Chuyên đề Quản lý chất lượng

Yêu cầu 1. Phân biệt các Mô hình Quản lý Chất lượng : ISO - 9000, TQM, GMP, HACCP, Q - BASE và 5 - S ? 2. Nhà nước có vai trò gì trong việc đưa các Mô hình Quản lý Chất lượng sản phẩm vào các doanh nghiệp Việt Nam ? 3. Trình bày các giải pháp để xây dựng các Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam ? 4. Để nâng cao Chất lượng Đào tạo sinh viên Đại học, các Trường cần phải làm gì ? ----- › @ & ? š ----- Phần I : Phân biệt các Mô hình Quản lý Chất lượng : ISO - 90

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chuyên đề Quản lý chất lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00; TQM, GMP, HACCP, Q - BASE, và 5 - S Chúng ta biết rằng, Mô hình Quản lý Chất lượng là một tập hợp dưới dạng sơ đồ các yếu tố, các giai đoạn và các biện pháp bảo đảm chất lượng. Mối quan hệ hữu cơ giữa chúng tạo thành một cấu trúc chỉnh thể nhằm hình thành và bảo đảm chât lượng tối ưu trong suốt cả chu kỳ sống của sản phẩm, phù hợp với các quan điểm về Quản lý Chất lượng đã lựa chọn. Tuy nhiên, thuật ngữ "Quản lý Chất lượng" là một khái niệm mới được áp dụng trong những năm gần đây; khi mà các nhà Quản lý và những người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều hơn về Chất lượng sản phẩm thì "Quản lý Chất lượng" lại càng được nói đến và thực hiện theo nó nhiều hơn. Trong đó, một số Mô hình Quản lý Chất lượng đã và đang được quan tâm nhiều hơn cả là ISO - 9000, TQM, GMP, HACCP, Q - BASE, và 5 - S. Nếu xét về phương diện Mục tiêu tự thân của các Mô hình trên đây thì cơ bản là chúng đều giống nhau, song nghiên cứu kỹ hơn về bản chất, chúng ta sẽ thấy vẫn có sự khác biệt. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, căn cứ vào mức độ, phạm vi và lĩnh vực áp dụng, ta có thể chia các Mô hình nói trên thành 3 nhóm: - Nhóm 1 gồm : ISO - 9000, TQM, và Q - BASE - Nhóm 2 gồm : GMP và HACCP - Nhóm 3 gồm : 5 - S Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu lần lượt sự khác biệt trong từng nhóm và sau đó là sự khác biệt giữa các nhóm với nhau. I. Nhóm 1 : ISO - 9000, TQM, Q - BASE : ISO - 9000 : Mô hình Quản lý Chất lượng dựa theo bộ tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO). TQM : Mô hình Quản lý Chất lượng Toàn diện. Q - BASE : Hệ thống Quản lý Chất lượng . 1. Xét Về mặt Nguyên lý : Cả 3 Mô hình này đều thống nhất ở chỗ : áp dụng Hệ thống Quản lý Chất lượng theo quá trình, lấy phòng ngừa làm phương châm hành động chính trong suốt cả quá trình Sản xuất, hay trong suốt cả vòng đời của sản phẩm (từ khâu thiết kế, chế tạo, sản xuất, phân phối, tiêu dùng, và dịch vụ ...) . Từ đó, Q - BASE, TQM và ISO - 9000 có quan điểm chung là "thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng". Nhưng nếu xét theo mức độ áp dụngcác tiêu chuẩn ( từ Q - BASE, TQM đến ISO - 9000 ) thì có cao dần lên. ĐIều này thể hiện ở chỗ : * Hệ thống Quản lý Chất lượng Q - BASE đơn giản hơn và được xem xét như là một bước khởi đầu để chuẩn bị cho việc áp dụng ISO - 9000. * Mô hình Quản lý Chất lượng Toàn diện TQM cũng là Mô hình Quản lý Chất lượng theo quá trình, nhưng lại mang tính bắt buộc và áp đặt theo một Hệ thống các tiêu chuẩn về Chất lượng. TQM phức tạp hơn Q - BASE và tương đối hoàn chỉnh nhưng lại cứng nhắc hơn (trong việc áp dụng) so với