố trí sản xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể để nhằm khai thác những lợi thế khác nhau của từng vùng góp phần làm đa dạng hoá sản phẩm cho xã hội, xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ là đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Cơ cấu vùng sẽ tạo ra mối liên hệ hữu cơ giữa các vùng, thúc đẩy phát triển sản xuất đồng thời gắn cơ cấu kinh tế của từng vùng với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng được quy hoạch phát triển chuyên môn hoá- kết hợp hoá phát triển tổng hợp đa dạng. Tuy nhiên so với cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ có hạn chế hơn trong sự trì trệ và sức ỳ lớn hơn cho nên việc xây dựng vùng chuyên môn hoá nông – lâm – thuỷ sản cần được nghiên cứu và xem xét cụ thể thận trọng để khắc phục những hạn chế đó .
3.3 Cơ cấu thành phần kinh tế: là mối quan hệ tỉ lệ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Đại hội VII của Đảng dã khẳng định việc chuyển nền kinh tế chỉ huy, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nước theo định hướng XHCN và coi trọng việc phát triển nền kinh tế đa thành phần. Điều đáng quan tâm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đó là sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế hộ tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh là lực lượng chủ yếu trực tiếp tạo ra các sản phẩm về nông - lâm - thuỷ sản đáp ứng nhu cầu xã hội .
Trong quá trình phát triển ngành nông nghiệp cần hết sức chú ý đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành từ đó thấy được vai trò, xu hướng vận động từng thành phần, tạo điều kiện giúp chúng ta đề ra được định hướng và các giải pháp đổi mới một cách có hiệu quả.
3.4 Cơ cấu kỹ thuật là quan hệ tỷ lệ tất yếu về mặt kỹ thuật để sản xuất có thể phát triển tốt.
Cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp cũng mang tính truyền thống , manh mún, bảo thủ qua các thế hệ của hộ nông dân và các kỹ thuật sản xuất chủ yếu là trên cơ sở kinh nghiệm truyền thống. Vì vậy phương thức sản xuất mới, lạ, hiện đại thường được bà con nông dân tiếp thu một cách rụt rè và kém hiệu quả. Hiện nay phương thức sản xuất kinh doanh của người nông dân về mặt kỹ thuật thay đổi còn rất chậm do vậy việc sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên.
4. Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu ngành kinh tế .
Như ta đã biết, cơ cấu kinh tế có thể được đánh giá về mặt định tính và mặt định lượng. Về mặt định tính tuỳ từng góc độ khác nhau, cơ cấu kinh tế có thể được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau đây .
4.1 Cơ cấu kinh tế tính theo GDP hoặc giá trị sản xuất.
Công thức :
Ti=Sli/ ồ Sli.100%(%)
Trong đó :
Ti: là tỷ trọng GDP hoăc giá trị sản xuất của ngành (hoặc vùng hoặc thành phần kinh tế )thứ i .
Sli: làgiá trị GDP hoặc giá trị sản xuất của ngành (hoặc vùng hoặc thành phần kinh tế) thứ i.
ồSLi: tổng giá trị GDP hoặc giá trị sản xuất của ngành (hoặc vùng hoặc thành phần kinh tế ) thứ i.
ý nghĩa: Các chỉ tiêu nay cho biết giá trị GDP hoặc giá trị sản xuất của mỗi ngành ,mỗi vùng , mỗi thành phần kinh tế chiếm bao nhiêu % trong tổng giá trị GDP hoặc giá trị sản xuất của toàn nền kinh tế .
4.2. Cơ cấu kinh tế theo quy mô vốn đầu tư.
Công thức:
TVi=Vi/ồVi.100%(%)
Trong đó:
TVi: là tỷ trọng vốn đầu tư xã hội vào ngành (hoặc vùng hoặc thành phần kinh tế) thứ i.
Vi: vốn đầu tư xã hội vào ngành (hoặc vùng, hoặc thành phần kinh tế) thứ i
ồVi: tổng vốn đầu tư xã hội vào toàn bộ nền kinh tế
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết vốn đầu tư vào mỗi ngành (hoặc vùng , hoặc thành phần kinh tế ) thứ i chiếm bao nhiêu % trong tổng số vốn đầu tư vào toàn bộ nền kinh tế .
4.3. Cơ cấu kinh tế theo lao động được sử dụng .
Công thức:
Tlđi=LĐi / ồLĐi.100%(%)
Trong đó :
Tlđi : tỷ trọng lao động được sử dụng của ngành (hoặc vùng hoặc thành phần kinh tế ) thứ i trong toàn bộ nền kinh tế .
Ldi: số lao động được sử dụng của ngành (hoặc vùng , hoặc thành phần kinh tế ) thứ i.
ồ LĐi: tổng số lao động được sử dụng trong toàn bộ nền kinh tế.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết số lao động của ngành( hoặc vùng , hoặc thành phần kinh tế thứ i chiếm bao nhiêu % tổng số lao động được sử dụng trong toàn bộ nền kinh tế .
Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế nêu trên chỉ mang tính thời điểm còn xét theo thời gian, cơ cấu kinh tế luôn có sự biến đổi bởi nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Tự nhiên- kinh tế- xã hội. Cho nên phải một cơ cấu có thể hợp lý trong giai đoạn phát triển này là không hợp lý trong giai đoạn phát triển khác. Yêu cầu đặt ra là phải luôn điều chỉnh cơ cấu đó cho phù hợp với điều kiện phát triển trong từng thời gian cụ thể và từ đó quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hình thành.
5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa cơ cấu kinh tế .
Để đánh giá hiệu qủa cơ cấu kinh tế người ta thường sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu trong đó bao gồm.
*Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo GDP: đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế. Một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý trước hết phải đảm bảo sự phát triển bền vững của các ngành, các vùng các thành phần kinh tế và chung cho toàn bộ nền kinh tế cần lưu ý một điều là cơ cấu hợp lý là phải thể hiện bằng sự phát triển liên tục, bền vững tức là sự tăng trưởng kinh tế liên tục nhiều năm chứ không phải chỉ trong một giai đoạn nào đó.
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế tính theo giá trị sản xuất : Đây là chỉ tiêu gián tiếp phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế, bởi vì tăng trưởng giá trị sản xuất chỉ phản ánh sự phát triển về quy mô nền kinh tế và mở rộng quy mô chưa chắc đã đem lại hiệu quả. Hiệu quả cả nền kinh tế còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa GDP với giá trị sản xuất. Trong điều kiện mối quan hệ tỷ lệ giữa GDP và giá trị sản xuất không đổi, việc đẩy nhanh tốc độ tăng giá trị sản xuất sẽ góp phần tăng tốc độ GDP thông qua việc khai thác các nguồn lực đầu tư cho sản xuất, tạo việc làm, giải quyết vấn đề chính trị xã hội khác .
* Khả năng thu hút vốn , đất đai và lao động vào trong quá trình sản xuất, một cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển tận dụng các nguồn tiềm năng về vốn, đất đai, lao động. Thông qua các chỉ tiêu phản ánh tốc độ huy động các yếu tố vào quá trình sản xuất(tỷ lệ đất đai được khai thác tỷ lệ sử dụng lao động, tốc độ tăng vốn đầu tư cho sản xuất.
* Chỉ tiêu GDP và giá trị sản xuất tạo ra tính trên mỗi đơn vị yếu tố đầu tư, cơ cấu sản xuất hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở khai thác có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
* Các chỉ tiêu về tăng thu nhập và cải thiện mức sống của dân cư.
* Tình hình đảm bảo tính ổn định các mặt về chính trị xã hội.
*Tốc độ tăng sản phẩm xuất khẩu trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế các nước hiện nay, việc tăng nhịp độ xuất khẩu, tăng độ mở của nền kinh tế mỗi nước trong quá trình hội nhập có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược phát triển. Trong chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, các quốc gia đều quan tâm đến phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu.
*Tình hình giải quyết vấn đề môi trường cũng là chỉ tiêu rất quan trọng trong khi đánh giá hiệu quả của cơ cấu kinh tế. Trên thế giới hiện nay môi trường được xem như là một yếu tố cấu thành trong hoạch định chiến lược phát triển, cơ cấu kinh tế hợp lý bao hàm nghĩa yếu tố đó góp phần tích cực vào việc giữ gìn môi trường.
6. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung là quá trình vận động của các bộ phận cấu thành tổng thể nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu của sự chuyển dịch đó hướng tới sự hài hoà của tổng thể, trong đó các bộ phận liên kết với nhau thúc đẩy lẫn nhau và hoàn thiện lẫn nhau.
Cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình vận động của các thứ hệ và tiểu hệ trong nội bộ ngành trồng trọt và chăn nuôi tạo thành tổng thể ngành sản nông nghiệp. Mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là tạo ra một hệ thống các tiểu ngành nghề mới trong ngành nông nghiệp phù hợp với các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và tự nhiên của mỗi vùng. Kết quả của sự chuyển dịch là tạo ra được mối quan hệ hữu cơ tương hỗ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp với nhau và giữa ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác sao cho phù hợp và có hiệu quả. Nó góp phần tác động tích cực tới quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
7. Phát triển nông nghiệp gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp .
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp là một quá trình lâu dài cần có bước đi thích hợp ngành nông nghiệp phải lựa chọn và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới nhằm tạo ra mô hình công nghiệp cao, trong một số lĩnh vực mũi nhọn, “nông nghiệp ngoại thành Hà nội là một nền nông nghiệp ven đô có đặc điểm đất ít người đông bình quân đất nông nghiệp chỉ chiếm 46% so với bình quân cả nước và bằng 86% so với đồng bằng Sông Hồng, trong 10 năm tới có thể giảm đi mỗi năm 1000 ha, tổng diện tích giảm khoảng 21% so với hiện nay. Vì vậy, cần phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và cao cấp hoá sản phẩm , để thích ứng với quá trình đô thị hoá cũng như xu hướng phát triển hội nhập nền kinh tế của nước ta. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp bao gồm:
- áp dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ và sản xuất nông nghiệp đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm tạo ra năng suất lao động chất lượng sản phẩm cao .
- Phát triển công nghiệp chế biến gắn với công nghệ hiện đại tạo ra các sản phâm chế biến nông sản có chất lượng cao, thu hút nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp .
- Đầu tư các cơ sở sản xuất giống, cây trồng, vật nuôi, các công trình thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu khoa học, công trình giao thông, điện và hạ tầng khác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp .
- Tăng cường trang bị máy móc thiết bị thay thế lao động thủ công trong các khâu của sản xuất nông nghiệp: làm đất, thu hoạch, dịch vụ nông nghiệp ,giết mổ thịt gia súc gia cầm ...
- Tăng cường đào tạo kiến thức khoa học kỹ thuật cho nông dân để tiếp thu trình độ khoa học công nghệ mới phục vụ cho sản xuất.
II . Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp .
a. Khái niệm: Là cấu trúc bên trong của ngành sản xuất nông nghiệp bao gồm các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp (tức là các kiểu ngành sản xuất nông nghiệp) và các vùng chuyên môn hoá các thành phần kinh tế với các loại hình doanh nghiệp. Tất cả các ngành, vùnh kinh tế nông nghiệp gắn bó với nhau theo quy trình công nghệ nhất định.
b. Nội dung của cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Cũng như cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung, nội dung của cơ cấu sản xuất nông nghiệp bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, những nội dung này chỉ giới hạn trong khâu sản xuất, mà không phân tích sâu đến các khâu: phân phối và tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp
*Cơ cấu ngành.
