Lời mở đầu
Thế giới đang đứng trước bối cảnh kinh tế mới, cách mạng khoa học kĩ thuật tiếp tục phát triển mạnh mẽ từ cơ khí hoá, hoá động hoá, tự động hoá. Cách mạng khoa học kĩ thuật đang tiến đến những thành tựu mới về sinh học hoá, tin học hoá…
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kĩ thuật dẫn đến sự biến động mãnh mẽ và mau lẹ về tất cả các mặt của đời sống kinh tế – chính trị - xã hội trên phạm vi khu vực và thế giới.
Xu hướng quốc tế hoá đời khu vực và quốc tế, hợp tác, cạnh tra
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh để phát triển đầu tư và thương mại đang đặt ra một cách gay gắt. Hàng loạt các vấn đề mới đặt ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường, đẩy nhanh tốc độ và tăng trưởng. Trước tình hình đó Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chủ trương đưa đất nước tiến lên con đường CNH- HĐH đất nước. Đó vừa là điều kiện bắt buộc vừa tạo ra khả năng cho các nước có nền kinh tế lạc hậu như nước ta có thể kết hợp những bước tiến tuần tự với những bước nhảy vọt về công nghệ, rút ngắn thời gian đuổi kịp các nước trên thế giới. Quá trình CNH-HĐH ở nước ta phải kết hợp đầu tư kĩ thuật cao cho sản xuất, nhất là ở các ngành mũi nhọn để tăng nhanh lực lượng sản xuất hiện tại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ cấu kinh tế lạc hậu không hợp lí sang cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ hiện đại.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đặt ra cho các doanh nghiệp phải có những điều chỉnh về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ít nhiều cũng sẽ thay đổi.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động hiệu quả bên cạnh các điều kiện về khoa học công nghệ thì nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp là yếu tố quyết định tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và tạo khả năng cạnh tranh to lớn trên thị trường trong nước và thế giới.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng quyết định tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Sau thời gian nghiên cứu và tìm hiểu công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp”. Nội dung đề tài tập trung vào nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn về công tác đào tạo con người trong doanh nghiệp. Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với doanh nghiệp về đội ngũ lao động trong thời kì mới. Từ đó chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu và kết luận gồm ba chương:
Chương I: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Chương II: ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với doanh nghiệp.
Chương III: Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp trong điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn với trình độ hiểu biết còn hạn chế, do vậy đề tài này còn có nhiều thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và bạn đọc. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn cô giáoTh.s Nguyễn Vân Điềm đã tận tình, hướng dẫn giúp chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 9 năm 2003.
Nhóm sinh viên thực hiện:
Lê Thị ánh
Nguyễn Thị Hồng Thu
Nội dung:
ChươngI: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm và phân loại cơ cấu kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Như vậy cơ cấu kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một khoảng không gian và thời gian nhất định và trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Nó được thể hiện ở mặt định tính và định lượng, chất lượng và số lượng, phù hợp với mục tiêu xác định của nền kinh tế. Do đó mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kì quyết định việc hình thành các yếu tố, các bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế. Mặt số lượng thể hiện quan hệ tỷ lệ hình thành của cơ cấu phù hợp với mặt chất lượng đã xác định. Khi lượng đổi dẫn đến chất đổi khi đó cơ cấu kinh tế phải được điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nói đến sự dịch chuyển cả về mặt số lượng và chất lượng của nó.
Cơ cấu kinh tế là hệ thống động, biến đổi không ngừng theo đà phát triển của lực lượng sản xuất và những nhân tố qui định nó. Cơ cấu kinh tế có tính khách quan, tính lịch sử và tính mục tiêu của nó.
1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế.
1.2.1. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ là chỉnh thể liên kết các ngành sản xuất trong một vùng theo một cấu trúc hợp lý, nhờ đó có thể tạo ra khả năng tăng trưởng kinh tế trong quá trình vận hành của nó.
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế gắn với các loại hình sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Tuỳ theo phương thức sản xuất mà có thành phần kinh tế chiếm địa vị chi phối còn lại là những thành phần kinh tế chiếm địa vị hỗn hợp hay tổ thành quan trọng.
Nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế.
1.2.3. Cơ cấu kinh tế ngành.
Cơ cấu ngành có quan hệ gắn bó với nhau theo những tỷ lệ nhất định giữa các ngành sản xuất, trong nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng như giữa các ngành nghề và các doanh nghiệp trong các ngành. Cơ cấu ngành là bộ phận then chốt trong cơ cấu kinh tế, vì cơ cấu ngành quyết định trạng thái chung và tỷ lệ đầu vào, đầu ra của nền kinh tế quốc dân.
Theo hướng dẫn phân loại ngành theo tiêu chuẩn quốc tế đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế do Liên Hiệp Quốc ban hành, thì tiêu chuẩn phân loại ngành của Liên Hợp Quốc được gom thành ba bộ phận:
Ngành thứ I: Nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp)
Ngành thứ II: Công nghiệp và xây dựng.
Ngành thứ III: Thương mại và dịch vụ.
Về chuyển dịch cơ cấu ngành:
Khi xem xét sự thay đổi cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong thời kì công nghiệp hoá, có thể nhận xét rằng lịch sử công nghiệp hoá cũng đồng thời là lịch sử quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào thực trạng sự biến động của lực lượng sản xuất và đòi hỏi của thị trường.
Đối với nền kinh tế quốc dân: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có nghĩa là sự vận động và biến đổi của các ngành khu vực I, II, III theo chiều hướng tăng tỷ lệ các ngành khu vực II, III, giảm tỷ lệ các ngành khu vực I trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội. Chỉ số này thường được xem là một trong những chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ thành công của qúa trình công nghiệp hoá của một quốc gia.
Như vậy chỉ tiêu đánh gía mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là chỉ tiêu về tỷ lệ đóng góp của các ngành vào trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
2. Lí do chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xã hội muốn tồn tại và phát triển không thể không sản xuất ra những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cho mình. Do đó lực lượng sản xuất có tính liên tục và luôn phát triển theo trí tuệ của con người. Sự biến động của lực lượng sản xuất là cơ sở và là động lực thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất và chế độ xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu CNH- HĐH đất nước. Theo dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ VIII của Đảng- lưu hành nội bộ tháng 12 /1995 đưa ra mục tiêu CNH-HĐH đó là: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Để có thể thực hiện mục tiêu đó Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thiết lập cơ cấu kinh tế hợp lí, tạo ra tiền đề vững chắc về cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện để hoàn thành thắng lợi mục tiêu CNH-HĐH đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng nhằm đa dạng hoá sản phẩm về chủng loại và chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Trong điều kiện ngày nay khi khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, xu hướng toàn cầu hoá diễn ra một cách mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một cơ cấu kinh tế để có thể tận dụng được các nguồn lực xã hội và các thành tựu khoa học công nghệ, phát huy ưu thế cạnh tranh của đất nước trên thị trường khu vực và thế giới.
Ngày nay, dưới tác động như “vũ bão” của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang là một xu thế khách quan và là một “tất yếu thép” mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải tuân theo, nếu không muốn nhấn chìm trong sự nghèo nàn, lạc hậu đến cùng cực.
