Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Trong một thế giới có những biến đổi sâu sắc như hiện nay thì việc lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lí của mỗi quốc gia không những phải căn cứ vào các yếu tố trong nước, mà còn phải tính đến cả những yếu tố bên ngoài, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay. Xu thế này đòi hỏi mỗi quốc gia phải tìm kiếm và phát huy lợi thế của mình trong quá trình hợp tác và phát triển.
Nắm bắt được xu thế chung ấy, kể từ năm 1986 đến nay dưới sự lãnh đạo
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1895 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH-HĐH ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Đảng cộng sản Việt Nam, cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỉ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong GDP tăng lên nhanh chóng, ngành nông nghiệp có xu hướng giảm; cơ cấu các thành phần kinh tế cũng có sự chuyển dịch hợp lí hơn. Những biến đổi đó đang tạo đà cho sự phát triển nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu, và nhìn chung còn chậm. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, tỉ trọng nông nghiệp trong GDP còn lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020, ”đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinhtế hợp lí ” mà đại hội VIII của Đảng đã đề ra, thì còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và có giải pháp tích cực.
Trong điều kiện không có nhiều thuận lợi và mới chỉ dừng lại ở quá trình tìm hiểu, học hỏi, nghiên cứu ban đầu. Việc nghiên cứu, tìm hiểu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay trước hết nhằm nâng cao sự hiểu biết cho bản thân, sau cùng là phát hiện ra những bài học, giải pháp cho công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay.
Dù đã hết sức cố gắng xong không thể tránh hết được những sai xót. Em rất mong có được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn nhằm làm cho bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I: Luận cứ khoa học và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
I. MộT Số VấN Đề Lí LUậN Về CHUYểN DịCH CƠ CấU KINH Tế NGàNH
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế.
Xuất phát từ khái niệm “cơ cấu”: Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống.
Do đó, đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lí thuyết hệ thống có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp nhất của nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện Kinh tế – Xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác cho rằng: Cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện Kinh tế – Xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề:
Thứ nhất, tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của quốc gia.
Thứ hai, số lượng và tỉ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
Thứ ba, các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố hướng vào các mục tiêu đã xác định.
Cơ cấu kinh tế bao gồm các loại đó là:
- Cơ cấu ngành kinh tế.
- Cơ cấu lãnh thổ: Là cơ cấu được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: Là cơ cấu được hình thành dựa trên chế độ sở hữu.
Ba bộ phận trên của cơ cấu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cơ cấu ngành kinh tế.
1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế, là tổ hợp các ngành hợp thành có tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhìn chung cơ cấu ngành được chia thành ba nhóm chính là:
- Nhóm ngành Nông nghiệp: Bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
- Nhóm ngành Công nghiệp: Bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành Dịch Vụ: Bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch ..
1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi trong từng thời kỳ phát triển, bởi các yếu tố cấu thành nó không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng, về quan hệ tỉ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là: Cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ xung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt biểu hiện của cơ cấu, nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu Kinh tế – Xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
2. Một số vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã được các trường phái lý thuyết kinh tế đề cập đến từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, tiêu biểu là hai trường phái kinh tế lớn đó là: Kinh tế học Mác-xít và kinh tế học Phát Triển.
2.1. Lí luận của kinh tế học Mác – Xít:
Trong kinh tế học Mác – xít vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đề cập đến trong hai học thuyết lớn đó là: Học thuyết về Phân công lao động xã hội và học thuyết về Tái sản xuất Tư bản xã hội.
Trong học thuyết về phân công lao động xã hội, kinh tế học Mác- xít đã chỉ rõ tiền đề cần thiết và vạch rõ khuôn khổ, thể chế quyết định sự thay đổi về chất của cuộc cách mạng công nghiệp – cơ sở vật chất của phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa hiện đại. Đó là:
- Sự tách rời giữa Thành thị và nông thôn.
- Số lượng dân cư và mật độ dân số.
- Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao, đủ để cung cấp sản phẩm “tất yếu” cho cả những người lao động trong nông nghiệp lẫn những người lao động thuộc những ngành sản xuất khác.
- Cuối cùng, điều kiện thể chế có ý nghĩa quyết định cuộc Cách mạng công nghiệp trong chủ nghĩa Tư bản là sản xuất hàng hóa, là kinh tế thị trường.
Vậy việc thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng không thể có kết quả nếu không tính tới độ chín muồi của những tiền đề này. Nó cũng cho thấy trong điều kiện cụ thể của mỗi nền kinh tế, độ chín muồi của từng loại tiền đề này có thể không giống nhau và con đường để hoàn thiện hay thay thế từng loại tiền đề nói trên sẽ không giống nhau.
Học thuyết về tái sản xuất Tư bản xã hội đã phân tích mối quan hệ giữa các ngành sản xuất trong quá trình vận động và phát triển. Sau những phân tích công phu, đặc biệt là tính tới ảnh hưởng của yếu tố Khoa học – Kĩ thuật dưới thuật ngữ “cấu tạo hữu cơ ”, có thể tóm tắt tinh thần cơ bản về mối quan hệ giữa các ngành trong học thuyết về tái sản xuất Tư bản xã hội như sau: “Sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng”.
2.2. Lí luận của kinh tế học phát triển:
Với tư cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mô hình phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những nội dung cơ bản nhất của Công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành. Một số lý thuyết phát triển đó là:
2.2.1. Lý thuyết nhị nguyên:
Do A.Lewis khởi xướng, tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển. Ông đã có những kiến giải khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện nay. Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai khu vực kinh tế song song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. Khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng suất lao động thấp và dư thừa lao động. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hưởng gì tới sản lượng nông nghiệp.
Từ đây, có thể rút ra kết luận là để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của những nước chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại mà không cần quan tâm tới khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất xã hội từ trạng thái Nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Lý thuyết Nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận điểm xuất phát của họ là khả năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại. Khu vực này có khả năng lựa chọn kỹ thuật, trong đó có những loại kỹ thuật có hệ số sử dụng lao động cao. Nên về nguyên tắc có khả năng thu hút được lao động dư thừa từ nông nghiệp. Việc di chuyển lao động lao động được giả định là do sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ hai khu vực nông nghiệp trong trường hợp đang có nạn Nhân mãn. Nhưng quá trình này sẽ kết thúc cho đến khi lao động dư thừa trong nông nghiệp không còn nữa. Lúc đó việc tiếp tục chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản lượng nông nghiệp, dẫn đến tăng giá nông sản kéo theo sự tăng lương của khu vực công nghiệp. Nhưng do sự tăng lương là có giới hạn vì vậy sức thu nạp lao động từ nông nghiệp của công nghiệp là có giới hạn.
Theo một cách phát triển khác dựa trên lí thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực Công nghiệp – Thành thị. Quá trình dịch chuyển lao động chỉ trôi chảy khi “tổng cung” về lao động từ nông nghiệp phù hợp với “tổng cầu” trong công nghiệp. Sự di chuyển này phụ thuộc vào mức chênh lệch thu nhập và xác suất tìm được việc làm, đối với những người lao động nông nghiệp. Sự xuất hiện các yếu tố tìm được việc làm tạo ra các tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giữa hai khu vực đó là:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: Về vấn đề này ta có thể thấy ở các nước phát triển tỏ ra có ưu thế hơn các nước đang phát triển, do đó để tăng khả năng cạnh tranh và làm đầu tàu lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp phải hướng tới những ngành kỹ thuật cao.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi chuyển sang công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là người lao động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động Thành thị và thậm chí còn chưa quen với môi trường lao động công nghiệp. Do vậy cần thiết phải đầu tư nâng cao chất lượng lao động, đây là nhiệm vụ quan trọng cần thiết của các nước đang phát triển.