- Hiện nay trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi mà còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Do vậy trong cơ cấu ngành còn phải xét tới ngành lâm nghiệp và dịch vụ nông nghiệp . Cơ cấu ngành của sản xuất nông nghiệp bao gồm các nhóm ngành trồng trọt chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp.
-Trong mỗi nhóm ngành lại được phân thành những ngành hẹp hơn theo từng tiểu hệ khác nhau và nó được thực hiện mang tính quy luật. Trong một thời gian, khu vực kinh tế nước ta chậm chuyển biến nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu, cơ cấu chậm chuyển dịch nguyên nhân chủ yếu là lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao động thấp, phân công lao động chưa tỉ mỉ sâu sắc nên tình trạng thiếu lương thực kéo dài.
Từ năm 1989 trở lại đây sản xuất lương thực đạt được nhiều thành tựu to lớn, dư thừa lương thực để xuất khẩu, do vậy làm cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch nhanh chóng theo hướng có hiệu quả.
Những nước có trình độ kém phát triển, nông nghiệp chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế thì sự phát triển của lực lượng sản xuất đặc biệt là sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào làm cho cơ cấu sản xuất chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công ngiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ cấu vùng lãnh thổ:
Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng to lớn. ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung có hiệu quả cao, mở với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn với cơ chế thị trường .
Để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý cần bố trí các ngành trên vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng địa phương
Đặc biệt cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh của từng vùng, đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao thông lớn và các khu công nghiệp đô thị mới.
Cơ cấu thành phần kinh tế
Trong suốt thời gian dài của thời kỳ bao cấp ở nước ta, cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp chậm chuyển biến với sự tồn tại thuần nhất của hai loại hình kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với nội dung chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các thành phần kinh tế phát triển đa dạng và đa thành phần hơn.
Điều đáng chú ý trong quá trình chuyển dịch kinh tế cơ cấu thành phần kinh tế nổi lên các xu thế sau: Đó là sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó, kinh tế hộ nổi lên như một thành phần kinh tế năng động, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội. Trong quá trình phát triển, kinh tế hộ chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, nông trại (sản xuất hàng hoá lớn).
- Thành phần kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm mạnh nhà nước đang có biện pháp sắp xếp, rà soát lại hoặc chuyển các DNNN sang chức năng khác cho phù hợp với điều kiện hiên nay.
- Thành phần kinh tế tập thể (hay kinh tế hợp tác) cũng chuyển đổi chức năng của mình sang các hợp tác xã kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của các hộ nông dân.
Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc chuyển đổi chức năng của nó làm cho cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các thành phần kinh tế.
2. Nội dung chủ yếu của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp .
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta hiện nay nói chung còn rất lạc hậu, chủ yếu vẫn là nền nông nghiệp sản xuất lúa gạo. Để đạt được những mục tiêu chung và kết quả đã đề ra thì cần phải nhanh chóng đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Hướng đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới theo hướng sau:
a. Đổi mới cơ cấu giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi .
Sản xuất nông nghiệp có hai ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi, song nhìn chung chăn nuôi của nước ta phát triển còn chậm. Giá trị sản lượng do ngành chăn nuôi tạo ra chỉ chiếm khoảng 35,2 %-39,75%, trong tổng giá trị sản lượng. Hướng đổi mới là phải đẩy nhanh tốc độ phát triển của ngành chăn nuôi, đưa chăn nuôi lên thành một ngành sản xuất chính. Phấn đấu trong vài năm tới đưa giá trị sản lượng của ngành chăn nuôi đạt khoảng 35%-40%, trong tổng giá trị sản lượng của cả hai ngành và lên đến 50%-55%, trong những năm tiếp theo.
b. Đổi mói cơ cấu nội bộ ngành .
*Cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt.
Trong ngành trồng trọt có các tiểu ngành : sản xuất lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau và hoa, cây dược liệu đã có sự phát triển khá. Tuy nhiên so với sản xuất lương thực các ngành này vẫn còn chiếm phần nhỏ bé (cả diện tích, sản lượng và giá trị). Ngành trồng trọt về cơ bản vẫn là ngành trồng lương thực, mà trong đó chủ yếu là sản xuất lúa gạo .
Hướng đổi mới chuyển dịch là trên cơ sở thâm canh năng suất các loại cây lương thực mà từng bước giảm dần diện tích các loại cây trồng này một cách hợp lý. Đồng thời mở rộng, tăng nhanh diện tích trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau và hoa, cây dược liệu là những loại cây cho các sản phẩm có giá trị kinh tế cao và nhu cầu trên thị trường ngay càng
tăng.
* Cơ cấu nội bộ ngành chăn nuôi .
Trong ngành chăn nuôi có hai loại : chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm, nuôi ong, nuôi các loại hải sản. Từ trước tới nay chăn nuôi của ta mới quan tâm chủ yếu đến:Trâu, bò ,lợn và gia cầm nuôi theo lối tận dụng.
Theo hướng đổi mới cơ cấu ngành, trong những năm tới là phát triển nhanh đàn trâu bò theo hướng lấy thịt, sữa. Phát triển đàn lợn theo hướng nạc hoá đàn lợn và mở rộng chăn nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp. Đặc biệt quan tâm đến viêc nuôi trồng các loai thuỷ hải sản, vì đây là thế mạnh và chỉ theo hướng này mới cải thiện nhanh bữa ăn và nâng cao dinh dưỡng cho người dân .
Ngoài ra cần quan tâm đúng mức đến vấn đề chế biến nông sản bảo đảm phần lớn các loại nông sản đưa ra thị trường trương tiêu thụ đã qua chế biến
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau, từng nhân tố riêng lẻ ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất , đồng thời chúng gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống có mối quan hệ qua lại và tác động đến cơ cấu sản xuất. Các nhân tố này có thể bổ sung lẫn nhau và cũng có thể tác động ngược lại với nhau. Vai trò chủ đạo là phải đánh giá đúng phần đóng góp và phần hạn chế của mỗi nhân tố, nhằm phát huy được những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực.
1. Nhóm những nhân tố về điều kiện tự nhiên.
Nhóm này bao gồm: Vị trí địa lý của các vùng lãnh thổ , điều kiện đất đai cua các vùng, điều kiện khí hậu thời tiết, các nguồn tài nguyên khác như nguồn nước, rừng, biển... các nhân tố tự nhiên trên có tác động trực tiếp đến sự hình thành, vận động của cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi nội dung của cơ cấu sản xuất nông nghiệp là khác nhau. Trong điều kiện tự nhiên nêu trên các điều kiện về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý....có ảnh hưởng trực tiếp đén sự phát triển của ngành nông nghiệp và thông qua đó sẽ gián tiếp tác động đến các ngành khác.
Trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cây lương thực chiếm tỷ trọng lớn hơn. Mặt khác trong một quốc gia mỗi vùng khác nhau thì có điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn nước khác nhau, dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Điều này được thể hiện ở nước ta rất rõ rệt về cơ cấu của ngành nông nghiệp giữa các vùng trung du, miền núi, và đồng bằng. Ngay trong cùng một vùng cơ cấu sản xuất nông nghiệp cũng có sự khác nhau do tính đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên và sự phát triển không đồng đều của các nguồn lực. Một số vùng có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi để phát triển một số loại cây, con tạo ra lợi thế so sánh với các vùng khác trên cả nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế nói chung và các vùng kinh tế nông nghiệp nói riêng trong mỗi quốc gia.
2. Nhóm những nhân tố kinh tế xã hội.
Nhóm này luôn tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và biến đổi của cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá các mối quan hệ kinh tế được thể hiện thông qua thị trường, các yếu tố cơ bản của thị trường là: cung, cầu, giá cả. Theo tính chất của sản phẩm trao đổi, thị trường có thể phân thành thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất ...thị trường nông thôn không chỉ thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm nông sản (Đầu ra) mà còn góp phần quan trọng thu hút các yếu tố đầu vào của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp như: Vốn, sức lao động công nghệ, vật tư, công nghệ.
Tuy nhiên thị trường với quy luật vốn có luôn chứa đựng khả năng tự phát và dẫn đến những rủi ro cho người sản xuất cũng như gây lãng phí các nguồn lực sản xuất nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Để hạn chế khả năng tự phát cần có sự tác động hợp lý của nhà nước ở tầm vĩ mô để định hướng sự vận động và biến động của thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cần chú trọng sự tác động và ảnh hưởng của thị trường quốc tế tới cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mỗi nước. Hiện nay quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng vì vậy mà hầu hết các quốc gia đang có xu hướng thực hiện chiến lược kinh tế mở. Thông qua quan hệ giao thương quốc tế, các quốc gia này càng tham gia sâu hơn vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp ở mối quốc gia nói chung. Việc tham gia ngày càng sâu vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế sẽ làm cho mỗi quốc gia khai thác và sử lý các nguồn lực của nước đó có lợi thế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế và công cụ khác nhau để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô. Chính sách kinh tế chính là hệ thống các biện pháp kinh tế để thực hiện các mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô là tạo ra động lực kinh tế mà cốt lõi là lợi ích kinh tế phù hợp với định hướng của nhà nước trong kế hoạch kinh tế quốc dân. Để thực hiện các mục tiêu kinh tế nhất định thì nhà Nước cần có các chính sách kinh tế phù hợp, trong đó có chính sách cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Nếu chỉ có sự tác động bởi quy luật thị trường thì cơ cấu kinh tế chỉ hình thành và vận động một cách tự phát và tất yếu sẽ dẫn đến lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực của đất nước. Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước buộc phải ban hành một hệ thống các chính sách kinh tế cùng với các công cụ quản lý vĩ mô khác thúc đẩy việc hình thành cơ cấu các vùng kinh tế, cơ cấu các thành phần kinh tế hợp lý và trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng được nâng cao nhằm khai thác hiệu qủa các nguồn lực ỏ các vùng. Để hình thành hay chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi phải có những điều kiện vật chất nhất định, Trong đó yếu tố quyết định là nguồn vốn. Vốn không những cần để đầu tư cho ngành nông nghiệp mà nó rất cần cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng thúc đẩy nông nghiệp nông thôn.
3. Nhân tố khoa học công nghệ.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã có tác động mạnh đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều ngành sản xuất mới, mặt khác nó cho phép khắc phục những mặt han chế của các nhân tố tự nhiên.
- Nhân tố về cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng của một nước nói chung hay của một vùng kinh tế nói riêng bao gồm những cơ sở về vật chất (đường xá, điện tín-điện thoại, cầu cảng, hệ thống cấp thoát nước...) và những cơ sở hạ tầng phi vật chất (hệ thống pháp luật, ý thức chính trị, văn hoá giáo dục...). Cả hai loại cơ sở hạ tầng trên đều có ảnh hưởng chặt chẽ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp .
Hệ thống cơ sở hạ tầng vững chắc là một trong những điều kiện cơ bản cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng còn tạo ra được một môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, nhất là những ngành đò._.i hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao...
- Nhân tố lao động: Nguồn lao động với tư cách là một yếu tố kinh tế, số lượng và chất lượng nguồn lao động có một tác động không nhỏ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. ở nước ta, với đặc điểm dân đông, nguồn lao động dồi dào cho nên giai đoạn đầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu cần phải tranh thủ lợi thế lao động phong phú, giá nhân công rẻ để phát triển những ngành thu hút nhiều lao động vốn đầu tư thấp, điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa cả trên phương diện chính trị xã hội nữa.
4. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Nông nghiệp có vị trí hết sức quan trọng đóng góp vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Do đó việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói chung và của ngoại thành Hà nội nói riêng là một việc làm cần thiết để tạo ra bước phát triển mới trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nông nghiệp nông thôn. Sự cần thiết đó xuất phát từ những vấn đề sau:
4.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm phát triển nền nông nghiệp toàn diện đáp ứng yêu cầu về nông sản phẩm của xã hội .
Cùng với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế đất nước sang nền kinh tế thị trường, sự phát triển của nền kinh tế nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng đang phải hứng chịu và đối mặt với sự phát triển đó.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Trong khi xã hội không ngừng phát triển, nhu cầu của con người về nông sản phẩm cũng theo đó tăng lên cả về số, chất lượng, chủng loại, điều đó cũng chính là đòi hỏi của thị trường mà sản xuất cần phải đáp ứng.
Để sản xuất nông nghiệp đáp ứng được yêu cầu của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng đòi hỏi nông nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Muốn vậy không thể dừng lại ở cơ cấu sản xuất nông nghiệp truyền thống mà đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu và tác động của thị trường .
Thị trường và nhu cầu càng phát triển thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp càng phải biến đổi phong phú và đa dạng hơn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại lợi ích kinh tế ngày càng cao cho hộ nông dân là nguyện vọng thiết thực, mặt khác với nhu cầu ngày càng cao của người dân và người tiêu dùng về nông sản, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm phát triển nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và ổn định chính trị xã hội .
Xuất phát từ yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá- Hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn mới theo hướng thâm canh, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường để nâng cao giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
4.2. chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là điều kiện và nhu cầu để mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường , chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chính là điều kiện và yêu cầu để mở rộng thị trường nhằm cung cấp một khối lượng nông sản hàng hoá cho xã hội , nguyên liệu cho công nghiệp, nơi cung cấp hàng hoá cho xuất khẩu và mở rộng thị trường quốc tế là nơi cung cấp lực lượng lao động cho các ngành kinh tế quốc dân và là thị trường tiêu thụ lớn nhất các sản phẩm của ngành nông nghiệp .
Quá trình chuyển dịch đó đã giải phóng được sức sản xuất ở nông thôn. Đó là một bước quan trọng, tiềm năng của nhân dân được phát huy, cơ sở vật chất trong nông nghiệp và nông thôn được đổi mới và tăng cường làm cho sản xuất đạt mức tăng trưởng cao và ổn định. Chính vì vậy đã giải quyết được cơ bản nhu cầu lương thực,thực phẩm cho nông dân và dư thừa để xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ cung cấp lương thực thực phẩm, nguyên liệu mà còn cung cấp một lực lượng lao động đáng kể cho xã hội. Bởi vậy quá trình chuyển dịch sẽ thay đổi cơ cấu sản xuất sao cho phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng do đó tỉ lệ lao động của ngành giảm đi nhưng giá trị tuyệt đối của ngành đó vẫn tăng và từng ngành kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp vẫn đạt mức sản xuất tối đa đồng thời có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau và tổng sản phẩm xã hội đạt mức cao nhất.
Khi đời sống của nhân dân được nâng lên thì đây cũng chính là nơi tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm sản xuất ra. Chính vì vậy phát triển mạnh nông nghiệp sẽ tạo ra một vành đai sản xuất một mối quan hệ khăng khít giữa thành thị và nông thôn giữa công nghiệp và nông nghiệp ...Thông qua đó sử dụng nguồn tài nguyên triệt để theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trong những năm qua để tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thuận lợi và nâng cao đời sống vật chất cho các hộ nông dân, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành chính sách đầu tư vốn phát triển ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, chính sách này khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển sản xuất, và các chính sách hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất thực hiện chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất, nâng cao dân trí và điều kiện sống ở nông thôn.
4.3 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo cơ ssở cho việc thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Để giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thu được kêt quả trong thời gian của Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách vốn và đâu tư cho nông nghiệp nhằm tạo điều kiện huy động dược các nguồn vốn trong nước và ngoài nước đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các ngành nông nghiệp, hỗ trợ xây dựng cơ sơ hạ tầng phục vụ sản xuất và đó sống ở nông thôn.
Như vậy trong quá trình thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ sản xuất trồng trọt và chăn nuôi được phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở khai thác lợi thế của địa phương mà cơ sở hạ tầng của nông thôn cũng được tăng cương đầu tư xây dựng vấn đề y tế giáo dục ở nông tthôn cũng được cải thiện , trình độ dân trí được năng cao một bước việc nâng cao trình độ dân trí là rất quan trọng nó góp nâng cao việc tiếp xúc được với những tiến bộ khoa học và nền kinh tế thị trường .Do đó việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã và đang từng bước góp phần tích cực tới quá trình công nghiệp hoá đô thị hoá nông nghiệp nông thôn và quá trình xây dựng nông thôn mới.
4.4. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hoá cao , thâm canh tiên tiến và các ngành nghề liên kết chặt chẽ với nhau hơn.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương đã chú ý khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương mình để phát triển sản xuất hàng hoá ,cho nên ở mỗi vùng mỗi địa phương đã tạo ra các khu sản xuất cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu và điều kịên sản xuất ở những nơi đó theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và sản xuất hàng hoá, làm cho sản phẩm nông nghiệp nước ta đa dạng và phong phú hơn bao gồm nnhiều loại cây, con, nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới .
Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi trong quá trình thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đẩy mạnh việc đưa công nghệ sinh học và trong sản xuất, đặc biệt việc sử dụng các giống cây trồng vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn và giá trị sản lượng hàng hoá cao. Thực tế cho thấy trong những năm qua hầu hết các địa phương đã rất coi trọng việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ áp dụng và sản xuất tạo cho sản xuất nông nghiệp có một bước nhảy vọt trong công nghiệp hoá-hiện đại hoá về số lượng và chất lượng tạo nên hiệu quả sản xuất ngày càng tăng.
Kết quả của vịêc tập trung ,chuyên môn hoá, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã dẫn đến sự liên kết ngày càng chặt chẽ với nhau hơn giữa các ngành, nghề sản xuất ở nông thôn do đó đã tạo ra một dây chuyền sản xuất không thể thiếu được nhau ngành nghề này tác đông hỗ trợ cho ngành nghề kia cùng nhau phát triển.
Để tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá, thâm canh cao trong sản xuất nông nghiệp, Nhà nước ta đã có chính sách ruộng đất đảm bảo cho nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, chính sách đầu tư phát triển và đảm bảo tiêu thụ sản phẩm , chính sách đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của người lao động và chính sách đưa tiến bộ khoa học và trong sản xuất.
5. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp .
Những chuyển biến trong nông nghiệp ngoại thành Hà Nội giai đoạn 1996 - 2000 gắn liến với bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường và chịn sự tác động ngày càng mạnh của quá trình đô thị hoá: ở đây đã có sự thay đổi cả về tính chất và động lực phát triển . Nền nông nghiệp đang từng bức chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá với cấu trúc đa dạng và năng động.Tốc độ tăng giá trị sản lượng tuy cao nhưng chưa có bước tiến đặc bịêt trong cơ cấu. Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt và chăn nuôi .
Sau một thời gian chịu tác động của quá trình đô thị hoá cơ cấu nông nghiệp ngoại thành Hà nội về cơ bản vẫn là cơ cấu truyền thống với hai ngành then chốt là trồng trọt và chăn nuôi .
Cơ cấu giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi khuu vực ngoại thành Hà Nội chưa có sự thay đổi đáng kể. Sau một thời gian dài từ năm 1990-2000, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm và vẫn chiếm tỷ lệ tương đối cao từ 64,8% xuống 60,25%, ngành chăn nuôi tăng từ 35,2%-39,75% . Sự thu hẹp của ngành trồng trọt và sự tăng trưởng của ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp do tác động của nhiều nhân tố, nhưng một phần là do ảnh hưởng của sự thu hẹp đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá. Ngành trồng trọt với đặc điểm cơ bản với sản xuất gắn liền với đất đai trên phương diện số lượng , chất lượng ,đất đai. Đồng thời với diện tích đất nông nghiệp giảm cũng là nguyên nhân các hộ nông nghiệp chuyển sang phát triển chăn nuôi chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng còn ở mức khiêm tốn, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi tuy có chuyển dịch theo hướng tiến bộ, nhưng vẫn xoay quanh tỷ lệ 3:2. Tình trạnh mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi chưa được giải quyết, chăn nuôi tuy đã tăng trưởng khá hơn nhưng vẫn chưa có một vị trí quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp. Bên cạnh tác động tích cực làm tăng giá trị sản xuất của cây trồng vật nuôi, quá trình đô thị hoá đã làm giảm đi một lươnng đáng kể diện tích đất nông nghiệp. Nếu không có sự thu hẹp về diện tích sản xuất này chắc chắn sự phát triển của nông nghiệp ngoại thành Hà Nội còn tăng nhiều hơn.
chuyển dịch cơ cấu mùa vụ .
Xuất phát từ nhu cầu thị trường ngày càng tăng, những đổi mới của kỹ thuật - khoa học công nghệ có sự chuyển dịch về cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp. Trước đây, khi nền nông nghiệp còn lạc hậu, cây lúa là cây lương thực chính, nhưng trong năm chỉ có hai vụ chính đó là vụ mùa và vụ đông xuân. Hiện nay do ứng dụng những thành tựu khoa học đã áp dụng vào các vụ , môt năm tăng lên 3-4 vụ mà trong đó vẫn đạt năng suất cao. Từ thực tế đó người nông dân đã biết lựa chọn mùa vụ hợp lý để thuận lợi cho việc chăm sóc, thu hoạch và chánh được thiên tai do tự nhiên gây ra.
- Chuyển dịch cơ cấu vùng .
Quá trình công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nông nghiệp là : nhằm đưa nền nông nghiệp nước ta nói chung và nền nông nghiệp ngiệp ngoại thành nói riêng theo hướng sản xuất hàng hoá dựa theo hình thức thâm canh hình thành nên một số vùng chuyên sản xuất, chuyên môn hoá như vùng rau ăn là ở huyện Thanh Trì, Từ Liêm và rau quả ở Gia Lâm, vùng lúa ,vùng sản xuất cá Thanh Trì, vùng hoa ở Từ Liêm...
Cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hoá, các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá trong khu vực ngoại thành có sự biến đổi sâu sắc một mặt, đã chuyển hướng sản xuất nhanh sang kinh doanh tổng hợp , mặt khác đã tự phát hình thành càng nhiều các khu vực tập trung sản xuất . Chuyên cây, con như vùng trồng rau ở Văn Đức (Gia Lâm), Nam Hông-Bắc Hồng (Đông Anh),vùng cây ăn quả được tập trung ở các huyện như Từ Liêm, Sóc Sơn ...
Vùng chăn nuôi lợn nái ở Việt Hùng, Cổ Loa...
Quá trình thành các vùng sản xuất đã tập trung phát triển mô hình kinh tế trang trại. Nhìn chung, quy mô của nhưỡng vùng chuyên cạnh còn nhỏ bé, nhưng có ý nghĩa như một nhân tố làm thay đổ nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên một số vùng chuyên môn hoá sản xuất mới hình thành chỉ một số ít trong quy hoach kế hoạch chung như vùng bò sữa, vùng rau sạch (Gia Lâm), vùng cây ăn quả (Sóc Sơn ), còn lại hầu hết đều hình thành một cách tự phát . Do đó, những vùng nông nghiệp sản xuất chuyên môn hoá vẫn mang tính chất phân tán manh mún, không có sản phẩm chủ lực trong việc khai thác lợi thế so sánh của từng vùng từng khu vực, nên chưa hình thành được những vùng sản xuất tập trung, sản xuất nông sản chất lượng cao, quy mô lớn cho chế biến và xuất khẩu .
- Chuyển dịch cơ cấu giống cây, con .
Do nhu cầu ngày càng cao của con người về điều kiện sống , sự phát triển của những tiến bộ khoa học, hiện nay đã tạo ra nhiều giống cây ,con mới ngắn ngày cho năng cao và chất lượng tốt .
Những giống lúa trước đây với giống lúa là 6 tháng (kể từ khi gieo mạ cho đến khi thu hoạch), thời gian chiếm đất rất lâu dần dần đã có sự chuyển đổi sang các giống mới ngắn ngày (3 tháng), mà năng suất vẫn cao, chất lượng vẫn tốt đáp ứng được nhu cầu của người dân thành phố và xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Do áp dụng công nghệ sinh học phát triển đã tạo ra được nhiều giống cây con mới năng suất, thịt , sữa, trứng năng suất và hiệu quả cao. Góp phần làm giảm đi tính thời vụ trong năm ,làm tăng hệ số sử dụng đất lên.Tuy nhiên nông nghiệp nước ta nói chung cũng như nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói chung vẫn còn lạc hậu. Các sản phẩm nông nghiệp của ta chỉ tiêu dùng trong nước sức cạnh tranh trên thị trường chưa cao hướng chuyển dịch các loại giống cây, con cần được phát huy và ứng dụng hơn nữa trong nông nghiệp và nông thôn .
Phần II
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
ở ngoại thành hà nội
I. Đặc điểm về tự nhiên kinh tế - xã hội của Hà Nội và ngoại thành.
1. Đất đai, nguồn nước.
Ngoại thành Hà Nội bao gồm có 5 huyện: Gia Lâm, Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì, Sóc Sơn. Theo số liệu điều tra của cục thống kê Hà Nội đến ngày 31/12/2000 tổng diện tích đất nông nghiệp Hà Nội là 43.456 ha. Trong đó đất canh tác là 38.885 ha. Đất ngoại thành Hà Nội bao gồm ba loại chủ yếu là đất phù sa chiếm khoảng 46%, đất đồi gò bán sơn địa chiếm khoảng 30% đất trũng khoảng 24%.
Khí hậu Hà Nội có đặc trưng của khí hậu Đồng Bằng Sông Hồng. Đó là khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới ẩm có pha trộn ít nhiều tính ôn đới. Tuy nhiên ngoại thành Hà Nội còn có các tiểu vùng sinh thái đặc thù như vùng đồi gò Sóc Sơn, vùng trũng Thanh Trì... Nên cũng có một số nét đặc trưng cả từng vùng. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 240c, cao nhất là 42,80c và tấp nhất là 5,60c. Lượng mưa trung bình hàng năm giao động từ 1300-1700mm, lượng mưa lớn nhất là 2714mm và ít nhất là 1175mm. Bão ảnh hưởng đến Hà Nội tư tháng 7- 10, tỷ suất ảnh hưởng từ 2,5% đến 32,5% số giờ nắng giao động từ 1.500- 1700 giờ/ năm. Tổng bức xạ quang hợp từ 55- 62 kcal/ cm2/năm.
Nhìn chung, những đặc điểm về điều kiện tự nhiên của ngoại thành có nhiều thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá với tỷ suất và chất lượng cao, cơ cấu cây trồng , vật nuôi phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, quy mô quỹ đất ở các huyên ngoại thành là kkhông giống nhau đặc biệt là gò đồi lâm nghiệp tập trung ở Sóc Sơn, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản ở Thanh Trì.
Nguồn nước ở ngoại thành tương đối dồi dào (không kể nguồn nước mặt phong phú, có khả năng khai thác nước ngầm một triệu m3/ngày đêm), có thể thoả mãn nhu cầu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và trong sinh hoạt, bao gồm nước của các con sông Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống, sông Cầu...với tổng chiều dài là 364km. Ngoài ra Hà Nội và ngoại thành còn có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc với mất độ khoảng 0,5km/ km2. Nguồn nước dồi dào đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp mà còn đảm bảo cho nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều của người dân ở các đô thị mới xắp hình thành.
Tuy nhiên với tình hình hiện nay, khó khăn cơ bản đang được đặt ra là tình trạng nguồn nước ở một số nơi, ở các con sông lớn đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng và có nguy cơ ngày càng lớn, đặc biệt là các xã ven nội thành của các huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm. Đây là các con sông chính để đáp ứng một nhu cầu lớn về lượng nước tiêu dùng cho sinh hoạt chung cuả cả thành phố, vì vậy thành phố Hà Nội đang có chủ chương lớn về hệ thống cấp thoát nước sạch cho toàn thành phố và ngoại thành.
2. Điều kiện về kinh tế xã hội.
2.1 Dân số, lao động và việc làm.
Dân số ngoại thành hiện nay khoảng 1256,5 ngàn người chiếm khoảng 46,74% dân số toàn thành phố. Tỷ lệ tăng dân số ngoại thành trung bình là 1,4%. Trong đó nhân khẩu nông nghiệp là 825,906 người là lao động nông nghiệp trong độ tuổi là 405,506 người chiếm tỷ lệ 50,3% dân số nông nghiệp. Những số liệu thống kê trên cho thấy: nguồn lao động trong nông nghiệp có tỷ lệ khá cao, và mức độ tăng nguồn lao động tờ năm 1991-2000, bình quân là 5,7% và trong 5 năm từ năm 1995 –2000, bình quân tăng 7,3% có tỷ lệ tăng nguồn lao động cao, đã tạo ra lực lượng lao động nông nghiệp rất dồi dào phong phú, đó là nhân tố rất thuận lợi. Nhưng có hạn chế là giá trị ngày công lao động nông nghiệp còn ở mức thấp so với các ngành khác. Ngoài ra còn có nguồn dân số phi nông nghiệp sống ở nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ lệ 24,2% cũng là nguồn cung cấp lao động dộng phụ túc sản xuất căng thẳng. Do vậy có thể đánh giá nguồn lao động nông nghiệp ở ngoại thành rất dồi dào, đa dạng, đáp ứng vượt mức các nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, kể cả nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá với chất lượng cao.
Về chất lượng nguồn lao động : đại đa số lao động nông nghiệp ngoại thành Hà Nội hiện nay đều là lực lượng lao đông tương đôi trẻ, thuộc nhũng thế hệ gần đây. Phần lớn họ đã có trình độ văn hoá cấp II trở lên, do vậy có trình độ nhận thức tương đối khá và dồng đều. Đây là yêú tố thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá đòi hỏi ngày càng cao các tri thức về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới . Thực tế ngoại thành Hà Nội đã đi trước nhiều tỉnh khác trong cả nước, là một sản xuất nông nghiệp hàng hoá đang phát triển ở mức độ ngày càng cao , từ đó dã tác động, chi phối sâu sắc tới tư duy , nhận thức và điều hành, quản lý sản xuất của họ nông dân, của lao động nông nghiệp. Do đó đã rèn luyện , đào tạo và hình thành sớ một hướng suy nghĩ cho nền sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường có yêu cầu cao về chất lượng nông sản hàng hoá .
2.2 Kết cấu hạ tầng chủ yếu.
Biểu 1: Một số chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng khu vực nông nghiệp – nông thôn ngoại thành Hà Nội
Đơn vị
ToànNgoại
Chia ra
tính
thành
Đông anh
Thanh trì
Từ liêm
Gia lâm
Sóc sơn
1. số xã có đường ô tô đến UBND xã
Xã
118
23
24
15
31
25
2. Số xã có trường cấp I
Xã
118
23
24
15
31
25
3. Số xã có trường cấp II
Xã
118
23
24
15
31
25
4. Số xã có trường cấp III
Xã
18
3
4
5
4
2
5. Số xã có lớp mẫu giáo
Xã
118
23
24
15
31
25
6. Số xã có nhà trẻ
Xã
86
20
11
21
25
9
7. Số xã có trạm xá
Xã
118
23
24
15
31
25
8. Số xã có trạm truyền thanh
Xã
90
23
20
10
30
7
9. Số xã có trạm biến thế
Xã
115
23
24
15
30
23
10. Số xã có trạm bơm nước
Xã
102
21
23
16
20
22
11. Số xã có trạm bơm do Nhà nưéc quản lý
Xã
46
9
8
10
12
7
12. Số xã có điện
Xã
118
23
24
15
31
25
13. Giá bình quân /1kwh
Đồng
643
647
640
613
625
963
Nguồn : Niên giám thống kê Thành phố Hà nội 2000
Ngoại thành Hà Nội nằm trong vùng trọng điển của Bắc Bộ và cả nước, qua hơn 10 năm đổi mới, tuy đã có cố gắng đầu tư và tạo ra bước chuyển khá về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ nhưng nhìn chung về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật vẫn còn yếu và trình độ công nghệ đang ở mức thấp. Vì vậy cần có một cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ đầy đủ, hiện đại để phục vụ cho đời sống sản xuất của nhân dân ngoại thành hiện nay.
2.3 Mạng lưới giao thông, ngoại thành Hà Nội bao gồm cả đường bộ, đường sắt ,đường thuỷ và đường hàng không. Tổng chiều dày đường giao thông ngoại thành là 2338 km, trong đó đương liên xã liên thôn ở ngoai thành là 1429 km đến nay còn 780 km (tức bằng 84,2%) , được rải nhựa đổ bê tông hoặc lát gạch hoa. Nhìn chung toàn bộ mật độ giao thông đường bộ của ngoại thành khá cao, tính bình quân 1 km có 0,89 trục đường (bao gồm đường quốc lộ, liên huyện, liên xã, liên thôn...).
Sự phát triển của mạng lưới giao thông nông thôn đến nay đủ đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hoá hành khách. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế ở những năm tới chỉ cần nâng cấp, hoặc tu bổ, bổ xung thêm phương tiện vận tải ở những nơi có nhu cầu.