ISO-9000. * Mô hình Quản lý Chất lượng theo Bộ tiêu chuẩn ISO - 9000 là Mô hình dựa vào một Hệ thống bao gồm các tiêu chuẩn chất lượng mang tính mềm dẻo và linh hoạt hơn. Mục đích của ISO - 9000 không phải là áp đặt các tổ chức thực hiện theo bộ tiêu chuẩn, mà ở đây Hệ thống các tiêu chuẩn đưa ra chỉ để hướng dẫn cho phù hợp với từng Doanh nghiệp (tuỳ thuộc vào tầm nhìn, cách thức Quản lý, yếu tố Văn hoá, cách thực hiện, ngành nghề Sản xuất kinh doanh, loại sản phẩm hay dịch vụ cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. 2. Xét về mặt phạm vi áp dụng: Như trên đây đã nêu, do mức độ tiêu chuẩn giữa 3 Mô hình Q - BASE, TQM, và ISO - 9000 là khác nhau, nên phạm vi áp dụng của nó cũng khác nhau theo hướng tăng cường dần lên : * Q - BASE là Hệ thống Quản lý Chất lượng do tổ chức TELARC (New Zealand) đưa ra, rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do dễ dàng áp dụng. Ngoài ra, nó cũng thích hợp với các tổ chức mới bắt đầu thực hiện các biện pháp Quản lý Chất lượng. * TQM (Hệ thống Quản lý Chất lượng Toàn diện) được hình thành và phát triển đầu tiên ở nước Mỹ. Phạm vi áp dụng của nó chỉ thích hợp với các doanh nghiệp Sản xuất . * ISO - 9000 là Mô hình Quản lý Chất lượng dựa theo bộ tiêu chuẩn Chất lượng Quốc tế do tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (International Organization for Standardization) ban hành lần đầu tiên vào năm 1987. Đây là Mô hình Quản lý Chất lượng theo quá trình, chú ý tập trung đến mọi công việc trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, điều quan trọng và ưu việt hơn so với các Mô hình Quản lý Chất lượng khác là ở chỗ : những tiêu chuẩn đưa ra của ISO - 9000 không mang tính chất bắt buộc mà nó chỉ là hướng dẫn cho tổ chức nào muốn cam kết thực hiện Quản lý Chất lượng theo quá trình, vì thế nó rất linh hoạt nên có thể áp dụng trên một phạm vi rất rộng, hầu hết là trên tất cả các lĩnh vực hoạt động (Từ Sản xuất, kinh doanh hay các lĩnh vực dịch vụ, hành chính hoặc các tổ chức chính trị Xã hội đều có thể áp dụng ISO - 9000). Như vậy, rõ ràng, trong khi Q - BASE chỉ áp dụng được đối với các doanh nghiệp vừa và nhở thì TQM và ISO - 9000 lại có thể áp dụng được cho nhiều loại tổ chức hơn, và nếu như ISO - 9000 quy định phải làm gì để Quản lý Chất lượng nhưng không nói rõ phải làm như thế nào thì TQM lại chỉ cho chúng ta biết cách thức thực hiện để Quản lý Chất lượng. II. Nhóm 2 gồm GMP và HACCP: Trong đó : -GMP : Hệ thống Thực hành Sản xuất tốt (Good Manufacturing Practice) -HACCP : Hệ thống phân tích, xác định, kiểm soát các điểm nguy hại, trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm. Đây là các Mô hình đảm bảo Chất lượng Vệ sinh An toàn, áp dụng đối với các cơ sở Sản xuất, chế biến thực phẩm và dược phẩm. Tuy cùng áp dụng trong một ngành Sản xuất nhưng mức độ áp dụng của hai Mô hình này lại không giống nhau. ĐIều này, thể hiện ở 2 điểm sau đây : 1. Mô hình GPM: là Hệ thống bảo đảm Chất lượng Vệ sinh An toàn áp dụng đối với các cơ sở ( tổ chức ) Sản xuất chế biến thực phẩm và dược phẩm. GMP đưa ra các tiêu chuẩn nhằm kiểm soát tất cả mọi hoạt động, các yếu tố có ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng, kiểm soát cả các hoạt động của con người. 