Nước ta bước vào thời kỳ đổi mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tất yếu phải ra sức phấn đấu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đến năm 2020 “biến nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp”.
Thực tiễn của các nước NIC nói chung, Hàn Quốc nói riêng cho thấy: Nhờ đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ nên đã khai thác và phát huy tốt nguồn lực con người đưa Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp lạc hậu “đất chật người đông” tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn thành một nước có nền công nghiệp phát triển cao. Năm 1962 thu nhập quốc dân bình quân đầu người chỉ có 82 USD và tổng xuất khẩu cả năm đó mới đạt 100 triệu USD. Nhưng cùng với sự phát triển năng động của nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lí, Hàn Quốc đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, sau một thời gian tương đối ngắn Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp mới và đang trên đường tiến tới gia nhập vào các nước công nghiệp phát triển với mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 là 10.000 USD, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1995 là 128 tỷ USD. Như vậy, có thể nói chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nguyên nhân chủ yếu của tăng trưởng kinh tế.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Xác định và thực hiện các phương hướng, biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lí nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phân tích nghiên cứu kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến chuyển dịch.
3.1. Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế.
Thị trường đó là nhân tố có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết là chuyển dịch ngành, bởi lẽ thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường để xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình thích ứng với các điều kiện của thị trường. Do đó, nó sẽ thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.2. Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả.
Trước hết việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong nước và ngoài nước) để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà nước ta đang có lợi thế và điều kiện phát triển. Thông thường trong mỗi giai đoạn phát triển ta thường tập trung khai thác các tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định. Do đó sự đa dạng phong phú của tài nguyên làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo chiều hướng mạnh mẽ, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của đất nước.
- Dân số được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế tác động đến sự hình thành và phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Kết cấu dân cư và trình độ dân trí ảnh hưởng tới tiếp thu công nghệ mới…là cơ sở phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao.
Thứ hai: Qui mô dân số, kết cấu ảnh hưởng rất lớn tới qui mô, cơ cấu, nhu cầu thị trường. Đây là cơ sở để hình thành phát triển các ngành công nghiệp và phục vụ tiêu dùng.
Thứ ba: Phát triển các ngành nghề truyền thống cần gắn với phong tục, tập quán, truyền thống của địa phương, của một cộng đồng người. Đây là nét văn hoá đặc trưng mà khi xây dựng nền kinh tế mở, yếu tố này được coi là rất hấp dẫn đối với nước ngoài.
3.3. Sự ổn định của thể chế chính trị xã hội và đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở.
3.4. Tiến bộ của khoa học công nghệ.
Tiến bộ của khoa học công nghệ không những chỉ tạo những khả năng sản xuất mới đẩy nhanh tốc độ phát triển của một số ngành, làm tăng tỷ trọng của chúng trong nền kinh tế quốc dân, mà nó còn có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực. Khoa học tự nhiên đã từng bước phục vụ có hiệu quả nhu cầu sản xuất và đời sống. Điều đó trước hết được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp, nhờ đẩy mạnh việc nghiên cứu và sử dụng các giống cây, con mới, các phương thức canh tác… mà nền kinh tế nước ta có những phát triển vượt bậc. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kết quả nổi bật của hoạt động khoa học và công nghệ là đã nhanh chóng tiếp thu, làm chủ và vận hành được các thiết bị nhập khẩu, các loại máy canh tác, chế biến và tự động hoá được một số khâu trong lĩnh vực sản xuất. Chính sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian qua. Khu vực dịch vụ cũng phát triển nhanh chóng năng động như dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng…
4. Mục tiêu, xu hướng và một số biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
4.1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đại hội VIII của Đảng đưa ra mục tiêu cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong những năm sắp tới đó là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang còn lạc hậu, bất hợp lí sang cơ cấu công, nông nghiệp, dịch vụ hợp lí, kết hợp nhiều thành phần kinh tế phù hợp với điều kiện nước ta để phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, thu được thắng lợi.
Quá trình CNH-HĐH là quá trình chuyển dịch các loại cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Trong đó có cơ cấu kinh tế lãnh thổ làm cho cơ cấu ấy “khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của tất cả các vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng đều phát triển”{Trích dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng- lưu hành nội bộ tháng 12-1995}.
4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta đó là chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH đất nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tích cực với đặc trưng: Tăng nhanh tỷ trọng của các ngành khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành khu vực nông nghiệp nhằm tạo ra cơ cấu của một nền kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới và thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động.
Giảm tỷ trọng nông nghiệp không có nghĩa là ta không quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn, tạo tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển. Phát triển toàn diện nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản hình thành các vùng chuyên canh, có cơ cấu hợp lí về cây trồng, vật nuôi, thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, sinh học hoá…
Phát triển công nghiệp: Ưu tiên các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (năng lượng- nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất…).Tăng thêm năng lực sản xuất thích ứng với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Phát triển nhanh các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, giao thông vận tải, ngân hàng, kiểm toán, tài chính ….Mở rộng thương mại, du lịch, dịch vụ tạo ra bước chuyển đổi căn bản.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời quá độ lên CNXH (1991): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đôi với phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, song tỷ trọng kinh tế không then chốt và được tăng cường ở các ngành then chốt. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Các ngành khác sẽ được tăng cường cả về mặt số lượng và chất lượng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong cơ cấu thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được phát triển mạnh.
Đối với các vùng kinh tế: Chuyển dịch theo hướng khai thác thế mạnh của từng vùng, tập trung chính đáng cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước. Có chính sách hỗ trợ các vùng khó khăn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, các vùng miền núi, hải đảo…dần dần giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng.
Cơ cấu kinh tế có thể theo khuynh hướng tự nhiên sẵn có của nền kinh tế thị trường hội nhập nền kinh tế thế giới.
4.3. Một số biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
4.3.1.Thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực với những đặc trưng sau:
Tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp.
Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu nông thôn, nông nghiệp được coi là điểm mạnh của nước ta. Phát huy sức mạnh dân tộc là nền tảng cho phát triển ổn định và bền vững. Nhà nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, trung tâm dịch vụ…. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm tại quê hương mình theo phương châm “li nông bất li hương”. Phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành gốm, tiểu thủ công nghiệp. Khai thác chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp từng bước hình thành nông thôn văn minh, hiện đại.
4.3.2. Cải tiến đổi mới cơ chế huy động vốn đầu tư theo những hình thức sau:
Đa dạng hoá hình thức huy động vốn, xây dựng cơ chế tiết kiệm trong tiêu dùng để đầu tư cho sản xuất. Có biện pháp khuyến khích tất cả các thành viên kinh tế đầu tư để phát triển sản xuất, tăng dần tỷ lệ tích luỹ cho cơ sở hạ tầng trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước. Thường xuyên điều chỉnh lãi suất cũng như việc thuận lợi hoá thủ tục gửi tiền, rút tiền tiết kiệm nhằm huy động ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân. Xây dựng cơ chế hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các lĩnh vực tín dụng, đào tạo, thông tin…
Đẩy nhanh việc cổ phần hoá và đa dạng các hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp. Mở rộng việc phát hành trái phiếu công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, trái phiếu doanh nghiệp. Nghiên cứu phát triển các hình thức thuê tài chính, hình thành thị trường vốn và vận hành tốt thị trường này nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực và các ngành kinh tế.