2.4 Phát triển mạng lưới điện nông thôn.
Nguồn điện cung cấp cho ngoại thành , đến nay đã có 118/118 xã của các huyện có điện với 13 trạm trung gian có công suất khoảng 20.000 KVA, 630 trạm hạ thế, khoảng 180.000 KVA gồm 300 km đường dây cao thế. Đến nay lưới điện đã được đua đến tất cả các xã, thôn, trong đó chiếu sáng công cộng đã có ở 35 xã
Tuy nhiên hệ thống điện vẫn còn nhiều nơi chưa đạt yêu cầu, nhiều trạm biến thế, đường dây điện đẫ quá lâu mà chưa được tu bổ cải tạo, do qúa trình xây dựng thiếu đồng bộ quả lý còn yếu kém, làm cho điện năng bị thấp thoát lớn thêm vào đó là giá bán điện cho hộ nông dân còn cao chưa thống nhất.
2.5 Hệ thống thuỷ lơi.
Ngoại thành có nguồn nước rất dồi dào, được quy tụ bởi 5 con sông và rất nhiều ao hồ và nguồn nước ngầm. Đến nay ngoại thành đã có 287 công trình thuỷ lợi đảm bảo tưới 81% diện tích gieo trồng trong đó: Từ Liêm 95%, Thanh Trì 88%, Đông Anh 100%, Gia Lâm 86%, Sóc Sơn 57%. Đảm bảo tưới 63,79% trong đó Từ Liêm 95%, Thanh Trì 90%, Sóc Sơn 12%...
2.6 Mạng lưới thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông.
Mạng lưới thông tin liên lạc ngoại thành bao gồm mạng lưới điện thoại huyện xử lý và đường điện thoại xuống thị trấn, xã. Đến nay cả 5 huyện đã có 10 tổng đài khu vực, với tổng dung lượng lắp đặt là 19.500 số. Tổng số máy điện thoại ở 118 xã có khoảng 1850 chiếc. Trong văn phòng UBND mỗi xã có một máy. Hiện nay do quá trình công nghiệp hoá phát triển, nhiều dịch vụ truyền thông mới được mở, như truyển phát nhanh truyền tin, truyền số liêu... với trình độ kỹ thuật và chất độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc.
2.7 Một số cơ sở hạ tầng khác.
Thời gian qua việc nâng cấp và xây dựng mới các trường học theo hướng kiên cố được đẩy mạnh và tăng nhanh , chẳng hạn ở Từ Liêm 67%, Đông Anh 50%, Gia Lâm 54,7%...tổng số trường học hiện có là .
Cấp 1 143 trường 3484 lớp.
Cấp 2 143 trường 2523 lớp
Cấp 3 20 trường 410 lớp
Chưa kể các lớp bổ túc văn hoá được mở ở các trung tâm giáo dục thương xuyên .
Về Y tế: 100% số xã có trạm xá, nhà hộ sinh tổng cộng gồm 410 trạm xá, 600 giường bệnh .
Chương trình nước sạch cho nông thôn được đầu tư đến nay đã có 100% số hộ được dùng nước sạch, trong đó Đông Anh 99,8%, Từ Liêm 98,9%, Sóc Sơn 97,5%, Gia Lâm 89,55, Thanh Trì 89,9%.
Các cơ sở hạ tầng khác cũng được phát triển như sân vận động trung tâm văn hoá xã, chợ nông thôn, các câu lạc bộ thể thao , khu vui chơi giải trí...
Nhìn chung, ngoài thành Hà Nội hiện nay về điều kiện tự nhiên -kinh tế- xã hội thuận lợi, về kết cấu hạ tầng phát triển khá so với các địa phương khác trong cả nước. Đây là những thuận lợi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành. Tuy nhiên , để thúc đẩy hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
3. Đánh giá những thuận lợi ,khó khăn về tự nhiên kinh tế xã hội đối với việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành.
3.1. Thuận lợi.
Trong qúa trình phát triển lâu dài, Hà Nội đã hình thành nền kinh tế có thế mạnh hơn hẳn các tỉnh ở phía Bắc về nhiều mặt. Những năm gần đây kinh tế thủ đô phát triển tương đối toàn diện thể hiện ở nhiều mặt và đã đạt được mức tăng trưởng khá. Nhiều công trình hạ tầng ở ngoại thành được đầu tư nâng cấp , xây dựng và đổi mới...những yếu tố đó đã tạo đà cho sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành.
Nằm ở vị trí trung tâm, Hà Nội có ưu thế về hệ thống giao thông thuận lợi, thông tin liên lạc, và các tin tức luôn cập nập, luôn thu hút các nguộn vốn, nguồn lao động, nguyên liệu...Do đó sản xuất nông nghiệp của ngoại thành có khả năng phát triển và toả sức mạnh ra toàn vùng, và có nhiều triển vọng vươn ra thị trường thế giới.
Là các huyện ven đô, ngoại thành tiếp cận được với thị trường tiêu thụ nông sản nội thành. Do đó là môi trường quan trọng có sức thu hút làm cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Đất đai phong phú, đa dạng, lại có hệ thống sông ngòi, kênh mương nội đồng phục vụ tưới tiêu khá thuận lợi nên có điều kiện phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời với điều kiện đất đai , khí hậu cho phép phát triển nền nông nghiệp thâm canh cao, đa dạng về sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thủ đô.
Giao thông thuận lợi, hệ thống đường quốc lộ, đường liên xã, liên thôn được nâng cấp và ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá.
Có nhiều các cơ quan, xí nghiệp, viện nghiên cứu khoa học...của Trung ương, thành phố đóng trên địa bàn tạo thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Hệ thống giống cây và vật nuôi, thú y, bảo vệ thực vật... ngày có nhiều tiến bộ kỹ thuật mới, chuyển giao cho hộ nông dân.
Nằm ở vị trí trung tâm, Hà Nội có sức thu hút mạnh các nguồn lực ở khu vực cũng như trong nước, như vốn, lao động, công nghệ kỹ thuật nguyên liệu... đồng thời nơi đây có thuận lợi về thong tin giao thông vận tải và giao với nước ngoài. Đây là điều kiên thuận lợi về thông tin cho việc phát triển nông nghiệp mà các vùng khác không có. Vì vậy phải có cơ cấu phát triển sao cho hợp lý để tận dụng tối đa các lợi thế này.
3.2. Khó khăn .
Quá trình phát triển đô thị ở thủ đô Hà Nội đang diễn ra rất nhanh làm cho đất nông nghiệp giảm đi rất nhiều. Ước tính tới năm 2000 đất nông nghiệp giảm đi 7390,6 ha và dặt cho ngành nông nghiệp những thách thức trong việc thực hiện các nhiệm vụ về cung cấp thực phẩm cho dân cư thủ đô. Trong khi đó dân số Hà Nội cũng như ngoại thành ngày càng tăng. Ước tình dân số sẽ tăng lên 2,7 triệu người vào năm 2010, trong đố khoảng 60% dân số trong độ tuổi có khả năng lao động. Số người trong độ tuổi lao động cần bố trí việc làm khoảng hơn 55 vạn người vào năm 2010. Đây là một tiềm năng lớn về nguồn lao động trẻ nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với vấn đề tạo việc làm.
Hệ thống ngành chế biến nông - lâm - thuỷ sản còn phát triển chậm. Có thể nói đây là một yếu tố tác động lớn đến đầu ra của sản phẩm nông nghiệp, dẫn đến tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn, mang tính thời vụ, giá trị hàng hoá, nông sản nông nghiệp không cao không khuyến khích người dân tham gia sản xuất.
Việc giao đất và thực hiện 5 quyền sử dụng đất theo luật đất đai còn chưa triệt để. Do đó việc tích tụ ruộng đất để sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn không còn nhiều khó khăn.
Vốn đầu tư cho sản xuất hiện nay còn nhiều bất cập, rườm rà nhiều thủ tục gây khó khăn cho người nông dân trong việc đầu tư và sản xuất.
Các mô hình trang trại trên địa bàn hiện nay quy mô còn nhỏ, các hôk chăn nuôi còn coi ngành này là ngành phụ để tận dụng các loại sản phẩm dư thừa dẫn đến sản phẩm tuy có tăng nhưng năng suất chưa cao.
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá ngoại thành Hà Nội.
1. Biến động về diện tích đất gieo trồng ở ngoài thành Hà Nội.
Quá trình đô thị hoá đã ảnh hưởng trực tiếp đất nông nghiệp, một tư liệu sản xuất cơ bản và quan trọng nhất trong nông nghiệp không chỉ về mặt số lượng mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu đất nông nghiệp.
Trong tổng diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội, diện tích đất nông nghiệp ở khu vực ngoại thành chiếm đa số tới 95%. Chính vì vây, sự biến động trong cơ cấu đất nông nghiệp chủ yếu là do ảnh hưởng biến động đất nông nghiệp khu vực ngoại thành trong quá trình đô thị hoá.
Đất đai là nguồn lực chủ yếu để phát triển nông nghiệp, tuy nhiên cùng với thu hẹp về diện tích đất nông nghiệp lại tăng lên. Vì vậy, bình quân diện tích đất nông nghiệp trên lao động nông nghiệp đã thấp lại có xu hướng giảm.
Cùng với xu hướng giảm đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác ngày càng thu hẹp do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, cơ cấu các loại đất cũng đã chuyển dịch theo hướng tích cực đa dạng hoá cây trồng để tăng hiệu quả sử dụng đất. Xu hướng này được thể hiện khá rõ nét, nhất là trong những năm gần đây.
Biểu 2: Diện tích gieo trồng một số cây trồng chính ở ngoại thành Hà Nội giai đoạn 1995 – 2000
(Đơn vị: ha)
Năm
1995
1997
2000
Biến động qua các thời kỳ
1995-1997
1997-2000
1995-2000
1. Diện tích gieo trồng cây hàng năm
Ngoại thành
86.286
84.181
85.565
-2.105
1.384
-721
Sóc Sơn
27.129
27.989
29.730
860
1.741
2.061
Đông Anh
23.404
23.441
22.953
37
-488
-451
Gia Lâm
16.962
16.575
17.277
-387
702
315
Từ liêm
9.898
8.335
7.590
-1.563
-745
-2.308
Thanh Trì
8.893
7.841
8.015
-1.052
174
-878
2. Diện tích lúa cả năm
Ngoại thành
55.544
53.486
52.703
-2.058
-783
-2.841
Sóc Sơn
16.622
16.777
17.128
155
351
506
Đông Anh
15.177
14.998
147.37
-179
-261
-440
Gia Lâm
9.912
9.944
9.908
32
-36
-4
Từ Liêm
7.353
4.692
5.419
-2.661
727
-1.934
Thanh Trì
6.480
5.275
5.511
-1.205
236
-969
3. Diện tích rau các loại
Ngoại thành
5.667
7.413
8.065
1.746
-6.319
2.398
Sóc Sơn
630
1.292
1.094
662
-432
464
Đông Anh
1.343
2.145
2.498
802
-1.696
1.155
Gia Lâm
1.072
1.284
1.961
212
-1.749
889
Từ Liêm
1.430
._.uất cây ăn quả theo hướng thâm canh tăng năng suất, nâng cao phẩm chất quả, tạo ra hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị sản xuất. Đặc biệt khai thác hiệu quả các loại đặc sản: Cam tranh, Bưởi Diễn, hồng xiêm Xuân Đỉnh và các loại cây ăn quả mới có giá trị.