2. Còn Mô hình HACCP: là Hệ thống đảm bảo Chất lượng thực phẩm được thừa nhận và phổ biến trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên muốn áp dụng thành công Mô hình này thì phải áp dụng thành công Mô hình GMP trước đã. Bởi vì chính GMP mới tập trung vào hoạt động kiểm soát các yếu tố trong quá trình Sản xuất. Còn HACCP chủ yếu lại tập trung vào kiểm soát các yếu tố mang tính công nghệ của quá trình Sản xuất. III. Nhóm 3 : Mô hình 5 - S: 5 - S là viết tắt của 5 chữ cái đầu tiên của các từ sau : Seiri (Sàng lọc) Seiton (Sắp xếp) Seiso (Sạch sẽ) Seiketsu (Săn sóc) Shitsuke (Sẵn sàng) Chúng ta đã biết, sự khởi đầu cho việc hình thành của mọi Hệ thống Quản lý Chất lượng là ở Nhật Bản từ những năm 1950. Trong đó, Mô hình 5 - S chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Các hoạt động của 5 - S chủ yếu là giữ gìn nhà xưởng, nơi làm việc của mọi thành viên trong tổ chức một cách gọn gàng, ngăn nắp nhằm hai mục đích: - Dễ nhận thấy các lãng phí - Cải tiến hiệu năng, hiệu suất và tính an toàn. IV. Sự khác biệt giữa các nhóm nêu trên : trong khi nhóm 1 là Hệ thống Quản lý Chất lượng theo quá trình, nó chú ý đến từng công việc trong mỗi giai đoạn, và có thể được áp dụng đối với nhiều loại hình tổ chức Sản xuất, kinh doanh. dịch vụ, hành chính hay tổ chức chính trị Xã hội (ISO). Còn nhóm 2 là Hệ thống bảo đảm Chất lượng Vệ sinh, An toàn áp dụng ch các doanh nghiệp Sản xuất chế biến thực phẩm và dược phẩm. Các hoạt động của nhóm này chú ý đến hành vi kiểm soát quá trình Sản xuất và kiểm soát các yếu tố mang tính công nghệ của quá trình Sản xuất được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước (doanh nghiệp Sản xuất và chế biến thực phẩm dược phẩm) trên phạm vi toàn thế giới. Thì nhóm 3 (Mô hình 5 - S) chỉ là sự khởi đầu cho các Hệ thống Quản lý Chất lượng (trong đó có cả nhóm 1 và 2). ở đây, nếu chúng ta chỉ đơn thuần nhìn vào nội dung thì 5 - S là một chương trình hoạt động rất đơn giản và dễ dàng thực hiện. Tuy nhiên, để thành công với Mô hình này, điều quan trọng là phải thương xuyên chú ý đến yếu tố con người, ý thức tự giác, thái độ, hành vi chuẩn mực cũng như những biều hiện khác. Đấy chính là kết quả của giáo dục, đào tạo, trình độ dân trí, văn hoá, khoa học kỹ thuật công nghệ ... Tóm lại, qua phân tích trên đã phần nào cho chúng ta thấy, giữa các Mô hình Quản lý Chất lượng có sự khác biệt (về lĩnh vực và phạm vi áp dụng; về tư tưởng và cách thức thực hiện). Mặt khác, việc áp dụng các Mô hình Quản lý Chất lượng ở nước ta là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là các tổ chức doanh nghiệp phải lựa chọn một Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình. Phần II : Vai trò của Nhà nước trong việc đưa các Mô hình Quản lý Chất lượng vào các Dn Việt Nam. Quản lý Chất lượng là một vấn đề mang tính chất sống còn trong giai đoạn hiện nay đối mỗi tổ chức mỗi doanh nghiệp, vì nó tạo cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường. Và thực tế đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào có áp dụng các Mô hình Quản lý Chất lượng thì sẽ thành công. ĐIều này, một phần lớn là nhờ vai trò của Nhà nước trong việc đưa các Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp vào các doanh nghiệp Việt Nam : - Nhà nước tạo môi trường pháp lý, sân chơi công bằng, bình đẳng, và các văn bản