Vậy trong quá trình phát triển kinh tế, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập chung vào phát triển công nghiệp mà không cần chú ý tới nông nghiệp, đến chỗ đã chỉ ra những giới hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm chính đáng tới nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.2.2. Lí thuyết phân kỳ phát triển kinh tế:
Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là Walt Rostow. Cho rằng, quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trải qua năm giai đoạn tuần tự như sau:
- Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.
- Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất, nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu xuất hiện những khu vực đầu tàu có tác động lôi kéo nền kinh tế phát triển.
- Giai đoạn cất cánh: Xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hội, thuận lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đại và kinh tế đối ngoại.
- Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế: Tỉ lệ đầu tư đạt mức cao, xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
- Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt: Là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản suất đa dạng hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng.
Do tiếp cận vần đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng nhóm nước, song những nhận xét khái quát trung ấy là những gợi ý quan trọng đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá của những nước đang phát triển hiện nay.
2.2.3. Lý thuyết cân đối liên ngành:
Những người ủng hộ quan điểm này như R.Nurkse, P.Rosenstein -Rodan., cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên các luận cứ:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với nhau trong chu trình “đầu ra” của ngành này là “đầu vào” của ngành kia. Vì thế , sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như vậy còn giúp tránh được ảnh hưởng tiêu cực của những biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt .
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là nền tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thế giời thứ 3 chống lại Chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, thực tế đã dần cho thấy những yếu điểm rất lớn của mô hình lý thuyết này. ở đây có hai vấn đề cần được xem xét lại là:
Thứ nhất, việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín và khu biệt với thế giới bên ngoài. Điều này đi ngược với xu hướng chung là khu vực hoá và toàn cầu hoá, mà trong lúc ngăn ngừa những tác động tiêu cực của thị trường thế giới, đã bỏ qua cả những ảnh hưởng tích cực do bên ngoài mang lại.
Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không đủ khả năng về Nhân, Tài, Vật lực để có thể thực hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu.
2.2.4. Lý thuyết phát triển theo mô hình “đàn nhạn bay” :
Theo mô hình “đàn nhạn bay” xét trên góc độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay thậm chí từng loại sản phẩm riêng biệt, quá trình “đuổi kịp” về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được chia thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Các nước kém phát triển nhập hàng công nghệ chế biến từ các nước phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt. Giai đoạn này xảy ra sự phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nước kém phát triển.
- Giai đoạn 2: Các nước chậm phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển để tự tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trước đây vẩn phải nhập từ các nước phát triển.
- Giai đoạn 3 : Là giai đoạn mà những sản phẩm thay thế nhập khẩu ở giai đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Như vậy, khoảng cách kỹ thuật giữ các nước đi sau với các nước công nghiệp phát triển không còn cách xa bao nhiêu.
- Giai đoan 4: Là giai đoạn xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng băt đầu giảm xuống, nhường chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu tư vốn đã bắt đầu phát triển ở giai đoạn 3.
II. Kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong một số mô hình công nghiệp hoá
1.1. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu:
Với tư tưởng chủ đạo là thay thế những mặt hàng nhập khẩu bằng sản phẩm sản xuất trong nước đã từng là trào lưu chính ở các nước thế giới thứ 3 vào những thập niên sau đại chiến thế giới thứ II. Nguyên nhân chính là mong muốn xây dựng một nền độc lập tự chủ, thoát khỏi ách nô lệ thực dân.
ý tưởng thay thế mọi sản phẩm nhập khẩu bằng sản xuất trong nước cuối cùng đưa đến chính sách xây dựng nền công nghiệp hoàn chỉnh và khép kín. vì vậy, mà quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau thời kỳ phát triển ban đầu tương đối khá đã vấp phải những giới hạn không vượt qua được, thậm chí ngay cả những nước có lợi thế về quy mô. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thỉếu hụt nguồn vốn đầu tiên, khả năng Kỹ thuật - Công nghệ và dung lượng thị trường và những chính sách được áp dụng. Nó là hệ thống chính sách mà ngày nay, các nhà kinh tế gọi là chính sách bảo hộ “đặc trưng cho đường lối công nghiệp hoá hướng nội” với những hiệu năng cụ thể sau:
- Chính sách bảo hộ mậu dịch: Là chính sách đặc trưng phổ biến và đặc trưng cho mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Chính sách này được coi là công cụ phát triển bao gồm: Bảo vệ thị trường nội địa cho sản xuất công nghiệp trong nước, giúp hình thành những ngành công nghiệp non trẻ, tiết kiệm ngoại tệ…
- Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng hoá nội địa, các chính phủ thường duy trì chế độ tỷ giá hối đoái theo hướng nâng cao giá trị đồng nội tệ nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh của hàng ngoại trên thị trường nội địa.
Với những chính sách trên, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã đạt được tốc độ tăng trưởng Công nghiệp tương đối cao trong giai đoạn đầu. Sự tăng trưởng này tạo ra sự thay đổi nhất định về cơ cấu kinh tế và thúc đẩy quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh hơn. Làm thay đổi bộ mặt Kinh tế - Xã hội ở các quốc gia vốn trước đây là xứ thuộc địa .
Đáng tiếc rằng tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu hơn. Các nhà kinh tế học đã tổng kết quá trình hoạt động của chính sách như sau:
- Chính sách thay thế nhập khẩu tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả mọi ngành công nghiệp để tự sản xuất tất cả các loại sản phẩm tiêu dùng, trước hết là hàng vốn phải nhập khẩu. Yêu cầu này không thể đáp ứng vì nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển do quá tải về vốn đầu tư, khả năng công nghệ – kỹ thuật và quản lý. Sự chú trọng phát triển công nghệ làm cho Nông nghiệp trở nên trì trệ không đủ sức cung cấp các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Do đó sự di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp chậm dần không theo kịp tốc độ ra tăng lao động mới. Quá trình chuyển dịch cơ cấu bị ngừng trệ và về cơ bản lại tái sản xuất ra cơ cấu kinh tế cũ.
- Do trình độ kỹ thuật thấp kém và khả năng đầu tư ban đầu bị hạn chế nên quá trình thay thế nhập khẩu thực ra chỉ được bất đầu từ những sản phẩm chế tạo phục vụ tiêu dùng, còn đối với tư liệu sản xuất vẫn phải nhập khẩu. Nhu cầu ngoại tệ vì thế càng trở nên căng thẳng hơn dẫn đến thâm hụt cán cân ngoại thương ngày càng tăng. Vì vậy, tác động của ngoại thương đối với sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của nền kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng về cơ bản không có sự cải thiện đáng kể.
- Chính sách thay thế nhập khẩu khiến các công ty xuyên quốc gia của các nước công nghiệp phát triển thay vì xuất khẩu sản phẩm tiêu dùng cuối cùng sang các nước chậm phát triển đã chuyển sang kết hợp với các công ty bản địa thành lập các công ty đa quốc gia để sản xuất hàng hoá tiêu dùng ngay tại bản địa. Kết quả là không có một sức ép nào bắt buốc phải tăng cường cải thiện kỹ thuật, tăng năng xuất và chất lượng sản phẩm.