Thế mạnh là ngoại thành Hà Nội có tiềm lực về khoa học về công nghệ tiên tiến cần phải được áp dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất cây ăn quả, trong đó trước tiên là công tác giống, sản xuất giống cây ăn quả có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tại chỗ và cung ứng dịch vụ cho các tỉnh lân cận.
Biểu 24: Quy mô sản xuất cây ăn quả.
Hạng mục
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
P.A I
P.A II
P.A I
P.AII
P.A I
P.A II
Tổng diện tích(ha)
3238
3235
4180
6501
5800
10000
Diện tích thu hoạch(ha)
2903
2970
3057
3970
4185
7500
Năng suất bình quân(tạ/ha)
75
78
80
82
82
85
Sản lượng quả(tấn)
39963
38641
42597
47674
53049
71254
Tốc độ tăng trưởng(%)
1,6
2,3
2,8
3,4
Giá trị sản phẩm (tỷ đg)
106,7
103,2
113,7
127,3
141,6
190,3
Nguồn: Báo cáo quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2010.
3.7. Phát triển sản xuất hoa.
Cũng như giống cây rau, cây hoa ở Hà Nội có lợi thế đặc biệt mà nhiều địa phương khác trong cả nước không có được, đó là:
- Có thị trường tiêu thụ, với nhu cầu ngày càng lớn về chủng loại và chất lượng.
- Có điều kiện về sinh thái, để có thể sản xuất nhiều loại hoa với chất lượng yêu cầu từ bình dân đến cao cấp.
- Đã có đầy đủ các điều kiện về kỹ thuật, trình độ lao động vốn và cơ sở hạ tầng, để tổ chức sản xuất theo hướng thâm canh, công nghệ cao.
Về hiệu quả sản xuất thì cây hoa thu được giá trị kinh tế rất cao, trên đơn vị canh tác trung bình từ 70-100 triệu đồng/ha, cao hơn gấp nhiều lần so với sản xuất lúa, hoa màu.
Biểu 25: Quy mô sản xuất hoa.
Hạng mục
Năm 2000
Năm 2005
Năm2010
PAI
PAII
PAI
PAII
PAI
PAII
Quy mô diện tích (ha)
1150
1200
1500
2000
2000
3000
Giá trị / 1ha(tr.đ)
65
70
70
75
75
80
Giá trị (tỷ đồng)
89,2
84,7
105,9
141,2
141,2
211,8
Nguồn: Báo cáo quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2010.
Dự kiến chủng loại hoa chính, sản xuất với quy mô lớn như: cúc, hồng, lê rơn, đào, phong lan, đồng tiền...
Hoa trồng quanh năm chiếm tới 65% diện tích và sản lượng bao gồm các loại cúc, hồng, phăng, các loại này có sức tiêu thụ lớn giá trị kinh tế cao và đã hình thành một số vùng tập trung ở Tây Tựu, Định Công, Vân Nội.
Trồng hoa theo mùa vụ: vụ xuân hè có hoa loa kèn, huệ, nhài, chiếm khoảng 10% diện tích. Vụ thu đông có đào, thược dược, violet... chiếm 20-25% diện tích trồng tập trung ở Nhật Tân, Phú Thượng, Đông Ngạc và một số nơi ở Gia Lâm và Đông Anh.
4. Định hướng chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế.
Kinh tế hộ: Thành Phố cần tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn các hộ nông dân về vốn, kỹ thuật, công nghệ giống, tiêu thụ sản phẩm...Để thời gian tới các hộ từng bước tham gia vào kinh tế hợp tác hoặc làm"vệ sỹ" cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Kinh tế hợp tác: Thành Phố sẽ định hướng tổ chức quản lý lại các hợp tác xã hiện nay đang hoạt động ở mức trung bình và kém để đưa các hợp tác xã này làm ăn hiệu quả hơn nữa, để từng bước kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế Nhà nước dần dần trở thành nền tảng cho ngành nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Kinh tế trang trại: Hiện nay toàn thành phố Hà Nội có khoảng 1000 trang trại, tạo ra một khối lượng nông sản khá lớn góp phần đáp ứng nhu cầu nhân dân thủ đô. Đồng thời đã tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho nhiều lao động ở nông thôn.Trong giai đoạn 2001-2010 thành phố Hà Nội sẽ có chính sách đầu tư thoả đáng và cung cấp các thông tin cần thiết để thúc đẩy loại hình kinh tế này phát triển .
Doanh nghiệp quốc doanh nông - lâm thuỷ sản:
Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục đổi mới và phát triển loại hình kinh tế này để đảm bảo những mục tiêu mà thành phố đã đề ra hoạt động của doanh nghiệp quốc doanh nông lâm thuỷ sản sẽ tập trung vào các khâu như nghiên cưú, sản xuất giống cây, con để cung cấp vốn cho các hộ nông dân, thực hiện các khâu đổi mới, cải tạo san ủi đồng ruộng, tưới tiêu, điện...
Để đổi mới và tiếp tục phát triển doanh nghiệp quốc doanh nông lâm thuỷ sản thành phố sẽ phân loại và sắp xếp theo hướng:
+ Tập trung kiện toàn và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp lớn, hoạt động tốt khả năng tham gia vào thị trường trong nước và ngoài nước để các doanh nghiệp này trở thành đầu đàn trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp (từ cung ứng các yếu tố đầu vào đến bao tiêu sản phẩm đầu ra) cổ phần hoá cho thuê khoán đổi với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, làm ăn không có hiệu quả,có vai trò không quan trọng.
+ Hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng, đãi ngộ người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh, gắn trách nhiệm và quyền hạn nghĩa vụ, sớm tiêu chuẩn hoá các chức danh. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong đổi mới các doanh nghiệp quốc doanh nông lâm thuỷ sản ngoại thành nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trong thời gian tới.
Đổi mới theo phương hướng trên cần khắc phục sự bảo thủ, muốn duy trì kinh tế quốc doanh kiểu cũ, kém hiệu quả, mặt khác do tư tưởng muốn tư nhân tràn lan nền kinh tế và coi nhẹ kinh tế Nhà nước.
5. Định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo vùng.
Nhằm tiếp tục củng cố và hoàn thiện các vùng sản xuất chuyên môn hoá và phát triển tổng hợp để sử dụng có hiệu quả đất đai, thuỷ lợi , sức lao động và các tài nguyên khác đồ ng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, Sở Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn Hà Nội đã có kế hoạch bố trí lại cơ cấu kinh tế ở trên từng huyện trong thời gian tới như sau:
Huyện Gia Lâm:
- Vùng I: 9 xã, 3 thị trấn diện tích 5916 ha, đất canh tác 1936 ha chuyên trồng hoa, cây cảnh rau, quả, cây thực phẩm + dịch vụ.
- Vùng II: 5 xã, diện tích 3000 ha, đất canh tác 1637 ha chuyên trông cây lương thực, mùa vụ đông + chế biến thuỷ sản chế biến thức ăn gia súc + dịch vụ.
- VùngIII: 5 xã ven sông, diện tích 1811,1 ha đất canh tác 826 ha trồng các loại cây xanh bóng mát khu nghỉ cuối tuần.
- Vùng IV: 5 xã diện tích 3028 ha, đất canh tác 1810 ha trồng các loại rau hoa màu, cây công nghiệp cây ăn quả, nuôi bò sữa+ nuôi lợn hướng nạc.
- Vùng V: 7 xã, 1 thị trấn diện tích 3798,5 ha đất canh tác là 2131 ha chuyên trồng lúa + nuôi bò sữa + nuôi lợn giống nạc+ nuôi gà công nghiệp
* Huyện Đông Anh
- Vùng I: 5 xã diện tích 4101 ha đất canh tác 2769 ha chuyên trồng lúa chất lượng cao + nuôi lợn hướng nạc.
- VùngII: 5 xã diện tích 3552 ha đất canh tác 2051 ha. Vùng này sẽ giảm 7-8% diện tích trồng cây lương thực tập trung phát triển các loại rau, hoa có giá trị kinh tế cao dịch vụ + cây công nghiệp.
- Vùng III: 5 xã diện tích là 4917 ha đất canh tác 2602 ha vùng này phát triển lúa + cây công nghiệp ngắn ngày.
- Vùng IV: 8 xã diện tích 4917 ha đất canh tác 2750 ha chuyên trồng lúa, nuôi trâu bò thịt , sữa.
* Huyện Từ Liêm:
- Vùng I: Diện tích 5185 ha đất canh tác 2068 ha vùng này chuyên trồng hoa, cây cảnh, chăn nuôi lợn, sinh vật cảnh.
- Vùng II: Diện tích 2704 ha đất canh tác 1473 ha vùng này sẽ trồng rau cao cấp, cây ăn quả, bò thịt, bò sữa +gia cầm.
Vùng III: Diện tích 2698 ha đất canh tác 1760 ha trồng lúa + nuôi lợn hướng nạc + thuỷ đặc sản.
* Huyện Thanh Trì:
- Vùng I: 4 xã diện tích 1264 ha đất canh tác 621 ha chuyên trồng hoa cây cảnh, rau, chim, cá cảnh...
- Vùng II: 5 xã diện tích 2901 ha đất canh tác 1849 ha trồng rau hoa cá cảnh chế biến lương thực thực phẩm.
- Vùng III: 12 xã diện tích 3952 ha đất canh tác 1948 ha chuyên trồng lúa nuôi cá+ lợn hướng nạc + bò sữa+ vịt, cây lương thực
* Huyện Sóc Sơn:
- Vùng giữa: 5 xã có diện tích 12944 ha đất canh tá 3136 ha vùng này chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày + cây ăn quả.
- Vùng đồi núi: 8 xã diện tích 8970 ha đất canh tác 3981ha phát triển phố vườn cây ăn quả + nuôi trâu bò thịt.
- Vùng ven sông: 13 xã, diện tích 8970 ha đất canh tác 6084 ha phát triển lúa một vụ + nuôi cá + nuôi vịt.
III. Các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội
1. Giải pháp về thị trường.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội luôn gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế của toàn thành phố theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường sản xuất, phát triển, loại sản phẩm nào số lượng bao nhiêu, chất lượng chủng loại như thế nào không chỉ phụ thuộc vào tiềm lực sãn có của tự nhiên, của người sản xuất, của từng địa phương mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiêu thụ sản phẩm của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có thành công hay không, tốc độ tăng hay chậm là do thị trường quyết định, ngược lại một cơ cấu kinh tế có hoàn hảo đến bao nhiêu nhưng không đáp ứng được nhu cầu thị trường thì cơ cấu đó cũng là vô nghĩa. Bởi vậy muốn chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp thì phải căn cứ vào thị trường, lấy thị trường làm nền tảng, do đó cần tập trung vào một số giải pháp sau:
- Tổ chức lại hệ thống thương mại nông thôn, tập trung quy hoạch phát triển các chợ ở những nơi có đầu mối giao thông thuận góp phần lưu thông hàng hoá nông sản, tăng cường hiệu quả các doanh nghiệp quốc doanh. Định giá bán cho các sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là giá thóc, ngô... khi vụ thu hoạch đến.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu nhưng phải hết sức coi trọng thị trường trong nước trong đó thị trường tiêu thụ nông sản rất lớn ở thủ đô. Phát huy lợi thế so sánh của ngoại thành về các sản phẩm hàng hoá chủ lực như lúa đặc sản, thịt gia cầm, thịt bò, cá, sữa, trứng, cây cảnh...