Huy động vốn nước ngoài: Mở rộng các hình thức liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài trong đó chú trọng hình thức BOT. Nghiên cứu triển khai thí điểm phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài.
Cải tiến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước theo hướng chủ yếu giành để xây dựng cấu trúc hạ tầng, nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vào phát triển các khu vực, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm được nhiều việc làm hơn, khả năng sinh lời và quay vòng vốn nhanh.
Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt là nông dân.
4.3.3. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế chuẩn bị tốt điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, kết hợp đổi mới kinh tế đối ngoại cởi mở, thông thoáng. Tập trung đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng lao động hình thành và phát triển năng lực các ngành nghề chế biến, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, tuy nhiên trước mắt cần tập trung vào những sản phẩm có dung lượng lớn như dệt, may mặc, giày dép, chế biến lương thực, thực phẩm, gia công cơ khí, điện tử, đồ gỗ, hoá chất, tiêu dùng và mỹ phẩm.
4.3.4. Hình thành, phát triển và điều tiết có hiệu quả giữa các vùng, các khu vực, các ngành nghề của thị trường lao động.
Quản lí tốt thị trường này có nghĩa là giảm tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tính cơ động linh hoạt của lực lượng lao động cũng như ngăn chặn và khắc phục nhiều hậu quả xấu về kinh tế xã hội khác.
4.3.5. Biện pháp về kỹ thuật công nghệ:
Nâng cao trình độ hiện đại với các ngành sản xuất công nghiệp có thế mạnh hiện nay, đồng thời phải chọn giải pháp để xây dựng phát triển ưu tiên đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn. Thực hiện tích cực việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ thích hợp từ bên ngoài vào, kết hợp với tăng cường nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trong nước. Đối với công nghệ nhập, khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với phương hướng ưu tiên của quốc gia.
4.3.6. Biện pháp về nguồn nhân lực:
Đào tạo cán bộ quản lí giỏi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: Đổi mới công tác giáo dục Đại học – Cao đẳng. Nâng cao chất lượng chất lượng giảng dạy, đa dạng hoá các hình thức giảng dạy, có chính sách khuyến khích đối với cán bộ quản lí giỏi vì cán bộ quản lí là kim chỉ nam cho tất cả mọi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ đào tạo quản lí giỏi thuộc các thành phần kinh tế góp phần khai thác có hiệu quả nguồn lực của xã hội.
Đối với đào tạo nghề: Phối hợp với các ngành giáo dục- đào tạo định hướng cho học sinh chọn ngành nghề, khuyến khích phát triển các trường nghề, các trung tâm đào tạo chuyên viên kỹ thuật. Công tác phát triển nguồn nhân lực gồm đào tạo lại, đào tạo mới, trẻ hoá nguồn nhân lực, tổ chức các lớp học ngắn hạn, dài hạn. Khuyến khích các doanh nghiệp hợp đồng với cơ sở đào tạo trong nước, Việt Kiều để đào tạo chuyên sâu gắn với hệ thống ngành nghề của các doanh nghiệp, có sự quản lí của nhà nước. Đẩy mạnh hơn nữa công tác dạy nghề, đào tạo nhiều công nhân kỹ thuật, trang bị nhiều kiến thức thiết thực cho người lao động là biện pháp cực kì quan trọng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo nghề. Giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động.
4.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp:
Cải tiến một số chính sách phát triển kinh tế xã hội. Giảm bớt các khâu thủ tục hành chính. Nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền luật pháp vào đời sống nhân dân.Tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế, bằng cách ban hành bộ luật chung thống nhất, tạo chính sách đầu tư thông thoáng để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, huy động nguồn vốn to lớn từ ngoài nước.
5. Hiện trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một trong những nội dung chủ yếu nhất của quá trình thực hiện chiến lược CNH-HĐH là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, với ba bộ phận cơ bản hợp thành và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ là cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng, trong đó cơ cấu ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng.
5.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành.
5.1.1. Nền kinh tế từng bước được cấu trúc lại, đi dần vào thế ổn định.
Tăng trưởng cao đã góp phần quyết định kìm chế và giảm lạm phát. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm giai đoạn 1986-1995 được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm của nền Kinh tế (%)
1986-1990
1991-1995
1995
Toàn bộ nền kinh tế trong đó:
5,2
8,2
9,5
Công nghiệp
5,9
12,5
13
Nông nghiệp
3,6
4,3
4,5
Dịch vụ
-
11
9,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê- Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tốc độ tăng trưởng GDP/bình quân hàng năm của nền kinh tế trong năm 1991-1995 là 8,2%, Việt Nam về cơ bản đã ra khỏi khủng khoảng và tạo những cơ sở tốt cho sự phát triển tiếp theo.
5.1.2. Cơ cấu ngành của nền kinh tế:
Với định hướng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, tiến trình cơ cấu ngành của nền kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực và tiến bộ theo hướng ra tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, phù hợp với qui luật chuyển dịch cơ cấu trong quá trình CNH-HĐH. Theo hướng này, tốc độ tăng trưởng GDP của công nghiệp và dịch vụ đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp (bảng 2).
Bảng 2: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế.
Ngành
1991
1994
1995
Toàn bộ nền Kinh tế
100
100
100
Nông nghiệp
40,5
28,7
27,2
Công nghiệp
23,8
29,6
30,3
Dịch vụ
35,7
41,7
42,5
Nguồn : Niên giám thống kê 1994, Nhà xuất bản Thống kê, 1995, tr.71
5.1.3. Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh.
Đã có hơn 50 sản phẩm của Việt Nam được xuất đi trên 40 nước trên thế giới. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu 3 năm qua tăng bình quân hàng năm 20%. Các sản phẩm xuất khẩu của ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm gần đây chiếm khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu. Đứng đầu là dầu thô tiếp đó là gạo và hàng dệt may.
5.1.4. Đầu tư trong nước hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho chuyển dịch cơ cấu ngành ngày càng gia tăng.
Vốn đầu tư cơ bản của toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1994 chiếm 18,3% GDP. Trong đó khoảng 30% là vốn đầu tư tư nhân. Đây là một nét mới trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
5.1.5. Đầu tư nước ngoài trực tiếp là một cú hích ban đầu cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta, đặc biệt là các ngành định hướng xuất khẩu.
Chất lượng hàng công nghiệp ngày càng được nâng cao. Sản phẩm công nghiệp không chỉ có chỗ đứng ở thị trường nội địa mà còn tham gia vào xuất khẩu, tổng giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu đã tăng từ 298,4 triệu Rup-USD năm 1985 lên 10.000 triệu USD năm 2001, trong đó tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 9,01% năm 1985 lên 30,60% năm 2001 (bảng 3)
Bảng 3: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD.