- Quá trình tiến hành các chính sách thay thế nhập khẩu tạo ra những khuyết tật xã hội đó là nạn tham nhũng, hối lộ. Do chạy theo lợi nhuận nên các công ty tìm cách móc nối để giảm thuế suất bóp méo sự thật. Các chủ doanh nghiệp đã lạm dụng đầu vào nhập khẩu, tăng cường sử dụng các loại vật tư giá giẻ mà không chú ý đúng mức các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động.
Vậy quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mô hình thay thế nhập khẩu tỏ ra có kết quả trong giai đoạn đầu tiên và được áp dụng rộng rãi, song nó không thể vượt qua đươc những thử thách của nền kinh tế tạo ra. Chính sách thay thế nhập khẩu đã đưa đến một loạt các tác động tương hỗ mà sau một quá trình dài làm tăng cường sự phụ thuộc vào nhập khẩu và trì hoãn những thay đổi về cơ cấu cần thiết cho sự phát triển .
1.2. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu :
Mô hình này dựa trên những xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế dưới tác động của khoa hoc kỹ thuật và lựa chọn môt cơ cấu kinh tế không cân đối để hình thành các cực tăng trưởng dựa trên những lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương .
Một số đặc điểm đặc trưng của mô hình này là :
- Quá trình công nghiệp hoá được bắt đầu từ việc tập trung khai thác các thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phảt triển có lợi thế so sánh trên thị trường thế giới và sản xuất những sản phẩm mà thị trường quốc tế cần, tức là hướng tới một cơ cấu kinh tế không cân đối.
- Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tuy các chính sách khuyến khích ở các nước khác nhau nhưng tất cả đều dựa trên nguyên lý chung là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra nước ngoài . Những biện pháp khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu gồm :
+ Nhà nước trực tiếp tác động bằng cánh đưa ra danh mục các mặt hàng ưu tiên được giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu , hoặc trực tiếp trợ cập cho các loại hàng hoà phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu .
+ Nhà nước can thiệp qua công cụ tài chính , tiền tệ , tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất hướng ra thị trường thế giới .
Nhờ những thế mạnh của những chính sách hướng xuất khẩu mà nền kinh tế của nhiều quốc gia đã và đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên có hai vấn đề cần thiết phải lưu ý, đó là :
Thứ nhất, chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá hướng ngoại phụ thuộc quá nhiều vào biến động của thị trường thế giới , những điều kiện trong nước đảm bảo thực thi chính sách này không phải ở bất cứ đâu và bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng.
Thứ hai, rất nhiều nước muốn theo đuổi chính sách này vì vậy xuất hiện một loạt các nhà cung cập cho thị trường thế giới tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt dần làm mất đi ưu thế so sánh của một số nước .
Do chính sách hướng vào xuất khẩu vẫn còn đang phát huy thế mạnh của mình ở một số nước, tuy nhiên tuỳ theo điều kiện mỗi quốc gia mà chọn lựa và áp dụng đúng đắn , sáng tạo nhằm phát triển kinh tế.
1.3. Mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế :
Với tiền đề vật chất do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra và dưới sự tác động của các biến cố chính trị toàn cầu, thế giới ngày càng trở thành một thị trường nhất thể hoá. Chiến lược công nghiệp hoá của các nước đang phát triển nói riêng và đường hướng phát triển của các quốc gia nói chung đã được điều chỉnh theo hướng hỗn hợp giữa thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, khai thác tổng hợp nguồn lực bên trong và bên ngoài sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bảo đảm hội nhập quốc tế một cách chủ động và có hiệu quả.
Nhờ đẩy mạnh xuất khẩu, nền kinh tế có thêm ngoại tệ, thúc đẩy cạnh tranh nội địa, khích lệ tiến bộ kỹ thuật, điều chỉnh chu kì cơ cầu đầu tư từ lợi thế so sánh dài hạn..v.v. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế so sánh đẩy mạnh xuất khẩu không loại trừ việc nhập khẩu. Tiến bộ Nông nghiệp và phát triển xuất khẩu tạo ra nhu cầu lớn về sản phẩm công nghiệp. ở giai đoạn tiếp không thể duy trì lượng nhập khẩu cao.
Do đó, cho nên thay thế nhập khẩu tất yếu trở thành một mặt hữu cơ của mô hình công nghiệp hoá.
Như vậy, chính sách thay thế nhập khẩu trong chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá cần phải được đổi mới. Nhất thiết phải từ bỏ sự bảo hộ thường xuyên tràn lan đối với các sản phẩm trong nước. Bảo hộ phải làm cho sản xuất của quốc gia phát triển, từng bước hội nhập và vươn lên trình độ quốc tế.
Hiện nay, mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập đang trong quá trình hình thành khảo nghiệm bước đầu có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu công nghiệp theo hướng hội nhập quốc tế. Cơ cấu công nghiệp hội nhập không phải là cơ cấu hoàn chỉnh đồng bộ các ngành sản xuất, mà là cơ cấu có lựa chọn một số ngành hội tụ tối đa lợi thế so sánh. Cơ cấu công nghiệp hội nhập là một cơ cấu hướng ngoại, chấp nhận cạnh tranh quốc tế không chỉ trên thị trường ngoài nước mà cả thị trường trong nước, đồng thời tận dụng đến mức tối đa lợi thế Địa lý - Kinh tế trong chu trình sản xuất kinh doanh. Cơ cấu công nghiệp hội nhập còn có tính chất linh hoạt và mềm dẻo trong chủng loại và mẫu mã, hình thức sản phẩm, trong cơ chế tổ chức và quản lý. Cơ cấu công nghiệp hội nhập cũng là cơ cấu mở, luôn luôn duy trì khả năng thu nhập mọi nguồn lực phát triển mới, vốn, công nghệ, nhân lực đến các giá trị văn hoá xã hội .
Thứ hai, xây dựng thể chế Kinh tế – Xã hội theo hướng hội nhập quốc tế, với hai tính chất: Mở và phù hợp với các định chế toàn cầu. Tuy mức độ có khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều phải tuần thủ những định chế toàn càu trong quá trình công nghiệp hoá và phát triển
Thứ ba, xây dựng nguồn lực hội nhập quốc tế, toàn bộ kết cấu nguồn lực, phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế, từ các nhà hoạch định chiến lược, chính sách , đến các nhà quản lý, đội ngũ các bộ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp, công nhân. Con đường đi đến hội nhập quốc tế đòi hỏi tất yếu phải tăng mạnh đầu tư cho Giáo dục - Đào tạo, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong phát triển và khai thác sử dụng nguồn nhân lực.
Có thể thấy rằng mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện rộng mở , thuận lợi cho việc khai thác tốt các nguồn lực, trong đó có việc khai thác và sử dụng hợp lý, có hiện quả nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cũng đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thích ứng được nhu cầu hội nhập.
2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở một số nước trên thế giới
2.1. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Malaxia :
Là một quốc gia giành độc lập năm 1957, Malaixia bắt đầu bằng một nền kinh tế với hai mặt hàng chiếm ưu thế là Thiếc và Cao su. Liên tiếp từ đó, nền kinh tế Malaxia liên tục thực hiện chính sách đa dạng hoá rộng rãi các mặt hàng sản xuất và đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình từ 7% - 8% hàng năm. Sản lượng GDP bình quân đầu người là 2000 USD năm 1984. Malaixia trở thành nước đứng đầu thế giới về Cao su, Thiếc, Gỗ, Dầu cọ và là nước có khối lượng xuất khẩu lớn về Dầu cọ và khí tự nhiên hoá lỏng.
Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp, số lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là về các linh kiện điện tử, hàng tiêu dùng, đồ điện, sản phẩm dệt và các mặt hàng công nghiệp khác, góp phần đáng kể trong tăng trưởng kinh tế.
Sau 1981 – 1982 khủng hoảng xảy ra trên khắp thế giới các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Malaixia bị giảm giá, làm giảm thu nhập và đầu tư. Nhà nước Malaixia đã tìm cách kích thích nền kinh tế và đẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp bằng việc tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Năm 1985 – 1986 do giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm mạnh làm cho sản lượng GDP tính theo đầu người của Maixia giảm xuống còn 1600 USD, thậm hụt lớn trong ngân sách. Chính phủ đã thay đổi một số chính sách như bãi bỏ một vài mục tiêu và chi tiêu, tăng trưởng trong kế hoạch lần thứ năm (1986 – 1990), chú trọng hơn về khu vực tư nhân, tư nhân hoá một số công ty quốc doanh và của chính phủ; Công ty vận tải biển quốc gia và hàng không quốc gia được bán một phần cho các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán.
Nền kinh tế Malaixia bắt đầu phục hồi từ năm 1987 liên tục đến năm 1989 nhờ sự cải thiện về giá cả hàng hoá và tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp GDP thực tế tăng 4,7% năm 1987; 9,5% năm 1988 và 7,7% năm 1989 hàng xuất khẩu chiếm 3/4 tăng trưởng. Dẫn tới cán cân thanh toán dư thừa, đầu tư nước ngoài tăng lên, nợ nước ngoài giảm. Vốn là nước có nguồn lực và đất đai dồi dào lực lượng lao động có học vấn tốt và môi trường chính trị ổn định, tiết kiệm trong nước mạnh tạo đủ vốn cho đầu tư, ngoài ra chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, khả năng tăng trưởng của Malaixia là có triển vọng tiếp tục và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính phủ Malaixia vẫn luôn phải có những chính sách phù hợp để đề phòng những tổn thất do biến động bên ngoài.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở trung quốc:
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn (thứ ba thế giới ) và đông dân cư nhất thế giới. Năm 1949 nhà nước mới thành lập, nền kinh tế ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh kéo dài và lạm phát cao. Chính phủ đã định ra những chính sách nhằm củng cố quyền lực, khôi phục trật tự xã hội, khắc phục thất nghiệp và nạm đói. Đến năm 1952, hầu hết những vấn đề đã được giải quyết. Sau đó chính phủ quyết định sửa đổi cơ cấu nền kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá của Liên Xô. Giảm mức đầu tư nước ngoài vào Nông nghiệp, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tập trung vào xây dựng công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng. Vào những năm 60 của thế kỷ XX nhiều chương trình của “đại nhảy vọt”được thử nghiệm, cộng thêm bất hoà Xô - Trung khiến cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng. Trung Quốc giành đầu tư lớn cho nông nghiệp.
Năm 1975 chính phủ Trung Quốc thay đổi lại chính sách kinh tế bằng việc thực hiện chương trình “bốn hiện đại hoá “ với mục tiêu tăng sản lượng Nông nghiệp, Công nghiệp, Khoa học kỹ thuật và Quốc phòng. Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu đã công bố những cuộc cải cách trong nông nghiệp, quyền tự quản, khuyến khích cạnh tranh trên thị trường, giảm thuế đối với xí nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy giao dịch trực tiếp giữa doanh nghiệp Trung Quốc và nước ngoài.
Những cuộc cải cách đã đem lại thành tựu to lớn, thu nhập quốc dân, sản lượng nông nghiệp, công nghiệp tăng lên 10% trong những năm 80. Thu nhập thực tế của người dân tăng gấp đôi. Cải cách công nghiệp đã làm đa dạng hoá các mặt hàng công nghiệp nhẹ và ._.hàng hoá tiêu dùng. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng phải giải quyết một loạt vấn đề như tham nhũng, lạm phát, thất nghiệp …thông qua các biện pháp, chính sách phù hợp để có thể tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường phát triển.
2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc:
Do sự chia cắt năm 1945, Hàn Quốc chỉ là vùng đất với nguồn lực nông nghiệp hạn chế và một lực lượng lao động dồi dào nhưng không có kỹ năng. Bắt đầu từ những năm 1960, chương trình tăng trưởng công nghiệp đã thành công khi chính phủ thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ, chú trọng vào các ngành công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động và làm hàng xuất khẩu. Chính phủ cũng thực hiện cải cách tiền tệ, tăng cường thể chế tài chính và áp dụng kế hoạch hoá kinh tế linh hoạt.
Thực hiện cải cách kinh tế vào đầu năm 1960 nhằm phát triển các ngành công nghiệp cần nhiều lao động và hướng xuất khẩu, xoá bỏ dần các hạn chế đối với nhập khẩu, trong quản lí kinh tế có tính linh họat cao, kết hợp chặt chẽ giữa các khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, tính tự chủ của hệ thống ngân hàng và sự phát triển của một thị trường tài chính hiệu quả.
Kết quả là từ năm 1963 đến 1978 GNP thực tế của Hàn Quốc tăng với tốc độ hàng năm gần 10% trong khi mức tăng dân số giảm còn 1,5% đã tạo ra mức tăng GNP gấp 35 lần về GNP đầu người. Sau những biến động về chính trị trong nước và giá cả thế giới, các nhà hoạch định kinh tế Hàn Quốc đã chuyển chiến lược kinh tế trọnh tâm từ tăng trưởng cao sang tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, do một số chính sách tài chính chưa được bảo đảm nên còn chịu ảnh hưởng lớn vào tài chính thế giới. Ngoài ra, Hàn Quốc còn chịu nhiều mâu thuẫn chính trị đang nổ ra và cần được giải quyết triệt để bằng những biện pháp đúng đắn.
Chương II: Thực trạng, đánh giá và vị trí cơ cấu các ngành kinh tế ở nước ta hiện nay
I. Sự CầN THIếT Và ĐáNH GIá QUá TRìNH CHUYểN DịCH CƠ CấU KINH Tế ở Nước ta
1. Sự cần thiết đIều chỉnh cơ cấu kinh tế
Trong mấy thập kỷ qua các nước thuộc Châu á - Thái Bình Dương đã tận dụng được những lợi thế so sánh để phát triển kinh tế của mình và đạt nhịp độ tăng trưởng khá nhanh. Nhờ đó xuất hiện những nước công nghiệp hoá mới. Đến nay, những lợi thế so sánh đó đang giảm dần, giá công nhân tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm do giá thành tăng nhanh. Do vậy cần chuyển một phần các lĩnh vực sản xuất khó cạnh tranh sang các nước khác dưới hình thức đầu tư chuyển giao công nghệ.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ tạo ra những lĩnh vực công nghệ mới, có hiệu quả cao, đặc biệt là những công nghệ tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Việc thực hiện công nghệ này trước mắt có thể chưa thu được nhiều lợi nhuận, nhưng trong tương lai thì đó là cơ sở để giành vị trí thống trị hoặc áp đảo thị trường thế giới và khu vực.