Tìm mọi biện pháp tạo việc làm tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, đa dạng hóa cơ cấu kinh tế nông thôn, thúc đẩy sự tăng trưởng cơ cấu kinh tế ngoại thành để từ đó nâng cao nhu cầu và khả năng thanh toán của nhu cầu nông thôn.
Như vậy giữa đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp phát triển kinh tế thị trường có quan hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy nhau cùng hoàn thiện phát triển.
2. Phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ gắn với sản xuất nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trước hết nhằm thúc đẩy sản xuất nông lâm thuỷ sản chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến, gắn với nhu cầu thị trường, tạo tiền đề cho sự phân công lao động trong nông nghiệp nông thôn. Cần thực hiện các công việc sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển các khu công nghiệp dịch vụ nông thôn. Trong đó hoàn thiện quy hoạch quỹ đất cho công nghiệp và dịch vụ. Quá trình quy hoạch phát triển phải hết sức coi trọng việc gắn với xây dựng các tụ điểm dân cư theo hướng đô thị hoá và hiện đại hoá nông thôn.
- Cần có hoạch định phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp hướng vào phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích mọi người dân tự tạo vốn và tìm vốn để phát triển sản xuất.
- Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản ngoại thành cần được tổ chức theo hướng gắn liên hoàn với vùng và đơn vị, các hộ nông dân trước trong và sau sản xuất. ở khâu này phải hết sức chú trọng phát triển vì sản phẩm của ngành nông nghiệp thường bảo quản không dễ, bị phân huỷ dưới tác động của môi trường tự nhiên vì vậy cần có các cơ sở chế biến tại chỗ để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp. Giữa chế biến và tiêu thu cần tạo hành lang thông suất từ nơi cung cấp nguyên liệu (hộ nông dân) đến thị trường tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Trong đó bằng mọi cách phải làm cho cac nhà máy chế biến là nơi tiêu thụ sản phẩm và tin cậy của người nông dân. Cơ khí hoá, tưới tiêu, vận chuyển, xay xát chế biến, công nghệ sau thu hoạch, sản xuất phân bón vi sinh, sản xuất nông cụ cầm tay và cơ khí sửa chữa kiên cố hoá kênh mương. Phải có cơ chế khuyến khích hộ nông dân mua sắm máy móc, xây dựng nhà xưởng, mở mang làng nghề....
3. Giải pháp về vốn.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có thành công hay không, nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất lớn vào đầu tư nông nghiệp. Đây là một trong những yếu tố quyết định của sự thành công trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Đối với thành phố Hà Nội hiện nay chính sách về vốn nông nghiệp cần đặt lên hàng đầu bằng một số biện pháp sau:
- Nâng tỷ lệ vốn đầu tư cơ bản cho ngoại thành (trong đó có nông nghiệp từ 4-5% như hiện nay tăng lên 7,5-8,5% hoặc cao hơn nữa so với vốn đầu tư cơ bản toàn thành phố trong thời gian tới, trong đó cần dành thoả đáng cho xây dựng kết cấu hạ tần phục vụ cho nông nghiệp nông thôn.
- Đổi mới chính sách và cơ chế đầu tư, hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước ngân sách thành phố để tập trung vào các công trình trọng điểm, các vùng trọng điểm.
- Cần phân cấp cụ thể trách nhiệm của các cấp ngân sách trong đầu tư vốn kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp nông thôn, chẳng hạn như ngân sách đầu tư cho công trình thuỷ lợi, đầu mối tuyến đường liên huyện và hỗ trợ một phần vốn cải tạo nâng cấp các trục giao thông liên xã, liên thôn, xây dựng các trạm bơm thứ cấp kênh mương II....Số còn lại do ngân sách huyện, xã đầu tư kết hợp với vốn góp của dân.
Cần tăng cường quản lý vồn ngân sách, khai thác nguồn thu có hiệu quả, đồng thời có quy định tỷ lệ trong ngân sách mỗi cấp cho xây dựng cơ sở hạ tầng ngoại thành Hà Nội.
Hợp pháp hoá việc huy động của nhân dân, các cơ quan và các doanh nghiệp trên địa bàn, đồng thời phải ra sức phát huy vai trò của các trung gian tài chính. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng người nghèo của thành phố, của huyện trong việc cung cấp vốn cho người nông dân. Ngoài ra, thuế, chính sách thuế cũng có tác dụng kích thích hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và tăng nguồn ngân sách để tái đầu tư.
Đối với chính sách tín dụng đặc biệt là đối tượng cho vay, lãi suất vay. Đối tượng chính trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là hộ nông dân, mà để làm được điều đó bản thân người nông dân thường không có hoặc thiếu vốn, bởi vậy đại bộ phận nông dân ngoại thành có thu nhập chưa cao. Tính bình quân chỉ khoảng 270.000 đồng/1 tháng/năm2000 trong khi đó hơn 90% thu nhập là dùng để chi tiêu phục vụ cuộc sống hàng ngày, do đó hầu như là không có tích luỹ để đầu tư và tái sản xuất mở rộng. Vì vậy thành phố cần có chính sách về lãi suất ưu đãi cho hộ nông dân vay, trong đó phải chú ý đến việc vay vốn dài hạn của hộ nông dân. Củng cố và phát triển thị trường vốn ngắn hạn ở nông thôn ngoại thành, thông qua việc mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng xuống các xã, thực hiện chương trình mở tài khoản cá nhân, huy động tiền gửi tiết kiệm, mở rộng dịch vụ thanh toán đến từng người nhằm xây dựng mới quan hệ giữa các ngân hàng, các tổ chức với hộ nông dân đặc biệt với những hộ nông dân nghèo.
Từng bước thành lập thị trường vốn dài hạn ở nông thôn ngoại thành bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu dài hạn để các chủ trang trại hoặc các hộ gia đình có quy mô sản xuất lớn hơn huy động được vốn đầu tư.
4. áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ thuật mới vào lĩnh vực nông nghiệp ngoại thành.
Trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật đang bùng nổ như hiện nay, việc áp dụng những thành tựu đó vào trong sản xuất và đời sống kinh tế xã hội là một tất yếu. Sự xuất hiện các thành tựu khoa học kỹ thuật vào công nghệ mới có tác dụng trực tiếp đến quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động cho phép tạo sự phân công lao động mới. Đây là một yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Cách mạng sinh học và việc ứng dụng vào nông nghiệp đã tạo nhiều giống cây, con mới có năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu cao của con người. Hiện nay ở ngoại thành người nông dân đã áp dụng thành công một số giống cây con mới bước đầu đạt kết quả tốt như luá cao sản, bò sữa cao sản, lợn hướng nạc, gà , vịt siêu trứng, rau sạch... Trong thời gian tới cần có các biện pháp đưa ra phát triển đại trà các giống cây, con này, góp phần làm giàu cho người nông dân ngoại thành.
Hiện nay các sản phẩm nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước giá bán thường thấp, nguyên nhân chủ yếu là chất lượng chưa cao, chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế. Vì vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm thì thành phố cũng như Trung ương cần đầu tư phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp ngoại thành giúp hộ nông dân tiêu thụ sản phẩm .
Để đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, cần phải hướng các cơ quan nghiên cứu vào lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn ngoại thành. Cần có các chính sách khoa học trong lĩnh vực này để họ có thể yên tâm vào nghiên cứu các giống cây, con mới.
Đồng thời phải kêt hợp các thành phần khoa học công nghệ với những kinh nghiệm quý báu của nông dân ngoại thành sao cho thích hợp nhất đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Hình thành các tổ chức khuyến nông ở các huyện, các xã để tuyên truyền những thành tựu khoa học mới cho người nông dân, đồng thời hướng dẫn họ các quy trình công nghệ trong trồng trọt chăn nuôi. Đây cũng là một trong những biện pháp rất quan trọng thúc đẩy người nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi.
Trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp ngoại thành Hà Nội phải hết sức chú ý: Đó là việc ứng dụng có chọn lọc, tránh việc đưa những thành tựu đó vào sản xuất bừa bãi, vô tổ chức ảnh hưởng không tốt tới môi trường, đất đai, chất lượng sản phẩm...
5. Hoàn thiện chính sách ruộng đất.
Hiện nay tốc độ đô thị hoá ở ngoại thành Hà Nội cũng như toàn thành phố diễn ra với tốc độ rất nhanh, thành phố cần phải có chính sách sử dụng đất để quá trình đô thị hoá nông thôn không thu hẹp quá nhiều đất nông nghiệp vì vậy có thể nói là vành đai lương thực thực phẩm vững chăc của thủ đô Hà Nội.
Đến năm 2005 diện tích đất nông nghiệp giảm: Còn lại 38370 ha đến năm 2010, diện tích nông nghiệp còn lại 27000 ha.
- Việc chuyển đất nông nghiệp và mục đích khác sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của hộ nông dân vì quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ở ngoại thành hiện nay còn chậm. Cho nên cùng với dự kiến của thành phố về mục đích sử dụng đất các thẩm quyền cần phân bố lại cho nhưỡng hộ nông dân hiện nay có hộ nằm trong khu vực quy hoạch của thành phố.
- Giải quyết nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân, tạo cho hộ nông dân thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, ngăn ngừa việc tranh chấp đất đai xẩy ra, đồng thời đẩy mạnh tốc độ giao đất.
- Thành phố sớm ban hành các văn bản dưới luật liên quan đến quyền sử dụng ruộng đất, quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền thế chấp và cho thuê. Góp phần tăng cường sự vận động của ruộng đất, sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tích cực tìm mọi biện pháp giúp hộ nông dân đầu tư khai thác những diện tích đất hiện nay không phù hợp với sản xuất nông nghiệp những gò đồi hoang tạp, vùng trũng có độ PH cao.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho người đã được giao quyền sử dụng đất như lại không sống bằng nghề nông nghiệp mà bằng cách khác có thu nhập cao hơn để cho chuyển nhượng, cho người nông dân khác thuê.
- Phải có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc sử dụng 5% quỹ công .
- Tạo điều kiện tích tụ và tập trung ruộng đất, xoá bỏ thực trạng ruộng đất manh mún, rải rác như hiện nay.
Đối với từng vùng đất loại đất cụ thể thì phải có cách hướng dẫn bà con trồng các loại cây cho phù hợp:
Vùng đất phù xa Glây sông Hồng vùng này nên trồng lúa mầu lúa xuân, cây vụ đông (đậu tương, đay, lạc,...) lúa mùa, cây vụ đông, khoai tây, rau các loại.
Vùng đất bạc mầu Glây trồng lạc, trồng đậu tương, đậu xanh, rau đông, cà chua, bắp cải, khoai tây, lúa xuân ....