Nhóm hàng
1985*
1990
1995
2001(ước)
Kim ngạch
%
Kim ngạch
%
Kim ngạch
%
Kim ngạch
%
Công nghiệp nặng và khoáng sản
62,9
9,01
616,9
25,66
1377,7
25,28
4600,0
30,60
Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
235,5
33,72
635,9
26,45
1549,8
28,44
5400,0
36,00
Nông sản
274,2
39,26
783,2
32,58
1745,8
32,04
3249,0
21,60
Lâm sản
40,5
5,80
126,5
5,26
153,9
2,82
Thuỷ sản
82,6
11,83
239,1
9,94
621,4
11,40
1178,0
11,80
Hàng hoá khác
2,7
0,39
2,4
0,10
0,3
0,01
Tổng số
698,5
100,0
2404,0
100,0
5448,9
100,0
15027,0
100,0
Đơn vị tính:Triệu Rup-USD.
Nguồn : Niên giám thống kê năm 1989, 1994, 2001, NXB Thống kê, Hà Nội,1990-2002{69}
Những hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và trong từng nội bộ nhóm ngành diễn ra còn chậm, tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn chưa phù hợp với yêu cầu chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Sự phát triển của một số lĩnh vực dịch vụ chưa đáp ứng với quá trình chuyển sang một nền kinh tế thị trường linh hoạt như tài chính, ngân hàng, còn thiếu những giải pháp điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, kiểm soát lạm phát, khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế còn yếu. Lĩnh vực bưu chính viễn thông, Internet đang duy trì mức giá khá cao so với các nước trên thế giới cũng như ở khu vực.
Các chính sách khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tư vấn, quản lí doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Thứ hai, phần lớn các sản phẩm công nghiệp có sức tăng trưởng nhanh lại là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn như thép, xi măng, khai thác dầu khí, lắp ráp điện tử và xe máy… nhiều sản phẩm trong số này mặc dù cung đã vượt cầu nhưng vẫn tiếp tục được đầu tư mở rộng, dẫn tới tình trạng lãng phí về đầu tư, nhất là các ngành thép, xi măng, mía đường…Theo Bộ Công nghiệp, tính đến năm 2001 thì công suất thép cán trong ngành xây dựng cả nước đạt xấp xỉ 3,5 triệu tấn /năm…Với nhu cầu thép gia tăng 10% thì sản lượng thép này đủ đáp ứng nhu cầu của năm 2010. Cơ cấu sản phẩm chưa có chuyển biến đáng kể, sản phấm công nghiệp xuất khẩu phần lớn từ khai thác tài nguyên, gia công, hàm lượng kỹ thuật thấp. Công nghệ còn lạc hậu, công nghiệp chế biến chưa phát triển. Giá một số sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cao hơn nhiều so với hàng nhập khẩu, chẳng hạn, ở thời điểm cuối năm 1999 “giá đường thế giới 200-250 USD/tấn, giá thành của Việt Nam từ 350-400 USD/tấn;… giá xi măng nhập khẩu về đến cảng của Việt Nam chỉ khoảng 40 USD/tấn, giá xi măng của Việt Nam từ 45-50 USD/ tấn”.
Thứ ba, xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế nghiêng vế các ngành có sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước hơn là hướng vào xuất khẩu. Ví dụ trong các sản phẩm công nghiệp chủ yếu thì nhóm sản phẩm “hướng nội” có tốc độ tăng trưởng là lớn nhất, năm 1999 so với năm 1990 sản phẩm thép tăng 1.211,9%, dầu thực vật tăng 266,3%, xi măng tăng 178,1%, xà phòng tăng 179,1%… trong khi nhóm sản phẩm có tỷ lệ xuất khẩu cao và sử dụng nhiều lao động là dệt – may thì mức tăng trưởng còn thấp mà chủ yếu lại là gia công, cùng thời điểm so sánh nêu trên, dầu thô tăng 555,5%, quần áo may sẵn tăng 243,9%… Điện, điện tử và một số ngành cơ khí như chế tạo ô tô, xe máy có hàm lượng kỹ thuật cao thì mới trong giai đoạn lắp ráp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn rất thấp, mặt khác, sức cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp còn yếu so với một số quốc gia trong khu vực. Chưa tạo được những ngành gắn kết với nhau để cùng hướng về xuất khẩu và tạo ra giá trị gia tăng cao. Điều này cho thấy chuyển dịch cơ cấu ngành chưa đáp yêu cầu của việc thực hiện CNH hướng về xuất khẩu.
Các yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu là do định hướng chiến lược, chính sách của nhà nước, nhất là chính sách bảo hộ sản xuất chưa rõ. Phương châm bảo hộ có chọn lọc chủ yếu vẫn dừng lại ở nguyên tắc chung. Cụ thể là nhà nước thông qua hàng rào phi thuế quan, gồm hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu cũng như các hình thức phi thuế quan khác… để hạn chế nhập khẩu. Mặt khác, mặc dù chế độ hai giá đối với hàng hóa dịch vụ đã bị xoá bỏ nhưng trên thực tế việc áp dụng chính sách kiểm soát giá để chống lại sự cạnh tranh qua giá trên thị trường đối với một số sản phẩm như điện thoại, bưu chính, vé máy bay, xăng dầu… vẫn tồn tại. Ngoài ra, do khả năng lựa chọn thị trường yếu kém, công nghệ lạc hậ._.u, trình độ quản lý còn bất cập… của phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh.
5.2. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
Trên cơ sở của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời với yêu cầu giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm lực kinh tế, Đảng ta đã thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp của các thành phần kinh tế có thể hợp tác, cạnh tranh bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, không phân biệt thành phần, đều là các thành phần cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới đến nay cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã có những chuyển biến lớn trong nền kinh tế, đã xuất hiện một số loại hình doanh nghiệp mới như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân… Việc biến đổi cơ cấu các loại hình doanh nghiệp này đã mở ra các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nhỏ, phù hợp với điều kiện thực tế dưới hình thức kinh tế hộ, cá thể, tiểu chủ, tạo điều kiện để thu hút hàng chục triệu lao động xã hội, góp phần quan trọng vào việc giải quyết công ăn việc làm trong xã hội.
Các thành phần kinh tế đã hình thành và phát triển với một cơ cấu tương đối đầy đủ trên địa bàn một số đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng… còn với các địa bàn ở các thị xã, thị trấn thì kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân mới chỉ hình thành với một quy mô nhỏ; kinh tế tập thể theo mô hình mới đang được xác lập, kinh tế nhà nước đã từng bước giảm dần, kinh tế tư bản nhà nước chưa có môi trường thuận lợi để hình thành; kinh tế hộ đang là chủ yếu, trên địa bàn nông thôn, sự chuyển sang kinh tế hàng hoá còn ở trình độ rất thấp, cơ cấu nhiều thành phần kinh tế chậm được hình thành và phát triển.
