Lời nói đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990 cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%, công nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP". Mà Đại hội VIII đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực.
Với lý do đó, em chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt Nam". Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền và sự giúp đỡ của các giảng viên trong Khoa khoa học quản lý. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến Khoa khoa học quản lý, đặc biệt là T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài này.
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô trong Khoa để bài viết sau được hoàn chỉnh hơn.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành trong nền kinh tế
1.1 Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1.1 Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ biểu hiện mối liên hệ giáa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta phân tích theo 3 nhóm ngành chính: nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng), dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại như: thương mại, bưu điện, du lịch...).
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những biểu hiện về mặt lượng (số lượng ngành, tỷ trọng) mà quan trọng hơn là phân tích được mặt chất của cơ cấu: vị trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh tế, sự tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả năng hướng ngoại, quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần kinh tế...
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát triển", nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường. Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ tính quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành cho thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
1.1.1.2 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác hợp lý và hiệu quả hơn. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, tỷ trọng và quan hệ giữa các ngành mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là tỷ trọng và vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng nhanh còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy muốn chuyển từ một nền nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch vụ từ 10-30%) sang nền kinh tế công, nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15-25%, công nghiệp 25-35%, dịch vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển (tỷ trọng ngành nông nghiệp dưới 10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ 50-60%).
1.1.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế.
- Sự phát triển các loại thị trường trong nước và thị trường quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều xuất phát từ quan hệ cung - cầu trên thị trường để định hướng chiến lược kinh doanh của minh. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện của thị trường, dẫn tới từng bước thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước (thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...) có tác động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền váng và có hiệu quả. Việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong và ngoài nước có khả năng khai thác) để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà quốc gia có lợi thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp...
Dân số lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế, sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt sau:
+ Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất các ngành kinh tế quốc dân.
+ Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của nháng quan điểm, ý tưởng và hành vi của Nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Vai trò đó được thể thiện:
+ Nhà nước xây dựng và Quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước. Đó thực chất là quá trình định hướng phân bố nguồn lực và hướng đầu tư theo ngành.
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác định. Ví dụ: để khuyến khích công nghiệp ô tô phát triển, trong những năm 1970 nhiều tổ hợp công nghiệp của Hàn Quốc được khuyến khích phát triển chế tạo ô tô và xuất khẩu ô tô. Các tổ hợp này được hưởng chế độ miễn thuế đặc biệt và trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ thì Nhà nước sẽ bù lỗ.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Trên đây, chúng ta vừa xem xét một số khái niệm cơ bản cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đó, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề để từ đó có thể rút ra những kết luận mang tính giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình phát triển.
1.1.2 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý giúp cho việc thu được mức tăng sản xuất xã hội lớn nhất, mới có thể phân bố hợp lý lực lượng sản xuất, phát triển các mối quan hệ đối ngoại, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Để làm sáng tỏ kết luận trên, ta có thể phân tích ví dụ sau đây về cơ cấu ngành sản xuất của hệ thống kinh tế - xã hội cho năm 1976 ở Việt Nam.
Bảng 1: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 1976
ĐV: Triệu
Ngành sản xuất
Giá trị tổng sản lượng
Tiêu dùng sản xuất
Sản lượng cuối cùng
I
II
III
Công nghiệp (I)
Nông nghiệp (II)
Các ngành sản xuất khác (III)
X1 = 9180
X2 = 7940
X3 = 6310
3850
900
12000
1100
1160
350
1170
250
1160
3060
5630
3600
Chi phí lao động
Lợi nhuận
Giá trị tổng sản lượng
1940
1290
9180
3550
1780
7940
2200
1530
6310
Năm
1976
Theo tỷ lệ % ta có:
Bảng 2:
I
II
III
Cộng
Giá trị tổng sản lượng
39.18
33.89
26,93
100
Chi phí lao động
25.22
56.16
28,62
100
Tổng số vốn đầu tư (trong và ngoài nước) có thể huy động cho năm sau là 1878 triệu đồng và có thể phân bố cho các ngành với mức tiếp nhận cùng hiệu quả thu được như sau:
Bảng 3:
Công nghiệp
Nông nghiệp
Các ngành khác
Mức % tiếp nhận
Hiệu quả (Mức tăng sản lượng/1 triệu đồng vốn đầu tư)
25 %- 38%
20%
25 – 35%
25%
30 – 42%
22%
Vượt quá mức, hiệu quả là
15%
22%
20%
Ta xét 2 phương án phân bố vốn đầu tư như sau:
Bảng 4:
Vốn đầu tư
Công nghiệp
Nông nghiệp
Các ngành khác
1878
35%(657,3)
25%(469,5)
40%(751,2)
Hiệu quả
131,46
117,38
165,26
Giá trị tổng sản lượng
9311,46
8057,38
6475,26
Bảng 5
Vốn đầu tư
Công nghiệp
Nông nghiệp
Các ngành khác
1878
40% (751,2)
20% (375,6)
40% (751,2)
Hiệu quả
112,68
82,63
150,24
Giá trị tổng sản lượng
9292,68
8022,63
6460,24
Với 2 phương án phân bổ vốn đầu tư trên, ta thu được hai phương án kế hoạch của năm 1977 như sau: (Bảng 6 và bảng 7 có hiệu quả khác nhau với cơ cấu khác nhau - với ký hiệu: Xi (i = I, II, II) là giá trị tổng sản phẩm của ngành i; CPLĐ: Chi phí lao động; LN : lợi nhuận; GTTSL : giá trị tổng sản lượng.