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu về ruộng đất tuy nhiên trong quá trình thực hiện thành phố cần lưu ý vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái chung của toàn vùng, cần sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
6. Đổi mới quản lý, phát triển mạnh mẽ nhiều thành phần kinh tế ngoại thành Hà Nội.
- Tiếp tục đổi mới hợp tác xã phát huy vai trò tự chủ kinh tế của hộ xã viên. Hợp tác xã phải hướng theo việc đảm nhận các khâu phục vụ phát triển phát triển, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp mà các hộ xã viên không làm được.
- Thực hiện nghiêm túc luật đất đai để các hộ nông dân yên tâm phát triển sản xuất, yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. ở những nơi có diện tích đất gò đồi nhu Sóc Sơn cần khuyến khích hình thành các trang trại nhỏ với cơ cấu hợp lý, vừa kết hợp trồng rừng, vườn cây ăn quả, cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi đại gia súc.
- Đối với những hợp tác xã đã đổi mới theo chỉ thị 33 của UBND thành phố đang sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cần phải tiếp tục hướng dẫn, đầu tư để tăng cường vai trò làm dịch vụ đầu vào, đầu ra hoặc các khâu thuỷ lợi, cung ứng giống, phòng trừ bệnh,chế và tiêu thụ sản phẩm . ở các khâu lập sổ thuế nông nghiệp nhất thiết phải lập đến từng hộ. Cần chú ý tập trung đổi mới 43,2% hợp tác xã hiện nay đang hoạt động ở mức trung bình và đặc biệt là 36,7% hợp tác xã hiện nay đang còn hoạt động kém hiệu quả.
- Kiên trì khuyến khích nguyên tắc đa dạng hoá tổ chức sản xuất. Từng hộ xã viên có thể tham gia thêm các hoạt động hợp tác khác theo từng công đoạn, theo từng khâu sản xuất dưới sự quản lý mềm dẻo của chính quyền xã.
- Phát triển mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất ở các ngành nghề như các tổ chức liên kết sản xuất theo hình thức tự nguyện và cơ chế quản lý của Nhà nước. Chú trọng phát triển các tổ chức sản xuất ở các như chăn nuôi bò sữa, nuôi hươu, nuôi gà công nghiệp, chế biến nông sản thực phẩm, khai thác đất trồng đồi núi trọc, khai thác mặt nước lớn.
Khuyến khích các hộ có vốn kể cả nội thành, đầu tư thuê đất, mở mang ngành nghề ở nông thôn ngoại thành, khuyến khích các tổ chức khuyến nông tự nguyện. Củng cố 103 hợp tác xã tín dụng hiện có, tổ chức thêm các hợp tác xã tín dụng nông thôn cùng với mạng lưới ngân hàng nông nghiệp Nhà nước tạo thành hệ thống tổ chức cho vay thuận tiện, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi.
- Đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước cùng với các doanh nghiệp TƯ đóng trên địa bàn Hà Nội, các xí nghiệp địa phương cấp thành phố và cấp huyện trước hết là sắp xếp lại một số xí nghiệp theo chuyên ngành có đủ sức tác động nhiều mặt cho sản xuất nông nghiệp.
Hình thành hai hệ thống quốc doanh sau đây:
+ Hệ thống quốc doanh dịch vụ sản xuất gắn với mạng lưới bán lẻ ở nông thôn, cung ứng vật tư kỹ thuật kịp thời và thuận tiện, phát triển dịch vụ thương nghiệp góp phần lưu thông nông sản ở ngoại thành.
+ Hệ thống quốc doanh sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu. Cần phối hợp chặt chẽ với quốc doanh của các ngành đóng trên địa bàn thủ đô, quy hoạch mạng lưới sản xuất và sơ chế nguyên liệu ở từng xã hoặc từng hộ gia đình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các đơn vị quốc doanh hiện có hoặc đã xây dựng tại Hà Nội các nhà máy chế biến như bánh kẹo, rượu, chế biến mắm, chè, thuốc lá., rau quả nước giải khát, sữa....
7. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp .
Thành phố cần có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp như: điện, nước, giao thông, thông tin và các công trình khác nhu trường học trạm y tế. Đây là cơ sở kỹ thuật nền cho sự phát triển nông nghiệp và phục vụ đời sống nhân dân, trong đó hệ thống giao thông cần được mở rộng, cải tiến trước một bước, nó đóng vai trò huyết mạch giao lưu kinh tế giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, đưa các vùng sản xuất nông nghiệp hoà mình vào giữa nông thôn và thành thị và hoà chung vào nền kinh tế, đồng thời giao lưu với các tỉnh lâm cận góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản .
Cần khai thác triệt để các công trình thuỷ lợi ở các huyện nhu Sóc Sơn, Gia Lâm... để đảm việc tưới tiêu hàng ngày tốt. Hiện đại hoá các trạm bơm (bơm tưới, bơm tiêu), nạo vét hệ thống kênh mương hiện nay, bê tông hoá hệ thống kênh mương nội đồng để tránh thấp thoát nước.
Phát triển hệ thống thông tin liên lạc trong nông thôn để giúp người dân nắm bắt được những thông tin cần thiết phục vụ sản xuất, thông tin về các yếu tố đầu vào, thông tin về công nghệ...
8. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
Con người là chủ thể của mọi hoạt động vì vậy thành phố cần đa dạng hoá các loại hình đào tạo cán bộ nông nghiệp ở các địa phương để đáp ứng được quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Thành phố cần coi trọng việc đầu tư cho đào tạo cán bộ là mang tính chất trọng điểm, để từ đó làm sức bật cho chiến lược giáo dục, đào tạo một cách toàn diện, đều khắp lao động trong nông nghiệp ngoại thành Hà Nội .
Đối với những cán bộ chủ chốt cần đào tạo cán bộ vững chắc về ngành, vững vàng về chính trị, am hiểu về pháp luật, giỏi về chuyên môn, năng động trong công việc. Động thời với quá trình này phải rà soát lại những cán bộ bị thoái hoá, biến chất tham nhũng, cửa quyền, ỷ lại... để từng bước làm sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo của ngành tạo lòng tin cho nhân dân đầu tư.
9. Tăng cường trang bị máy móc, thiết bị để nâng cao trình độ cơ giới hoá.
Thành phố cần có chính sách vốn để trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá. Xây dựng các cơ sở chế biến trang bị máy móc mới, máy cày kéo bảo quản chất lượng nông sản, nhằm nâng cao trình độ cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn ở ngoại thành Hà Nội.
Kết luận và kiến nghị
Hà Nội là thủ đô của nước, là trung tâm kinh tế văn hoá chính trị khoa học kỹ thuật lớn, cùng với quá trình phát triển Hà Nội đang phấn đấu là một thành phố văn minh hiện đại.
Nông nghiệp Hà Nội mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế nhưng vẫn là ngành có vị trí quan trọng, cung cấp khối lượng nông sản hàng hoá đáng kể cho nhu cầu thực phẩm của nội thành, giữ vững ổn định chính trị xã hội ở nông thôn ngoại thành giữ cân bằng sinh thái trong quá trình đô thị hoá.
Nông thôn ngoại thành là nơi đất chật người đông hơn bất kỳ vùng nông thôn nào khác ở đồng bằng sông Hồng, mặt khác lại đang bị sức ép của quá trình đô thị hoá và ngày càng nhanh làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Đòi hỏi bức bách trong chuyển dịch sản xuất nông nghiệp là phải tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, hướng trước mắt là đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi và đẩy mạnh thâm canh, đặc biệt là những giống cây trồng, vật nuôi được thu hút tham gia vào hoạt động của ngành công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ...
Muốn quá trình phân công lại lao động nông nghiệp diễn ra một cách mạnh mẽ, cần giải phóng họ khỏi sự ràng buộc với đất đai, mà chiếc chìa khoá của việc giải phóng họ khỏi sự ràng buộc là việc hoàn thành nhanh việc giao đất cho hộ nông dân lâu dài.
Đây là việc làm cực kỳ khó khăn đối với nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nên không thể trì hoãn được.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra ngay trên từng cánh đồng, từng làng xã và ngay trong cả các hộ. Có như vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu mới có thể bắt đầu từ trong nội bộ ngành nông nghiệp. Hiện nay số hộ thuần nông ở ngoại thành còn chiếm khoảng 45 % trong tổng số hộ. Khuynh hướng chung là tỷ lệ hộ thuần nông giảm, tăng hộ kiêm sản xuất. Điểm xuất phát của quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở các vùng, tiểu vùng ngoại thành là không đồng đều về trình độ. Việc giảm bớt những chênh lệch đó cũng là một nhiệm vụ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội phải theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, gắn với quá trình phát triển các ngành khác như công nghiệp, thương mại, dịch vụ... để tạo nền tảng phát triển toàn diện kinh tế xã hội ngoại thành.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành phải đặc biệt coi trọng việc bảo vệ môi trường, nhanh chóng xây dựng nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái bền vững.
Để đảm bảo thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội diễn ra có hiệu quả và đạt đúng tiến độ. Nhà nước, Trung ương và thành phố Hà Nội cần quan tâm đến một số kiến nghị sau:
- Chỉ đạo việc khẩn trương giao đất ổn định lâu dài cho nông dân, tạo cơ chế thúc đẩy đến sự tích tụ ruộng đất.
- Dành một khoản ngân sách thích đáng đầu tư vào các khâu trọng điểm, tăng cường nguồn vốn vay ưu đãi cho hộ nông dân.
- Ban hành một số chính sách kinh tế để tạo đòn bẩy trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
- UBND thành phố Hà Nội cần sớm thực hiện một số vấn đề sau:
+ Công bố quy hoạch cụ thể và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho xây dựng cơ bản trên toàn địa bàn.
+ Hướng dẫn thực hiện chỉ thị 247/ TTg ngày 4-5-1995 của Thủ tướng Chính phủ về khắc phục giảm diện tích gieo trồng lúa nước. Ngoài tinh thần chung của chỉ thị, đối với những nơi khô hạn kém hiệu quả cần cho phép chuyển sang trồng các loại cây khác.
+ Chỉ đạo việc nghiên cứu, đề xuất và ban hành chính sách đầu tư trong và ngoài nước đối với nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Tài Liệu Tham Khảo
Giáo trình " kinh tế nông nghiệp " - khoa Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1996.
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp - Khoa Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1996.
Báo cáo của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội và kết quả thực hiện trương trình 06 của Thành Uỷ Hà Nội .
Những định hướng phát triển nông nghiệp tới năm 2010 ( Sở Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn Hà Nội )
Niên giám thống kê thành phố Hà Nội 1996- 2000.
Các đề án chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn ngoại thành Hà Nội .
Tạp trí kinh tế và dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu Tư -/1996- 2000.
PGS.TS. Lê Đình Thắng - Pts. Phạm Văn Khôi "Đổi mới và hoàn thiện chính sách nông nghiệp nông thôn - Nhà xuất bản Nông gnhiệp Hà Nội 1995.
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp .
Đề tài nghiên cứu khoa học " Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá đến nông nghiệp nông thôn vùng ngoại thành Hà Nội.
Báo cáo quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2010.
Nghiên cứu động thái chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở ngoại thành Hà Nội giai đoạn 1996-2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33930.doc