Đối với các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự phát triển khác nhau. Trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp chủ yếu do thành phần kinh tế hộ tạo ra, thành phần kinh tế nhà nước chỉ chiếm một phần rất nhỏ, các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Theo tỷ trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp thì công nghiệp quốc doanh đã giảm từ 49,6% năm 1996 xuống còn 32,2% năm 2000; tương ứng với thời gian trên, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của khu vực cá thể giảm từ 15,5% xuống 9,2%; ngược lại công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thuộc doanh nghiệp, công ty tư nhân, hỗn hợp đều có xu hướng gia tăng. Đối với thương nghiệp, trong khi thương nghiệp quốc doanh, thương nghiệp tập thể giảm thì thương nghiệp cá thể tăng.
Trong khi tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng tăng lên và tương đối ổn định thì tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế ngoài nước có xu hướng suy giảm. Riêng đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, dựa trên tiềm lực tài chính, công nghệ – kỹ thuật mạnh với cơ sở thị trường vững chắc (dựa chủ yếu vào việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa), dẫn đến tốc độ tăng trưởng thị trường nội địa khá cao và tỷ trọng đóng góp vào GDP có mức tăng đáng kể.
Trên thực tế phải đến năm 1990, các thành phần kinh tế mới hình thành và phát triển. Họ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó kinh tế nhà nứơc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân (trong các ngành then chốt như công nghiệp tư liệu sản xuất, công nghệ cao…), đóng góp khoảng 60-70% tổng thu nhập trong nước của ngân sách nhà nước, thu hút và tạo chỗ việc làm cho hơn một triệu lao động, đảm nhiệm những ngành nghề, lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn, kỹ thuật… thu hút vốn chậm hoặc ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nơi các thành phần kinh tế khác chưa đủ khả năng hay chưa dám bỏ vốn đầu tư. Cần nhấn mạnh là DNNN giữ vai trò quan trọng trong kinh tế nhà nước, đây là lực lượng nòng cốt đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô. Tốc độ phát triển sản xuất bình quân trong giai đoạn 1991-2000 của khu vực này được duy trì ở mức 11%/năm; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả kinh tế – xã hội và sức cạnh tranh của DNNN từng bước được nâng lên. Xét về cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế, đến nay tỷ trọng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 10%, còn lại là lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được khoảng 1% tổng lực lượng lao động xã hội.
Trong khi thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể không phải thành phần kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất thì thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân đã tạo ra một lượng công ăn việc làm khá lớn thu hút lao động xã hội hàng năm vào độ tuổi lao động, các lao động dôi dư thuộc biên chế nhà nước và do qúa trình sắp xếp lại doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do mỗi suất đầu tư cho một chỗ làm việc mới có khoảng cách rất xa giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã tạo ra những tiền đề để đưa nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, trong đó việc hình thành và phát triển cơ cấu nhiều thành phần kinh tế giữ một vị trí quan trọng. Nhiều cơ chế, chính sách mới được ban hành nhằm khuyến khích mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, điển hình là dưới tác động của Luật Doanh Nghiệp (mới). Tính đến tháng 9 năm 2001 đã có 23.000 doanh nghiệp mới được thnàh lập, với số vốn khoảng 25.000 tỷ đồng, tạo ra khoảng 500.000 chỗ lao động mới. Do vậy, có thể nói rằng việc hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra những tiền đề cần thiết để đưa nền kinh tế Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế còn một số yếu kém khuyết điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, xét về hiệu quả kinh tế, nhìn chung mức độ đạt hiệu quả của các thành phần kinh tế ở mức chưa cao, nhất là thành phần kinh tế nhà nước. Chẳng hạn, phần lớn DNNN chỉ có khả năng tái sản xuất giản đơn vì quá trình đầu tư đổi mới công nghệ – kỹ thuật còn chậm, trình độ công nghệ lạc hậu; tỷ lệ có lãi rất ít, chủ yếu hoạt động cầm chừng và thua lỗ; quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt mà nhà nước cần nắm giữ. Nhìn chung, trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thật sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sức cạnh tranh còn thấp, nợ không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc làm còn lớn. Hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự đầu tư, trợ giúp của nhà nước. Trong khi thu hút một lượng vốn rất lớn (khoảng 85-90%) từ ngân sách nhà nước nhưng khả năng thu hút tổng số lao động trong nền kinh tế rất thấp (khoảng 5%). Còn đối với các bộ phận khác của kinh tế nhà nước thì hiệu quả hoạt động đạt được cũng rất thấp chưa đáp ứng với vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Thứ hai, Hiến pháp (1992) đã khẳng định về sự bình đẳng trước pháp luật đối với mọi thành phần kinh tế nhưng trên thực tế các chính sách đã và đang tồn tại lại thiếu sự bình đẳng cần thiết cho các thành phần kinh tế. Chẳng hạn, nếu DNNN muốn liên doanh với nước ngoài thì họ được dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào hợp tác liên doanh trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không được ưu đãi này; hoặc họ chẳng những được sử dụng trên dưới 3/4 tổng tín dụng của các ngân hàng thương mại mà còn được hưởng nhiều ưu đãi khác nữa như đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ… khi cần thiết. Nhưng chính họ lại chịu nhiều áp lực hơn về bảo đảm việc làm đối với người lao động, so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đối với doanh nghệp tư nhân do có hạn chế về vốn, năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh nên sự phất triển còn hạn chế. Nhìn tổng thể ở nông thôn, kinh tế hộ sau nhiều năm vẫn đang trì trệ trong mô hình hiện hành. Còn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động sản xuất kinh doanh có xu hướng “hướng nội” thay thế nhập khẩu hơn là hướng về xuất khẩu. Điều này đi ngược lại chiến lược CNH hướng về xuất khẩu mà nước ta đang thực hiện.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu do chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng, trong nhiều trường hợp cụ thể, vẫn chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức. Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp, môi trường kinh tế và luật pháp còn thiếu sự thông thoáng. Đây là nhân tố hàng đầu làm nản lòng các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn cồng kềnh, chồng chéo. Việc phát triển đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường và tạo lập một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế còn chậm. Mặt khác, về bản thân các doanh nghiệp thuộc từng thành phần kinh tế còn chưa xác định đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Đặc biệt, với những chính sách ưư đãi riêng đối với từng thành phần kinh tế, nhà nước chưa tạo ra một môi trường chung dẫn đến sự phân bịêt đối với thành phần kinh tế.
5.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng.
Cơ cấu vùng kinh tế được xác định là một vấn đề trọng điểm trong cơ cấu kinh tế, nó chẳng những quan hệ trực tiếp đến mục tiêu phát triển, cân đối trên địa bàn cả nước mà còn kết hợp phát triển kinh tế với chính sách xã hội. Chuyển dịch cơ cấu vùng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta.
Đến nay, việc phân vùng kinh tế ở Việt nam vẫn còn những quan niệm khác nhau, ở đây chỉ phân tích thiên về cách phân loại vùng kinh tế theo các vùng phát triển và vùng chậm phát triển, đô thị và nông thôn.