Các nước công nghiệp hoá có nhu cầu chuyển những công nghệ có trình độ thấp sang những nước kém phát triển, đồng thời một số nước cũng có nhu cầu tiếp nhận các công nghệ có trình độ thấp để từng bước tham gia thị trường thế giới và tạo cơ may tự điều chỉnh hành vi và tăng khả năng cạnh tranh. Tình hình đó đã và đang đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
Tình hình thế giới nói trên đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để nước ta không bị lạc hậu, mà cần phải biết tận dụng những lợi thế của các nước đi sau, đồng thời không để trở thành nơi tiếp nhận những công nghệ trình độ thấp, gây ô nhiễm môi trường và bị lệ thuộc vào nước xuất khẩu công nghệ.
Nước ta hiện vẫn còn là một nước nghèo, mặc dù chúng ta đã đạt được một số kết quả về mặt kinh tế, cũng như về mặt xã hội. Xét theo yêu cầu thì chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. So với các nước ở trình độ phát triển trung bình thì tổng sản phẩm trong nước theo đầu người của ta còn thấp.
Đứng trước thực trạng đó Đảng và Nhà nước ta ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa nhằm xây dựng nước ta thành một nước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
2. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và triển vọng
Để đất nước phát triển năng động thì cần phải nhanh chóng xoá bỏ tình trạng nước nghèo, cần có chính sách đúng đắn để khơi dậy các nguồn tiềm năng. Đó là chính sách về phát triển kinh tế nhiều thành phần, về phát triển các vùng lãnh thổ, về mở cửa với thế giới bên ngoài. v..v... Trong số những nhân tố tạo nên sức bật dậy của nền kinh tế thì vấn đề hoạch định chính sách chuyển dịch cơ cấu theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Vào thời kỳ 1939 – 1940 khi nền kinh tế Đông Dương phát triển mạnh nhất trong thời pháp thuộc, kinh tế Việt Nam về cơ bản là nền kinh tế Nông nghiệp, với sản xuất lúa độc canh chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. 50 năm sau, trải qua nhiều chuyển biến quan trọng nền kinh tế Việt Nam vẫn ở tình trạng yếu kém, sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung tự cấp. Từ năm 1986, trước đường lối đổi mới của Đảng nền kinh tế của ta chuyển sang bước ngoặt mới. Chúng ta tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dù có chỗ còn hình thức, chưa hiệu quả, nhưng nhìn chung là theo hướng tương đối tốt, theo tỉ lệ đóng góp vào GDP là:
Năm 1975: Nông nghiệp đóng góp 70%, công nghiệp đóng góp 9% và dịch vụ đóng góp 21%.
Năm 1989 : Nông nghiệp 40%; công nghiệp 25% và dịch vụ 35%.
Năm 1990: Nông nghiệp 38,7%; công nghiệp 22,7%; dịch vụ 38,6%.
Năm 1995: Nông nghiệp 27,2%; công nghiệp 28,8%; dịch vụ 44,1%.
Năm 2000: Nông nghiệp 25%; công nghiệp 34,1%; dịch vụ 40,9%.
Trong những năm tiến hành ổn định và phát triển kinh tế đóng góp trong GDP của các ngành liên tục tăng:
Năm 1991: nông nghiệp tăng 2,2%; công nghiệp 9%; dịch vụ 8,3%.
Năm 1995: nông nghiệp tăng 4,8%; công nghiệp 13,6%; dịch vụ 9,8%.
Năm 2000: nông nghiệp tăng 3,5%; công nghiệp 9 – 9,5%; dịch vụ 4 – 4,5%.
Có thể thấy đây là con số thích ứng với giai đoạn chuẩn bị đi vào công nghiệp hoá.
Con đường tất yếu đi lên với phát triển kinh tế là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Song không phải mọi sự chuyển dịch cơ cấu đều mang ý nghĩa tiến bộ, đều dẫn tới phát triển kinh tế như nhau. Xu thế chung là càng giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp thì nhịp độ tăng trưởng kinh tế càng lớn.
Chúng ta có thể thấy tình hình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp mấy năm gần đây ở nước ta, nhất là ở các tỉnh phía Nam đã phát triển mạnh những ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại, như công nghiệp điện tử, công nghiệp hoá chất, công nghiệp dệt, may mặcv..v. Qua đó đã tác động đến các ngành công nghiệp khác cũng phát triển, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Từ năm 1991 đến năm 1992 các ngành công nghiệp đều đi vào khôi phục, có những ngành tăng trưởng nhanh. Một số ngành có bước phát triển vượt bậc:
- Ngành Dầu khí Việt Nam đã có bước phát triển cao với sản lượng dầu thô vượt 100.000 thùng / ngày. Công nghiệp Than cũng đã bước vào thị trường thế giới một cách mạnh mẽ với khối lượng 1,6 triệu tấn (1992).
- Nghành sản xuất Thiếc đã vượt chỉ tiêu 3000 tấn, gấp hai lần so với dự tính đến năm 2000. Ngành sản xuất Điện phát triển mạnh, đạt mức sản sản xuất 10 tỷ Kwh và đang tiếp tục phát triển mạnh. Ngành công nghiệp dệt và may đã phát triển mạnh đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn đứng thứ hai trên thế giới.
Thành quả 10 năm đổi mới đạt được mang một ý nghĩa quan trọng đối với toàn Đảng, toàn Dân ta.kết quả ấy được tổng kết trong bảng sau:
Đơn vị tính
Mục tiêu
Thực hiện
Thực hiện bình quân (%)
Mục tiêu chiến lu'ợc
Mục tiêu 5 năm do ĐH VIII đề ra
1991
1995
2000
1991-1995
1996-2000
Chiến luợc 10 năm
- Tốc độ tăng GDP
%
6,9-7,5
09-Oct
6
9,5
5,5-5,6
8,2
7
7,5
Trong đó: Khu vực I
%
2,2
4,8
3,5
4,3
4,1
4,2
Khu vực II
%
9
13,6
9-9,5
12,9
10,5
11,7
Khu vực III
%
8,3
9,8
4-4,5
9,1
5,2
7,2
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
%
4,0-4,2
4,5-5,0
2,9
6,6
3,5-4
5,9
5,8
5,4
Giá trị sản xuất công nghiệp
%
9,5-12,5
14-15
10,4
14,5
10,5-11
13,7
13,5
12,9
Giá trí sản xuất dịch vụ
%
Dec-13
10
11,2
4,5-5,0
10,1
6,8
8,2
- theo giá 1994
Ng.tỷ đ
Gấp đôi
144,2
195,5
270,5
2 lần
2
- GDP bình quân đầu người
Ng.đ
Gấp đôi 90
2127
2642
3469
1,8
1,8
Nhờ định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí của Đảng và Nhà nước mà nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm đạt từ 7% đến 8% năm. Nền kinh tế nước ta đang được đánh giá là “thị trường tiềm năng” của nền kinh tế thế giới đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
II. THựC TRạNG CƠ CấU TừNG NGàNH KINH Tế
1. Thực trạng cơ cấu ngành nông - lâm – ngư nghiệp
1.1. Vị trí , đặc đIểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta:
Nông – Lâm – Ngư nghiệp là lĩnh vực sản xúât vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp và nguồn hàng cho xuất khẩu.
Cho đến nay, ngành nông – lâm – ngư nghiệp nước ta còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, là ngành có tỷ trọng lớn về lực lượng lao động trong cả nước. Vì thế, cơ cấu kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội ở nước ta.