Bảng 6: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án I)
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản xuất
Giá trị tổng sản lượng
Tiêu dùng sản xuất
Sản lượng cuối cùng
I
II
III
X1
X2
X3
9311
8057,38
6475,26
3905
913
12172
1116,76
1177,15
355,17
1200,64
259
1191,45
CPLĐ
LN
GTTSL
1967,8
1308,48
9311,46
3602,48
1806,32
8057,38
2259,87
1564,3
6475,26
Năm 1977
Phương
án 1
Bảng 7: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án II)
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản xuất
Giá trị tổng sản lượng
Tiêu dùng sản xuất
Sản lượng cuối cùng
I
II
III
X1
X2
X3
9292,6
8022,63
-
3897,3
910,70
1214,6
1111,13
1172,11
1214,6
1195,14
258,41
1188,68
CPLĐ
LN
GTTSL
1963,58
1306,54
9292,68
3586,12
1797,07
8022,63
2254,62
1563,39
6460,24
Năm 1977
Phương
án 2
Như vậy, với cùng một mức vốn đầu tư như nhau (2878 triệu) nếu đầu tư theo tỷ lệ khác nhau vào các ngành khác nhau, sẽ dẫn tới kết cấu chi phí lao động khác nhau và hiệu quả thu được mức tăng sản phẩm xã hội khác nhau (Bảng 6,7,8)
Phương án I
Phương án II
I
II
III
I
II
III
Kết cấu vốn
35%
25%
40%
40%
20%
40%
Kết cấu lao động
25,13%
46%
28,87%
25,16%
45,95%
28,89%
Mức tăng TSL
+ 414,1 triệu đồng
+ 345,28 triệu đồng
Ta thấy phương án I hơn hẳn phương án II mặc dù số vốn đầu tư như nhau.
Chính vì vai trò cơ cấu kinh tế trong việc phát triển, cho nên có nhiều tác giả đã nói rằng: thực chất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến lược không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
1.1.3 Lý luận về mối liên hệ giũa chuyển dịch cơ cấu và quá trình phát triển nền kinh tế.
Quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được xem xét như là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù có nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm thước đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu hướng mang tính quy luật là cùng với sự phát triển của kinh tế là một quá trình thay đổi về cơ cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tương đối về mức đóng góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên toàn bộ kinh tế. Một trong những cơ cấu kinh tế được quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành. Ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engle đã phát hiện ra mối quan hệ giữa phát triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật E.Engle được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong quá trình phát triển.
1.2 Cơ cấu ngành kinh tế trong các lý thuyết phát triển.
Với tư cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những vấn đề cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với những đặc điểm đặc thù khác nhau. Do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá của các loại lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy điều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau:
1.2.1. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế.
Năm 1960 cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" của nhà kinh tế học Mỹ Walt-Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước. Theo W.Rostow, nhìn chung quá trình phát triển kinh tế của một nước có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao.
* Xã hội truyền thống: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là sản xuất nông nghiệp giá vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt: sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển.
Tuy vậy xã hội truyền thống không hoàn toàn là tĩnh tại, mức sản lượng có thể là vẫn tăng liên tục, do diện tích canh tác được mở rộng, hoặc do áp dụng những cải tiến trong sản xuất như: xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, áp dụng giống cây trồng mới. Song nhìn chung nền kinh tế không có những biến đổi mạnh. Đặc trưng cơ cấu ngành kinh tế là: nông - công nghiệp và công nghiệp còn rất nhỏ bé, chậm phát triển.
* Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đây được coi là thời kỳ quá độ giáa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những biểu hiện về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp với những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất hiện nháng khu vực "đầu tầu" có tác động lôi kéo nền kinh tế. Bắt đầu phát triển các ngành công nghiệp đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động như các ngành dệt, may, đồ da, chế biến nông sản và các hàng tiêu dùng khác... vốn đầu tư ít. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp để phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Tuy vậy, tính cả các hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế với những đặc trưng của phương thức sản xuất truyền thống, năng suất thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt động kinh tế hiện đại đang phát triển.
* Giai đoạn cất cánh: Đây là giai đoạn mà lực cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lượng tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong xã hội. Trong giai đoạn này khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp giá vai trò “đầu tầu”, có tốc độ tăng trưởng cao, đem lại lợi nhuận lớn. Ngoài ra, ở giai đoạn này hầu hết các nước đã phát huy các ngành công nghiệp mũi nhọn để chiếm lĩnh đỉnh cao về khoa học - công nghệ của lĩnh vực này và tiến hành chuyển giao cho các nước đi sau. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này đã phát triển đến một trình độ cao hơn. Ví dụ, nước Anh tiến hành công nghiệp hoá từ cuối thế kỳ XVII với sự khởi sắc của ngành công nghiệp dệt và đến nay vẫn là ngành có ưu thế. Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Thuỵ Điển là những nước tiến hành công nghiệp hoá ở vào thời kỳ những năm 40-50 của thế kỷ XIX và chiếm giữ thế mạnh là ngành cơ khí chế tạo. ở trên ta mới xét đến đặc điểm về cơ cấu ngành, ngoài ra ở giai đoạn này còn một số đặc điểm về mặt kinh tế - xã hội như: tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5 đến 10% và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài vốn đầu tư huy động trong nước, vốn đầu tư huy động từ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
* Giai đoạn trưởng thành: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là : Tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10 đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học - kỹ thuật được ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hoá, đạt được năng suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hoà dòng vào thị trường quốc tế.
* Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Trong giai đoạn này có 2 xu hướng cơ bản về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh tới mức phần lớn dân cư có nhu cầu tiêu dùng vượt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở. Thứ hai là cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Về mặt xã hội các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu bền và các dịch vụ xã hội của nhóm dân cư. Xét về cơ cấu ngành thì tỷ trọng của ngành dịch vụ đang có xu hướng tăng lên, vượt qua tỷ trọng của ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của W.Rostow thì hầu hết các nước đang phát triển đang tiến hành công nghiệp hoá hiện nay nằm ở khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ phát triển của từng nước. Ngoài những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời cùng với sự chuyển tiếp từ giai 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò “đầu tầu”. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết nhị nguyên:
A.Lewis là nhà kinh tế gốc Jamaica, năm 1955 trong tác phẩm "Lý thuyết về phát triển kinh tế" ông đưa ra cách giải thích hiện đại về mối quan hệ giáa hai khu vực: Công nghiệp và nông nghiệp. Lewis đã được giải thưởng Nôbel về kinh tế năm 1979. Ông xuất phát từ tư tưởng của Ricardo, lưu ý đến mối quan hệ giáa công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn. Ông đưa ra khả năng mở rộng khu vực công nghiệp bằng cách sử dụng nguồn lao động nông thôn không hạn chế. Mô hình này đã được hai nhà kinh tế học là John Fei và Gustar Rairis áp dụng vào phân tích quá trình tăng trưởng ở các nước đang phát triển.
Lý thuyết nhị nghuyên cho rằng ở các nền kinh tế có 2 khu vực kinh tế song song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế hiện đại (công nghiệp ) du nhập từ bên ngoài. Khu vực truyền thống có đặc điểm là trí trệ năng suất lao động thấp và dư thừa lao động. Ngoài ra, trong sản xuất nông nghiệp có hiện tượng lợi nhuận giảm dần. Theo ông, với các mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục nhỏ hơn ở đầu ra. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hưởng gì tới sản lượng nông nghiệp. Do có năng suất cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một các độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đương nhiên rút ra từ nháng nhận định này là để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của những nước chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công nghệ hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm tới khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển. Như vậy, theo lý thuyết nhị nguyên, trong quá trình phát triển các nước chỉ nên chú trọng vào phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp sẽ chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế.
Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây ra được ấn tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết này.