Vùng phát triển gồm các khu tập trung đô thị và công nghiệp thuộc vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng, hành lang ven biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận (bao gồm ba vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, Trung, Nam). Trong đó vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Bắc gồm tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh; ở miền Nam gồm tam giác tăng trưởng TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai – Bà Rỵa- Vũng Tàu và ở miền Trung là Đà Nẵng – Dung Quất. Ba vùng kinh tế trọng điểm này chỉ chiếm 25% dân số của cả nước nhưng tập trung tới 40% dân số đô thị, khoảng 70% cán bộ khoa học có trình độ cao, đóng góp trên 50% GDP và khoảng 70-75% nguồn thu ngân sách của cả nước.
Vùng chậm phất triển gồm phần lớn lãnh thổ của vùng Tây Bắc, một phần vùng Đông Bắc, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa ở Tây Nguyên, ứng với các xã khó khăn ở khu vực III miền núi và một số nơi khó khăn ở ven biển và đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng…
Đô thị được hiểu là điểm tập trung dân cư với mật độ cao (các thị trấn trở lên). Có hạ tầng cơ sở thích hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, trong huyện… Nông thôn được hiểu là phần lãnh thổ kinh tế – xã hội còn lại, không phải là khu vực đô thị…
Trong giai đoạn vừa qua cơ cấu vùng kinh tế đã có chuyển biến tích cực, ba vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc- Trung- Nam đã góp phần trong việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu vùng, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc và miền Nam đã có những thay đổi đáng kể (sản phẩm tham gia xuất khẩu, thu nhập của người dân được tăng lên…) trong tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong tổng giá trị gia tăng của cả nước với mức tăng trưởng bình quân khá cao, đạt trên 7,6%/năm giai đoạn 1991-1999, thì tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt được là ở các vùng phát triển, năm1990 mức đóng góp cho GDP cho cả nước của ba vùng này chiếm 30%, trong đó đóng góp giá trị gia tăng công nghiệp chiếm 45%, dịch vụ chiếm 30%, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 16%, đến năm 1999 con số tương ứng là 53%, 65%, 53%, 14%. Đây là các vùng có điều kiện tự nhiên cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao, mức độ tập trung nhu cầu phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trường nơi có những yếu tố tạo sức hút đầu tư mà các vùng khác không có được. Mặt khác, cùng với sự tồn tại và phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm việc hình thành 66 khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao trong đó có 48 khu công nghiệp và khu chế xuất đã đi vào hoạt động chủ yếu là ở ba vùng kinh tế trọng điểm (phần lớn tập trung ở miền Đông Nam Bộ), là tiền đề quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế.
Ngược lại, ở phần lớn các vùng chậm phát triển và vùng nông thôn tốc độ tăng trưởng chung thấp xa hơn các đô thị, đóng góp cho GDP của cả nước, năm 1990 chỉ chiếm 6,7%, trong đó đóng góp giá trị gia tăng công nghiệp chiếm 6,1%, dịch vụ chiếm 7,0%, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 16,4%. Đến năm 1999 con số tương ứng là 9,4%, 6,4%, 8,0%, 21,2%. Theo ước tính GDP bình quân đầu người của vùng chậm phát triển chỉ bằng 1/4 của vùng phát triển.
Cơ cấu kinh tế vùng từng bước được chuyển dịch theo hướng tăng khai thác thế mạnh của từng vùng, hình thành các vùng trọng điểm trên cả nước. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho vùng chậm phát triển ước vào khoảng 2.400-2.500 tỷ VNĐ, trong đó vốn đầu tư cho công trình quốc gia khoảng 2.000 tỷ VNĐ và đầu tư cho định canh, định cư hơn 400 tỷ VNĐ. Bên cạnh việc khuyến khích ba vùng kinh tế trọng điểm thu hút các nguồn vốn đầu tư nhà nước đã có những cơ chế, chính sách khuyến khích nhằm đầu tư nhiều hơn, hỗ trợ cho nông thôn, các xã khó khăn và đặc biệt khó khăn cho các công trình xoá đói giảm nghèo. Nhưng hiệu quả sử dụng vốn xét về mặt kinh tế thường là không cao.
Việc tập trung thu hút đầu tư vào ba vùng kinh tế trọng điểm, nhất là vùng trọng điểm kinh tế miền Bắc và miền Nam không chỉ đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà đầu tư, mà còn thúc đẩy các vùng khác phát triển. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng đã có những chuyển biến. Nếu như các dự án FDI, trong những năm đầu đổi mới, chủ yếu tập trung ở khu vực phía Nam, khu vực phía Bắc chỉ chiếm 25% dự án với 20% vốn đăng ký thì đến năm 1999 con số này là 28,5% số dự án với 39% vốn đăng ký. Vùng phát triển chiếm gần khoảng 80% tổng số vốn đầu tư trực tiếp trong khi vùng chậm phát triển với gần 90% lãnh thổ và khoảng 84,5% dân số nhưng chỉ thu hút được khoảng 20% tổng số FDI (không kể vốn đầu tư vào lĩnh vực dầu khí).
Công nghiệp và các tiềm lực kinh tế của nước ta tập trung chủ yếu ở các vùng phát triển. Công nghiệp tập trung hơn vào các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, nhất là các ngành bưu điện, xi măng và vật liệu xây dựng, sắt thép, dầu khí phân bố rộng khắp và liên kết theo quy mô toàn quốc và khu vực, từng bước hình thành và phát triển các vùng trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung. Bên cạnh đó là việc phát triển các xí nghiệp quy mô vừa, nhỏ gắn với cơ sở nguyên liệu nông, lâm, ngư nghiệp, vật liệu xây dựng và khai thác khoáng sản. Bước đầu đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông, lâm, khoáng sản, hàng hoá. Đặc biệt các vùng đều có tiềm năng xuất khẩu khá lớn. Chẳng hạn, giai đoạn 1990-2000, chỉ tính riêng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các vùng Đông Bắc, duyên hải miền Trung và Tây Nguyên cũng có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhưng do xuất phát điểm thấp nên thu nhập từ xuất khẩu bị hạn chế. Trong giai đoạn 1996-2000 các sản phẩm xuất khẩu ở các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung lại dựa chủ yếu vào nông sản trong khi quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước hết là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra chậm. Tính đơn điệu của cơ cấu xuất khẩu, chất lượng sản phẩm thấp làm cho hiệu quả của xuất khẩu không cao. Mặt khác, các cửa khẩu hoạt động kém phát triển hơn một số vùng khác, năng lực cạnh tranh sản phẩm thấp hơn so với Tây Nguyên (mặt hàng cà phê), việc chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu yếu so với Tây Nam Bộ (mặt hàng thuỷ sản)…
Nhìn chung, đối với vùng đô thị và vùng nông thôn đều có những tiến bộ đáng kể, đô thị phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng, tuỳ theo các cấp độ khác nhau, nhiều đô thị chuyển dần từ chức năng hành chính sang chức năng kinh tế. Đối với vùng nông thôn cũng có những tiến bộ đáng kể, đời sống của phần lớn người dân được nâng lên. Số vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các vùng chậm phát triển đã có tác động tích cực nhiều mặt đến tác động kinh tế- xã hội của khu vực này. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu của vùng chậm phát triển, thực chất chỉ là quá trình tự điều tiết và điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư với sự hỗ trợ tích cực của nhà nước.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu vùng còn một số yếu kém chủ yếu sau:
Thứ nhất, tuy đã hình thành một số vùng trọng điểm mũi nhọn, nhưng vẫn chưa có một chiến lược cơ cấu vùng tổng thể, trong đó xác định rõ mức độ, thứ tự, hướng đi về quy mô và thời gian nên trong chỉ đạo thực hiện vẫn còn hiện tượng dàn trải. Mặc dù, không có vùng nào không quan trọng, nhưng do khả năng phát triển ở mỗi thời điểm là có hạn, nên việc xác định thứ tự ưu tiên sau, trước luôn là cần thiết, cho dù không rõ ràng. Nếu không khó có thể hy vọng có được sự đột phá để phát triển. Việc nghiên cứu vấn đề này hiện đang được đặt ra cấp thiết nhằm khắc phục những yếu kém trong chiến lược cơ cấu vùng.