ở nước ta một thời gian dài do không nhận thức đúng đắn, coi thiên nhiên là vô tận, vì thế ít quan tâm đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên. gần đây, chúng ta đã nhận thức được sự huỷ hoại môi trường tự nhiên đã đến mức rất nghiêm trọng ttrong đó những người hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Từ nhận thức đó, chúng ta chuyển dịch cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp theo hướng kết hợp hiệu quả Kinh tế – Xã hội với bảo vệ môi trường tự nhiên.
1.2. Thực trạng cơ cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta hiện nay
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đã có những thay đổi tích cực và là nền tảng vững chắc cho sự ổn định để tiếp tục phát triển kinh tế trong chặng đường tiếp sau.
Đơn vị tính
Mục tiêu
Thực hiện
Mục tiêu chiến lược
Mục tiêu 5 năm do ĐH VIII đề ra
1991
1995
2000
Sản lượng lương thực quy thóc
Tr.Tấn
30-32
22,0
27,6
34
Sản lượng lương thực / người
Kg
370
324
372
436
Tỷ trọng cây CN/ngành trồng trọt
%
45
-
-
23,7
Tỷ trọng ngành chăn nuôi/ngành nông nghiệp
%
30-35
-
-
17,3
Bảo vệ rừng
Tr.ha
9,3
-
-
11
Diện tích rừng tăng thêm
Tr.ha
2,5
-
-
1,0
Trong đó: rừng trồng mới
Tr.ha
1,0
-
-
1,0
Độ che phủ của rừng
%
40
-
33
Sản lượng thuỷ sản
Tr.tấn
1,6-1,7
-
1,5
1,9
Trong đó: sản lượng nuôi trồng
1000tấn
500-550
Diện tích nuôI trồng thuỷ sản
1000tấn
600
Xuất khẩu thuỷ sản
Tỷ USD
1-1,1
1050
Nông nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Trong 10 năm (1991 - 2000) giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,4%, vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược (mục tiêu chiến lược là 4 - 4,2%), trong đó nông nghiệp tăng 5,4% (lương thực tăng 4,2 - 4,3%, cây công nghiệp 10%, chăn nuôi 5,4%); thuỷ sản tăng 9,1%; lâm nghiệp tăng 2,1%. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã tăng nhanh. Năm 1990 là 1,149 tỷ USD, năm 1999 là 4,42 tỷ USD, năm 2000 dự kiến 4,7 tỷ USD, chiếm 37,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Bình quân thời kỳ 1991-1999 tăng 16%/năm, dự kiến 1991-2000 tăng 15,0%.
Diện tích một số cây công nghiệp tăng khá như cà phê, năm 2000 tăng gấp 5,4 lần so năm 1990; cao su tăng 4,5 lần; chè tăng khoảng 2 lần; mía tăng 3 lần; bông tăng 8,1 lần; ...
Ngành thuỷ sản chiếm 10-12% giá trị sản lượng nông nghiệp. Sản lượng thuỷ sản tăng bình quân hàng năm trên 8,8%, trong đó sản lượng nuôi trồng tăng 13%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng bình quân 17,7%/năm và đã trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp và khoảng 8 -9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nu'ớc.
Ngành lâm nghiệp với việc thực hiện chương trình trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng đã đạt nhiều kết quả. Độ che phủ tăng từ 28,2% năm1990 đã lên 33% vào năm 2000 (không kể cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả).
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng khai thác lợi thế đặc thù của mỗi vùng sinh thái. Trong giá trị sản xuất nông nghiệp, cây lương thực chiếm còn chiếm khoảng 42- 43 % trong khi cây công nghiệp chiếm 13- 14 %, rau quả và cây khác chiếm 13- 14%; chăn nuôi chiếm 13- 14 %; lâm nghiệp chiếm 6-7 %; thuỷ sản chiếm 10 - 11 %.
Tuy nhiên, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn còn nhiều vấn đề yếu kém.
Sản xuất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều yếu tố chưa vững chắc, chi phí cho sản xuất nông nghiệp vẫn còn cao, các phương thức canh tác tiên tiến chậm đưa vào áp dụng trên diện rộng. Năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất thấp, giá thành cao nên khả năng cạnh tranh kém cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhiều sản phẩm chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu quy mô lớn như rau, quả, thịt. Một số sản phẩm chủ yếu xuất khẩu ở dạng thô nên giá thường thấp hơn giá quốc tế. Lao động dư thừa nhiều và tỷ lệ được đào tạo thấp. Ngành nghề, dịch vụ nông thôn kém phát triển, cơ cấu kinh tế chậm được đổi mới.
Cơ sở vật chất và kỹ thuật còn yếu kém, chu'a đáp ứng yêu cầu của một nền nông nghiệp nông thôn tiên tiến. Các công trình thuỷ lợi mới huy động khoảng 70% công suất thiết kế. Nhiều diện tích vẫn chu'a đu'ợc tu'ới nhất là cây công nghiệp. Hệ thống đê kém an toàn. Việc nghiên cứu và áp dụng các giống cây, con mới có năng suất và chất lu'ợng vào sản xuất đại trà còn chậm. Giống lúa lai mới bảo đảm 10% nhu cầu. Giống cho nuôi trồng thuỷ sản chu'a giải quyết chủ động (trừ cá giống). Năng suất của cây trồng, vật nuôi nói chung còn thấp chỉ bằng 30-50% so các nu'ớc tiên tiến. Tổn thất khâu thu hoạch còn lớn trung bình của lúa là 13-16%, lúa hè thu ở ĐBSCL 18-20%, rau và quả trung bình 20%.
Cơ cấu nông lâm ngư nghiệp chưa thoat khỏi tình trạng độc canh, tự túc,tự cấp, trình độ sản xuất hàng hoá còn thấp, tính chất quảng canh còn phổ biến và hiệu quả kém. Thu nhập chủ yếu của người dân đều có được từ cây Lúa và cây lương thực, nhiều loại cây rau quả là thế mạnh vùng nhiệt đới chưa được phát huy.
Ba ngành nông - lâm - ngư nghiệp chưa có được sự gắn kết cần thiết trong một cơ cấu kinh tế thống nhất. Trong suốt một thời gian dài chúng ta tập trung sản xuất lương thực bằng bất cứ giá nào, ở mọi miền đất nước khiến cho rừng bị tàn phá nghiêm trọng làm cho suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên trầm trọng. Nhìn chung chúng ta chưa biết phối hợp sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp một cách thống nhất điều này dẫn tới sự lãng phí nhiều nguồn lực sẵn có.
Cơ cấu nông -lâm - ngư nghiệp chưa gắn chặt với cơ cấu nông thôn. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp phát triển chủ yếu ở những vùng nông thôn rộng lớn và gắn chặt với kinh tế nông thôn. Nhưng kinh tế nông thôn không thể chỉ bao gồm có ngành nông - lâm - ngư nghiệp, mà phải bao gồm cả công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông liên lạc, thương mại - dịch vụ, tài chính - ngân hàng. Nhưng đời sống phần lớn vùng nông thôn mang nặng kinh tế nông nghiệp đơn thuần hoặc nông - lâm - ngư nghiệp.
Chính sách kinh tế xã hội chưa thích hợp và đồng bộ đã gây ra nhiều trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ. Như chính sách đầu tư cho nông nghiệp chưa thoả đáng, cơ sở hạ tầng nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức nhất là thuỷ lợi, hệ thống tín dụng chưa tiếp cận được với người dân..v..v. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của đất nước ta.