hướng dẫn quan trọng để mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện chủ động và sáng tạo trong việc áp dụng các Mô hình. - Nhà nước là chủ thể tiến hành các hoạt động nghiên cứu, dự báo tình hình áp dụng, tiếp thu trực tiếp những sự thay đổi của các Mô hình; tiến hành tuyên truyền, giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng các nghiệp vụ liên quan đến các vấn đề Quản lý Chất lượng; tiến hành hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thông tin, tiêu chuẩn hoá các hoạt động đo lường chất lượng ... - Nhà nước là chủ thể quản lý, nên phải thường xuyên có kế hoạch xây dựng và triển khai các chủ trương chính sách đúng đắn trong lĩnh vực Quản lý Chất lượng nhằm động viên khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng các Mô hình Quản lý Chất lượng đáp ứng sự mong đợi của khách hàng và các nhà đầu tư. - Nhà nước cũng phải thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các cam kết khi áp dụng các Mô hình QLCL. Từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời những khuyết tật, những rủi ro, hay những vấn đề khác thuộc lĩnh vực này được phát sinh trong quá trình thực hiện. - Một vấn đề nữa là Nhà nước phải tạo ra khuôn khổ hành chính đơn giản gọn nhẹ, cùng với các thủ tục nhanh gọn, thuận lợi, nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành áp dụng các Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp. Những vai trò trên đây, trong thực tế, Nhà nước đã được thực hiện được một số các hoạt động như sau : * Ban hành Pháp lênh Chất lượng hàng hoá mới (thay thế Pháp lệnh Chất lượng năm 1990), chuyển từ chỗ thực hiện việc kiểm tra - kiểm soát bằng các biện pháp hành chính sang việc tăng cường chức năng Quản lý của Nhà nước bằng các biện pháp cụ thể, nhanh gọn và dân chủ công bằng : Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá năm 1999 quy định nội dung Quản lý Nhà nước về Chất lượng hàng hoá từ tầm vĩ mô đến vi mô. Từ việc xây dựng các chính sách, ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật về hàng hoá và Chất lượng hàng hoá; tổ chức các hoạt động thanh tra - kiểm tra việc chấp hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá, Quản lý hoạt động chứng nhận Chất lượng hàng hoá, chứng nhận Hệ thống Quản lý Chất lượng của từng doanh nghiệp. - Thành lập Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng là cơ quan Quản lý Nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng có trách nhiệm tiến hành tổ chức nghiên cứu lý luận, nghiệp vụ về QLCL; tổ chức tuyên truyền giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực phẩm chất và trình độ; thu thập thông tin, tiếp thu những thành tựu mới về QLCL trên thế giới ... - Cuối năm 1997, Bộ Thuỷ sản đã ban hành danh mục hàng hoá chuyên ngành Thủy sản và bắt buộc các cơ quan đơn vị nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản phải đăng ký đảm bảo Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. - Năm 1998, Bộ Y tế cũng đã ban hành Danh mục các loại hàng hoá thực phẩm dược phẩm phải đăng ký Chất lượng. - Nhà nước cũng đã có các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động kiểm tra hàng hoá Xuất nhập khẩu để tăng sức cạnh tranh giữa hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, nâng cao uy tín về Chất lượng sản