Thứ hai, mặc dù đã có sự dàn trải trong đầu tư phát triển vùng, song do sự kết hợp, bổ sung cho nhau giữa các vùng còn yếu nên sự chênh lệch giữa các vùng (nhất là đô thị và nông thôn) lại có xu hướng gia tăng.
Thứ ba, trong nội bộ mỗi vùng, sự phát triển về nguyên tắc dựa trên việc khai thác những lợi thế so sánh. Song việc xác định lợi thế so sánh cụ thể của mỗi vùng dường như vẫn chưa có những kết luận có căn cứ khoa học vững chắc. Thực ra, việc làm này không phải dễ do lợi thế so sánh là cái chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố phản ánh giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế, trong bối cảnh toàn cầu hoá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đáng tiếc rằng yếu tố phản ánh này lại là một biến số, rất khó dự đoán. Vì vậy, có lẽ đây lại là một vấn đề cần sớm nghiên cứu để khắc phục mặt yếu của chiến lược phát triển cơ cấu vùng hiện nay.
Những yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng bao trùm lên cả là chưa thực sự có một chiến lược phát triển vùng tổng thể theo đúng xu hướng của nó. Thêm vào đó hệ thống cơ chế, chính sách còn chưa cụ thể với đặc thù của từng vùng, việc sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tế của từng vùng, từng địa bàn trọng điểm còn rất chậm, thiếu tổng kết rút kinh nghiệm. Chưa có các chính sách kết hợp giữa các vùng phát triển và các vùng chậm phát triển, giữa đô thị và nông thôn ở mức cần thiết. Chưa chú trọng đầu tư một cách hợp lý và thoả đáng cho từng vùng.
Như vậy, cùng với sự thay đổi đường lối và cơ chế thực hiện CNH của thời kì đổi mới vừa qua cơ cấu kinh tế đã bước đầu có sự chuyển dịch đáng ghi nhận. Cơ cấu GDP theo ngành đã có sự chuyển đổi khá rõ theo hướng gia tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu vùng cũng có sự chuyển đổi đáng kể theo hướng hình thành một số vùng trọng điểm, vùng động lực và vùng chuyên canh sản xuất nông phẩm hàng hoá. Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển đổi rõ rệt theo hướng hình thành một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nêu trên đã làm thay đổi một phần diện mạo của nền kinh tế so với trước đây và góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng trong những năm qua.
Chương II: ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với doanh nghiệp.
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế – Những thời cơ và thách thức đối với doanh nghiệp.
Bước vào thế kỉ 21.Việt Nam đang đứng trước bộn bề các vấn đề phát triển kinh tế- xã hội. Hiện trạng kinh tế – xã hội của đất nước ta với những thách thức và khó khăn cho sự phát triển của nước ta trong những năm tới.
1.1. Thời cơ và những thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
1.1.1. Hội nhập khu vực và quốc tế - Cơ hội và sự phát triển.
Ngày nay, đối với một nước đang phát triển như nước ta thì tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ tạo ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hoạt động.
Cơ hội rõ nét nhất cho sự phát triển đó là sự bùng nổ của khoa học công nghệ, thông tin. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sẽ tác động rất lớn và tích cực trong quá trình CNH- HĐH đất nước cũng như đối với cộng đồng các dân tộc.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức cùng với xu thế toàn cầu hóa sẽ tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở những hiệp định thương mại đã kí kết với các nước trong khu vực và thế giới. Mởu dịch tự do ASEAN sẽ khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đẩy nhanh các hoạt động đầu tư, thương mại trong và ngoài nước. Trên con đường gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng trực tiếp những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo qui chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của WTO vì vậy hàng hóa sẽ được xuất khẩu vào các nước dễ dàng hơn, mở ra thị trường ngày càng rộng lớn.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài vào. Theo dự tính ban đầu của các chuyên gia dự báo kinh tế trong giai đoạn 2001- 2005, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) được thu hút khoảng từ 10 ->12 tỷ USD. Nhìn chung ngoài việc cung cấp tài chính thông qua các dự án đầu tư nước ngoài, công nghệ được chuyển giao, tay nghề của người lao động được nâng cao, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được tăng cường.
Bên cạnh đó một nguồn rất quan trọng là vốn hỗ trợ chính thức ODA với dự tính thực hiện trong giai đoạn 2001- 2005 sẽ đạt khoảng 9 tỷ USD. Đây là nguồn vốn rất quan trọng cho tăng trưởng dài hạn.
1.1.2. Những thuận lợi - Động lực khơi dậy thị trường kinh doanh.
Thuận lợi cơ bản nhất của nước ta là có chế độ chính trị vững vàng, sự ổn định chính trị – xã hội luôn luôn được giữ vững tạo nền tảng và môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đây là đặc điểm thu hút đầu tư mạnh mẽ từ nước ngoài vào trong nước.
Thế và lực nước ta đã được nâng cao hơn trước cùng với khả năng khai thác các nguồn lực từ lao động, đất đai, tài nguyên vùng biển, vùng trời cho phép chúng ta khai thác nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài.
Môi trường kinh doanh thuận lợi khuyến khích làm giàu chính đáng, vừa đảm bảo sự quản lí cần thiết của nhà nước là đòn bẩy mạnh mẽ cổ vũ các doanh nghiệp, với chủ trương phát triển kinh tế quốc doanh, phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện để khu vực tư nhân phát huy hết tiềm năng, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do kinh doanh hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Bên cạnh đó là chủ trương chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tăng năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng linh hoạt với tình hình thế giới. Các ngành có khả năng tăng trưởng cao, hiệu qủa và hàm lượng khoa học công nghệ cao sẽ được ưu tiên phát triển, do đó các doanh nghiệp điện tử, tin học, phần mềm…sẽ có điều kiện mở rộng thị trường, phát triển sản xuất, khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường trong nước và thế giới.