2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp
2.1. Vị trí, đặc đIểm việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta:
Ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy để phát triển kinh tế nhất thiết phải xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý, nhằm tận dụng và phát huy thế mạnh của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là một quá trình mang tính qui luật phổ biến ở tất cả các nước. Song, ở nước ta nó mang đặc điểm đó là:
- Nước ta đang trong giai đọan đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu, trình độ trang bị kỹ thuật trong các ngành nhìn chung còn yếu kém, lao động thủ công còn phổ biến, chất lượng hàng hoá thấp, khả năng xuất khẩu bị hạn chế.
- Việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ở nước ta cần đạt được tốc độ cao để góp phần phục vụ công nghiệp hoá theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó mới có thể giải quyết được các yêu cầu tiêu dùng ngày càng cao của dân cư, và từng bước đưa nước ta hoà nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp ở nước ta
Ngành công nghiệp đã từng bước vu'ợt qua những khó khăn, thách thức và những đòi hỏi khắc nghiệt của thị trường, cố gắng vươn lên theo hướng đổi mới công nghệ, cơ cấu và tổ chức lại sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, làm ra nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Sau thời kỳ phát triển chậm và không ổn định 1986-1990 (tốc độ tăng bình quân 6,0%), ngành công nghiệp đã nhanh chóng vượt qua những thách thức của thị trường, thích nghi với cơ chế quản lý mới, dần dần khôi phục ổn định và tăng trưởng với tốc độ cao, đặc biệt là trong thời kỳ 1991 - 1995. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp 10 năm 1991 - 2000 đạt 13%/năm so với mục tiêu đề ra là 9,5% - 12,5%, trong đó, thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 dự kiến tăng 12,2%/năm. Công nghệ sản xuất của một số ngành sản xuất vật chất chủ yếu đã có những đổi mới, trình độ công nghệ được nâng lên một bước.
Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị nên đã có bước tiến đáng kể, số lượng và chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân hàng năm 11,7% thời kỳ 1991-2000, trong đó thời kỳ 1991 - 1995 tăng bình quân 13,4%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 tăng bình quân 10%/năm.
Công nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển trong những lĩnh vực mà Nhà nu'ớc không cấm với mọi quy mô và trên tất cả các địa bàn, nhưng tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Quốc doanh tăng bình quân 10 năm (1991-2000) là 9,15%/năm, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 10,6%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 7,7%.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, vào việc nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của nền kinh tế. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,3%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 20,40%.
Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, không những đã thay thế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Kết quả sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chính như sau:
Đơn vị tính
Mục tiêu
Thực hiện
Mục tiêu
Mục tiêu
chiến lu'ợc
5 năm do
1991
1995
2000
ĐH VIII đề ra
Điện phát ra
Tỷ Kwh
30
9,3
14,7
26
Dầu thô khai thác
Tr.tấn
16
4
7,6
16,5-17
Khí
Tr.m3
4000
1500
Than sạch
Tr.tấn
10
5
7,7
10
Thép cán
Tr.tấn
2
0,149
0,38
1,4
Phân lân các loại
1000tấn
1200
1020
Phân đạm
1000tấn
400-900
50
Vải lụa các loại
Triệu m
800
280
221
400
Giấy các loại
1000tấn
300
109
204
300
Xi măng
Tr. Tấn
18-20
3127
5854
11,5
Đường các loại
1000tấn
1000
372
593
1000
Nguồn điện tăng thêm
MW
3000
1330
Các tỉnh có điện
Tỉnh
61
61
Tỷ lệ huyện có điện
%
100
100
Tỷ lệ xã có điện
%
80
80
Dầu thô: Sản lu'ợng năm 1990 là 2,7 triệu tấn, dự kiến năm 2000 đạt 16,5 triệu tấn, gấp 6,1 lần so với năm 1990. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1995 đã đưa khí đồng hành vào bờ phục vụ phát điện với sản lượng năm 1999 ước đạt 1,2 tỷ m3 và năm 2000 dự kiến đạt 1,5 tỷ m3. Có thể nói dầu khí là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và đã trở thành một mũi nhọn trong chiến lược phát triển năng lượng của cả nước.
Điện: Các công trình nguồn tăng nhanh, tổng công suất ngành điện đến 31/12/1998 là 4937 Mw, sản lượng điện phát ra năm 1999 tăng gấp 2,7 lần so với năm 1990 (năm 1990 là 8,79 tỷ Kwh, năm 1999 là 23,81 tỷ Kwh), dự kiến năm 2000 đạt sản lượng trên 26 tỷ Kwh. Với công suất và sản lượng điện như hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ và ổn định cho các nhu cầu của nền kinh tế. Các công trình lu'ới điện được đầu tư đồng bộ và bám sát các mục tiêu quan trọng phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng cũng như các mục tiêu xã hội. Đến năm 2000, có thể đạt được mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phường trên toàn quốc có điện. Ngành điện đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng làm tiền đề cho sản xuất và đời sống phát triển.
Than: Từ mức 4,62 triệu tấn than sạch năm 1990, đã đạt sản lượng 11,3 triệu tấn năm 1998 (xuất khẩu gần 3,2 triệu tấn), và dự kiến 10 triệu tấn năm 2000 (xuất khẩu trên 3,5 triệu tấn). Do nhu cầu than trong nước không tăng, tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu (phần lớn là thị trường Nhật bản) có biến động nên từ năm 1999 chính phủ đã phải chủ động giảm sản lượng khai thác xuống còn khoảng 10 triệu tấn mỗi năm, trong đó dành để xuất khẩu 3,5 triệu tấn.
Thép: từ 2 khu liên hợp luyện cán thép Thái Nguyên và Biên Hoà trước đây, chúng ta đã xây dựng được một ngành công nghiệp luyện cán thép khá phong phú bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn liên doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay... Đến nay, công suất thiết kế của ngành đạt khoảng 2 triệu tán thép cán; sản lượng thép thương phẩm năm 1999 là 1,22 triệu tấn và dự kiến năm 2000 đạt 1,4 triệu tấn. Sản lượng phôi thép tương ứng năm 1999 là 250.000 tấn (năm 1990 chỉ sản xuất 140.000 tấn thép thương phẩm và 100.000 tấn phôi thép). Nhìn chung, hiện nay ngành thép đã đảm đương được nhiệm vụ cung cấp đủ các loại thép xây dựng thông thường cho các nhu cầu tiêu dùng và sản xuất.
Xi măng: năm 1999 tổng công suất thiết kế các nhà máy xi măng đạt 18 triệu tấn, đến năm 2000 đạt khoảng 22 - 25 triệu tấn. Tuy vậy, do thị trường hạn hẹp nên sản lượng sản xuất năm 2000 dự kiến chỉ đạt trên dưới 11,5 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trong nu'ớc.
Vải: Năm 1990 sản xuất 318 triệu mét, sau đó liên tục giảm sút đến năm 1995 còn 222 triệu mét, nhưng từ năm 1996 lại tăng dần, đến năm 1999 đạt 317 triệu mét, dự kiến năm 2000 đạt khoảng 400 triệu mét. Nhìn chung, công suất của ngành có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các loại vải thông thường và một phần các loại vải cao cấp.