Lý thuyết nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế (J.Fei, G.Rainis, Harris, Todaro...) tiếp tục nghiên cứu và phân tích luận điểm xuất phát của họ là khả năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại, khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật trong đó có nháng loại kỹ thuật có hệ số sử dụng lao động cao, nên về nguyên tắc có thể thu hút được lao động từ khu vực nông nghiệp truyền thống. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ 2 khu vực kinh tế trên quyết định. Có nghĩa là, khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút được lao động từ khu vực nông nghiệp trong trường hợp khi nó có mức lương cao hơn so với khu vực nông nghiệp (người lao động sẽ được mức lương cao hơn mức thu nhập khi họ còn ở nông thôn). Nhưng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn dần cho tới khi nguồn lao động dư thừa từ nông nghiệp không còn náa. Đến lúc đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hàng nông phẩm tiêu dùng tăng lên kéo theo mức tăng lương tương ứng trong khu vực sản xuất công nghiệp. Chính sự tăng lương của khu vực công nghiệp sẽ đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm về lao động của bản thân nó. Như vậy, mặc dù về mặt kỹ thuật, công nghệ, khu vực công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thuế mướn không hạn chế nhân lực, nhưng về mặt thu nhập và độ co dãn cung cầu nhân lực của 2 khu vực thì sức thu nạp lao động từ nông nghiệp của công nghiệp là có giới hạn.
Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp thành thị. Quá trình chuyển dịch lao động chỉ trôi chảy khi "tổng cung" về lao động từ nông nghiệp phù hợp với "tổng cầu" ở khu vực công nghệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào mức chênh lệch về thu nhập mà còn phụ thuộc vào "xác suất" tìm được việc làm đối với những người lao động nông nghiệp. Khi đưa thêm yếu tố "xác suất tìm được việc làm" vào phân tích, người ta thấy xuất hiện những tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giáa 2 khu vực như sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: Về mặt này, so với nền công nghiệp ở các nước phát triển thì khu vực được gọi là "công nghiệp hiện đại" ở các nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có thể tăng cường khả năng cạnh tranh với các nền công nghiệp nước ngoài, vừa làm "đầu tầu" lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp hướng tới những ngành kỹ thuật cao. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là cần tăng hàm lượng lao động vì thế, khu vực "công nghiệp hiện đại" ở các nước chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì ở khu vực nông nghiệp.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là người lao động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị và thậm chí chưa quên với môi trường lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động công nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn phải có đầu tư lớn, đến mức người ta xem như một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất đối với 1 nền kinh tế. Với những phân tích trên, người ta thấy rằng xác suất tìm được việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với người nông dân dời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 2 lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phát triển.
1.2.3. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành.
Những người ủng hộ quan điểm này như R.Murkse, P.Rosentein -Rodan... cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều ở tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với nhau trong chu trình "đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia. Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung, cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giáa các ngành như vậy còn giúp tránh được ảnh hưởng tiêu cực của nháng biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là nền tảng váng chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thế giới thứ ba chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, trong sự phát triển luôn có cạnh tranh giữa các nước về các sản phẩm, hàng hoá. Do đó, để phát triển được các ngành kinh tế nội địa, Nhà nước cần có nháng chính sách bảo hộ, cụ thể là:
+ Chính sách bảo hộ mậu dịch: Nhà nước thực hiện hàng rào thuế quan cao và chế độ hạn ngạch nhâp khẩu nhằm hạn chế các loại hàng nhập khẩu và nâng sức cạnh tranh về giá của các mặt hàng nội địa.
+ Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng hoá nội địa, các Chính phủ thường duy trì chế độ tỷ giá hối đoái theo hướng nâng cao trị giá đồng tiền bản điạ nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh của hàng ngoại trên thị trường nội địa.
Như vậy, theo lý thuyết này, để phát triển cần xây dựng một nền kinh tế đa ngành và hạn chế giao lưu, trao đổi với bên ngoài, hay nói cách khác đó là nền kinh tế "tự cung, tự cấp". Với những chính sách trên, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo mô hình này đã đạt được mức tăng trưởng tương đối cao trong giai đoạn đầu. Mặc dù về thực chất, sự tăng trưởng này chủ yếu bắt nguồn từ điểm xuất phát thấp, khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lượng tuyệt đối cũng đẩy chỉ số tương đối lên rất cao, song nó cũng tạo ra sự thay đổi về cơ cấu kinh tế nhất định, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia vốn trước đây là xứ thuộc địa. Đáng tiếc rằng, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu hơn. Các nước khác nhau tuỳ vào những điều kiện cụ thể của mình mà lần lượt rời bỏ mô hình trước những giới hạn không sao vượt qua được. Các nhà kinh tế học đã tổng kết các lý do cơ bản của tình hình này là:
+ Mô hình này tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả (hay ít nhất cũng là hầu hết) các ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu này không thể đáp ứng được bởi các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về vốn đầu tư, khả năng công nghệ kỹ thuật và quản lý.
+ Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu vực hoá và toàn cầu hoá. Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ thống đã chỉ ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia do động lực bên trong quốc gia đó là chính , tuy nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ môi trường bên ngoài.
Cả hai yếu tố trên đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán các nguồn l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0334.doc