Về chính sách giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Để đáp ứng mục tiêu CNH- HĐH đất nước. Nhà nước nhấn mạnh: “phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của công cuộc CNH- HĐH ”(Đại hội VIII, 1996). Với tinh thần đó nhà nước chủ trương lấy giáo dục và đào tạo cùng khoa học và công nghệ làm khâu đột phá của sự nghiệp CNH- HĐH (NQTƯ 2, khóa 8, 1996), “ khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, trong đó nguồn nội lực trung tâm là con người được đào tạo” để hoàn thành CNH- HĐH [NQTƯ 4, khóa 8,1997]
Với phương châm con người là trọng tâm trong quá trình CNH-HĐH đất nước, chính sách giáo dục và đào tạo đã không ngừng được nâng cao.
Giáo dục, cao đẳng, đại học:
Báo cáo ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa 7 tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Tháng 6-1996 nhấn mạnh “ Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp với đào tạo nghiên cứu nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ mới”.
Nhà nước đã có hàng loạt các chính sách về giáo dục đại học, cao đẳng. Thực hiện mở rộng hệ thống các trường lớp, đẩy mạnh hợp lí qui mô đào tạo cao đẳng, đại học, cao học, nghiên cứu sinh [Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương thực hiện, đánh giá, NXB Chính trị Quốc gia,Hà nội 2002].
Bên cạnh các trường lớp chính quy còn đạo tạo tại chức. Khuyến khích mở rộng các trường dân lập. Đổi mới công tác giảng dạy bên cạnh đó thu hút mọi người tham gia vào chương trình học tập. Nhà nước thực hiện chính sách giảm học phí một phần hoặc toàn bộ đối với những học sinh thuộc các vùng nông thôn, miền núi, các đối tượng chính sách…
Hiện nay các trường cao đẳng, đại học ở nước ta tăng cả về qui mô và loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ cho các thành phần kinh tế khác nhau.
Đối với đào tạo nghề:
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đội ngũ công nhân ỹĩ thuật nước ta thiếu trầm trọng, bên cạnh các trường đại học, cao đẳng nhà nước đặc biệt quan tâm đến hệ thống đào tạo nghề cho người lao động. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp, hoàn thiện nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội, đào tạo lực lượng công nhân lành nghề, xây dựng các trung tâm dạy nghề, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp [ Giáo dục và đào tạo trong thời kì đổi mới,chủ trương thực hiện, đánh giá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002].
Khuyến khích các cơ sở, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp quan tâm đến tự học, tự đào tạo nghề cho người lao động. Mở rộng các loại hình đào tạo, tăng qui mô và chất lượng giảng dạy ở các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật từ trung ương đến địa phương để phục vụ cho nhu cầu việc làm của xã hội. Giai đoạn 10 năm đổi mới(1987-1996) giáo dục nghề nghiệp đã đạt được những thành quả đáng kể: Đã hình thành mạng lưới cơ sở đào tạo rộng khắp đất nước bao gồm 174 trường dạy nghề, 244 trường trung học chuyên nghiệp, gồm 400 trung tâm dạy nghề và trung tâm kỹ thuật thực hành, hướng nghiệp dạy nghề….Mỗi năm có khả năng đào tạo cho gần 500.000 người lao động [Giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, NXB Giáo dục-1998]. Nhìn chung giáo dục nghề nghiệp đã đáp ứng kịp thời về cơ bản cho nhu cầu nhân lực của nền kinh tế, tuy nhiên lao động kỹ thuật vẫn còn thiếu trầm trọng. Nhà nước nên quan tâm nhiều hơn đến công tác đào tạo nghề cho nền kinh tế. Tránh tình trạng như hiện nay đào tạo quá nhiều đại học, cao đẳng trong khi đó công nhân lành nghề thiếu trầm trọng.
1.2. Những thách thức trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh những thuận lợi không phải là không có những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
1.2.1. Thách thức trong thời kì mở cửa.
Tính cạnh tranh của nền kinh tế nước ta được đánh giá là rất thấp: Bước vào thế kỉ 21, nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển, năng lực cạnh tranh còn kém nhiều quốc gia trong khu vực, trong khi đó xu thế toàn cầu hóa diễn ra là không thể tránh khỏi.
Tham gia toàn cầu hóa tức là chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu, mà cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ 1997- 1998 là ví dụ điển hình. Toàn cầu hóa có thể dẫn tới hậu quả làm giảm mạnh nguồn thu ngân sách do giảm mạnh nguồn thu xuất nhập khẩu, thường đó là nguồn thu đáng kể cho ngân sách đối với các nước đang phát triển như nước ta.
Toàn cầu hóa đó là tình trạng “chảy máu chất xám” trong khi nền kinh tế còn yếu kém thì điều gì sẽ xảy ra đối với các doanh nghiệp khi thiếu đi các doanh nhân giỏi, những lao động giỏi. Đây là thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Khó khăn nổi cộm đối với nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ đặc trưng của đất nước, một nền kinh tế lạc hậu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, phải nhập cuộc với cuộc đua tranh gay gắt, tốc độ tăng trưởng GDP trong mấy năm cuối chậm lại. Sự tụt hậu xa hơn là một thách thức lớn và nghiêm trọng khi các cam kết đa phương hóa và song phương hóa trong hội nhập không còn xa.
Trước yêu cầu phát triển mới, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới còn mang tính “chợ tạm” các mặt hàng chiếm thị phần nhỏ và luôn bị chèn ép. Theo lộ trình đến năm 2006 nước ta thực hiện các cam kết AFTA, các mặt hàng nông sản vốn là thế mạnh của nước ta sẽ bị cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa.
Quá trình cổ phần hóa và đổi mới cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm, kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Giải quyết tốt vấn đề cổ phần hóa sẽ tạo ta môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hội thu hút đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ. Bước sang thế kỉ 21 vấn đề công nghệ của các doanh nghiệp càng trở nên nổi cộm hơn bởi so với mức trung bình của các nước trong khu vực, công nghệ nước ta đang lạc hậu trong khi các nước khác lại rất chú ý đầu tư cho khu vực này, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trải qua 15 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã hình thành trên đại thể song còn rất sơ khai, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt, công tác đổi mới đi vào chiều sâu gắn với hội nhập kinh tế quốc tế sẽ vấp phải trở lực do nhận thức chưa chuyển kịp, do thói quen của cách làm ăn cũ còn in sâu và đụng chạm đến lợi ích của cục bộ cá nhân, thách thức đối với nước ta là phải đối mặt vượt qua những trở lực nội sinh từ khuyết điểm, nhược điểm của bộ máy lãnh đạo và quản lí nhà nước. Cơ chế quản lí mới chưa hình thành đầy đủ, các mối quan hệ chức năng của nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, giữa kế hoạch và thị trường còn mờ nhạt, lúng túng, không đồng bộ do vậy chưa phát huy hết tiềm năng sáng tạo của các doanh nghiệp, việc điều hành thị trường còn nhiều thiếu sót, không kịp thời, để xảy ra tình trạng mất cân đối cung cầu một số mặt hàng ở một số thời điểm, một số nơi. Thị trường trong nước còn diễn ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh như trốn thuế, buôn lậu, không đăng kí kinh doanh…điều đó đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân và b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35464.doc