Giấy: Nếu nhu' năm 1990 cả nước chỉ sản xuất được 79 nghìn tấn giấy thì đến năm 1999, sản lượng đã tăng lên đến 338,2 nghìn tấn, dự kiến năm năm 2000 đạt mục tiêu đã đề ra là trên 300 ngàn tấn, gấp 3,80 lần so với sản lượng năm 1990.
Ngoài những sản phẩm chính kể trên, trong 10 năm qua, đã đưa vào sản xuất hàng loạt những chủng loại sản phẩm mới mà trước đó chưa có như ti vi, ô tô, xe máy, máy tính và nhiều loại thiết bị điện tử khác. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế mở, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài... đã hình thành và xây dựng được nhiều ngành công nghiệp mới, góp phần đáng kể vào thay đổi diện mạo và vị thế của ngành công nghiệp Việt Nam không những ở thị trường nội địa mà cả trên thương trường quốc tế.
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng trong 10 năm qua: Từ chỗ chỉ xuất khẩu được 1,25 tỷ USD năm 1990 (năm 1991 giảm xuống chỉ còn gần 1 tỷ USD), giá trị xuất khẩu công nghiệp đã tăng lên tới 7,1 tỷ USD năm 1999, dự kiến 7,8 tỷ USD năm 2000, đạt tốc độ 20,1%/ năm. Cơ cấu xuất khẩu công nghiệp đã dịch chuyển nhanh theo hướng tăng dần tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (từ 30% năm 1991 lên 60,3% năm 2000), vốn có giá trị gia tăng cao và sử dụng nhiều lao động, giảm tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản và sản phẩm công nghiệp nặng (tỷ trọng giảm tương ứng từ 70% xuống 39,7%).
Trong nội bộ ngành cơ cấu đóng góp trong thời kỳ 1991 – 2000 dược phản ánh thông qua bảng số liệu sau:
Đơn vị: %
1995
2000
Toàn ngành
100
100
1. Công nghiệp khai thác
13,5
15
- Dầu khí
10,5
12
2. Công nghiệp chế tác
80,5
79
- Sản xuất thực phẩm
26,1
23,6
- SP phi kim loại
8,9
9,2
- Sản phẩm dệt
6
5,6
- Hoá chất
4,9
5,4
- SP da, giả da
3,4
4,7
- SP kim loại
3,3
2,6
- Điện tử, CNTT
3,0
3,8
3. Điện ga và nước
6
6
- Điện, ga
5,3
5,6
Nguyên nhân của sự chậm phát triển ngành công nghiệp đó là:
- Chúng ta đã duy trì quá lâu một mô hình cơ cấu kinh tế công nghiệp tương đối hỗn tạp, chưa xác định rõ ràng ngành chủ yếu, mũi nhọn của đất nước. Điều đó làm hạn chế tốc độ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế mở, hạn chế quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, hạn chế việc hòa nhập vào tình hình kinh tế khu vực và thế giới.
- Khi xem xét, phân tích và hoạch định chính sách cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ta chưa chú ý làm rõ các cơ cấu bổ xung như cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành hàng sản xuất, cơ cấu ngành hàng xuất khẩu nhìn chung chúng ta còn nặng về phân tích định tính mà ít chú trọng phân tích định lượng.
Một xu hướng lành mạnh đáng quan tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là xu hướng biến đổi cơ cấu và phát triển các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên phân bổ vốn đầu tư và ưu tiên các điều kiện khác sang sử dụng các chính sách đòn bẩy, tăng cường liên kết kinh tế, cải thiện nội dung hoạt động của ngành và tăng quyền tự chủ của các doanh nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn hàng đầu cho sự phát triển.
3. Thực trạng cơ cấu ngành thương mại - dịch vụ
3.1. Vị trí, đặc điểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ:
Thương mại là một ngành kinh tế có nhiệm vụ tổ chức lưu thông hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của sản xuất và dân cư trên thị trường nội địa và nhu cầu xuất khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, việc chuyển dịch cơ cấu thương mại và dịch vụ không chỉ mang ý nghĩa phát triển ngành Thương maị , mà còn tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành khác như công nghiệp và nông nghiệp .
Cơ cấu thương mại và dịch vụ là một hệ thống đa cấu trúc, với nhiều mối quan hệ ràng buộc hữu cơ trong quá trình hoạt động của nó. Cơ cấu ngành về lĩnh vực kinh doanh về thực chất phản ánh cơ cấu và mối quan hệ cung cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường do cơ cấu sản xuất và cơ cấu nhu cầu quyết định. Nó tự hình thành và tự điều chỉnh thông qua trạng thái cân bằng động của mối quan hệ cung cầu. Tuy nhiên , cơ cáu thương mại và dịch vụ trên các địa bàn lãnh thổ còn có sự tham ghia của các nhân tố chủ quan và nó phản ánh trình độ tổ chức kinh tế xã hội trên các vùng lãnh thổ . Cũng như kết quả của chính sách và sự phân bố lực lượng sản xuất trên các địa bàn.
Cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ hợp lí là một hệ cấu trúc đa phức ở trong trạng thái cân bằng động. Trên thế cân bằng đó, các mối quan hệ kinh tế được thực hiện một cách thuận lợi, thế mạnh của các vùng và các thành phần kinh tế được phát huy một cách tổng hợp. Những lợi thế về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ của đất nước và thời đại được khai thác triệt để, nhằm phục vụ dùng và tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo công bằng và dân chủ, xây dựng xã hội văn minh.
Việc chuyển dịch cơ cấu thương mại dch vụ phải theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước, theo đó các quan hệ kinh tế được xây dựng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ Khoa học - Kỹ thuật vào sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá đất nước sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và dịch vụ, thông qua sự chuyển dịch các tầng lớp xã hội và kéo theo là sự tăng trưởng và biến đổi cơ cấu qui mô và nhu cầu tiêu dùng; thông qua việc mở rộng các nguồn vận động của hàng hoá, tiền vốn, lao động trong lưu thông, thông qua sự bố trí, tổ chức các thị trừơng trọng điểm ở thành phố, cửa khẩu, khu chế xuất, khu tự do thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá.
3.2. Thực trạng cơ cấu của ngành thương mại - dịch vụ ở nước ta
Các ngành dịch vụ đã phát triển ngày càng đa dạng, vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa phục vụ tốt đời sống, từng bước nâng cao chất lu'ợng phục vụ.
Ngành thương nghiệp phát triển khá, bảo đảm ngày càng tốt hơn các cân đối lớn về vật tư hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, lương thực, đường... trong từng vùng và toàn quốc.
Việc lưu thông vật tư hàng hoá từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu với sự tham gia của các thành phần kinh tế, làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng nhanh.
Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng tạo nguồn hàng bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, thép, xi măng, phân bón, giấy viết, hoá chất, mở rộng mạng lưới trao đổi, mua bán hàng hoá với thị trường nông thôn, miền núi, đô thị.
Tại các khu vực đô thị đã hình thành nhiều mô hình tổ chức kinh doanh văn minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn. Hệ thống chợ được hình thành và xây dựng mới ở cả thành thị, nông thôn và miền núi. Riêng đối với các vùng còn khó khăn, chúng ta vẫn duy trì cơ chế hỗ trợ, bù giá lưu thông cho những mặt hàng thiết yếu.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân trên 30% năm. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 2000 đạt gấp 12,3 lần so với năm 1990.
Trong 5 năm 1996-2000, tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ xã hội chỉ ở mức 14,1% (kể cả tốc độ tăng giá). Tình trạng khó tiêu thụ một số._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35518.doc