phẩm của hàng hoá Việt Nam, thiết lập và mở rộng thị trường để xuất khẩu, đồng thời ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, ngăn chặn các luồng hàng giả, kém chất lượng xâm nhập vào thị trường Việt Nam. - Nhà nước cho phép các doanh nghiệp áp dụng hình thức tự công bố, đăng ký áp dụng và chứng nhận Hệ thống Quản lý Chất lượng theo các Mô hình phù hợp (như ISO - 9002, ISO - 14000, Q - BASE, GMP, HACCP ...) Những biện pháp cụ thể của Nhà nước nói trên đã có tác động tích cực đối với các doanh nghiệp Việt Nam: - Nhiều Doanh nghiệp đã thay đổi căn bản nhận thức về Quản lý Chất lượng : từ chỗ xem công tác Quản lý Chất lượng chỉ là công tác kiểm tra, và chỉ tập trung vào đội ngũ một số cán bộ - nhân viên KCS sang việc xem Quản lý Chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp. - Các Doanh nghiệp mạnh dạn tiến hành đổi mới tổ chức các hoạt động Quản lý, tổ chức lại quá trình nghiên cứu nhu cầu thị trường, thiết kế, chế tạo và sản xuất các sản phẩm; đầu tư cho khoa học - công nghệ, đổi mới và tăng cường năng lực cho cán bộ Quản lý và toàn thể nhân viên... Phần III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc xây dựng các mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp với các Doanh nghiệp Việt Nam Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp là Mô hình Quản lý có tính thực tế và khả thi cao, có tính đến : - đặc điểm sản phẩm kinh doanh (tiêu dùng nội địa hoặc xuất khẩu) - đặc điểm Sản xuất - kinh doanh (chất lượng hàng công nghiệp hình thành chủ yếu trong các khâu của quá trình Sản xuất, chất lượng hàng thực phẩm còn liên quan chặt chẽ tới quá trình chế biến trước như chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt ...) - trình độ hiện tại và triển vọng phát triển tương lai của các loại hình doanh nghiệp. Là Mô hình hoàn chỉnh, hướng về cách Quản lý tiên tiến, nhưng có phân ra từng khâu, từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng. Để thúc đẩy hơn nữa tiến trình xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam, mặt khác để các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm (hàng hoá - dịch vụ) của mình bằng một Hệ thống Chất lượng phù hợp, đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, xin kiến nghị một số giải pháp cơ bản sau: I. Các giải pháp Vĩ mô: 1. Nhanh chóng xây dựng Chính sách và Chiến lược Chất lượng của Việt Nam hướng ra Xuất khẩu cho giai đoạn đầu của Thế kỷ 21: Sau năm 1995, Chúng ta đã triển khai được một số đề tài cấp Nhà nước nhằm xây dựng các Chính sách quốc gia về chất lượng cũng như xây dựng chiến lược Chất lượng đến năm 2010 và định hướng cho các giai đoạn tiếp sau. * Giai đoạn 1996 - 2000: Là giai đoạn chuyển đổi hay giai đoạn hội nhập. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho việc tăng tốc độ phát triển để đuổi kịp các nước đi trước. Đây là giai đoạn mà chúng ta cần có để khắc phục tình trạng yếu kém về Chất lượng sản phẩm kéo dài nhiều năm cũng như tình trạng tụt hậu về công nghệ, hạ tầng cơ sở, máy móc thiết bị cùng với việc thiếu thốn, trình độ tổ chức quản lý ở nhiều doanh nghiệp quá yếu kém. Mặt khác đó cũng là thời gian chúng ta cần để xoá bỏ triệt để cơ chế cũ, hình thành và hoàn thiện cơ chế mới, cải tiến sự quản lý của Nhà nước cho phù hợp với yêu cầu thời đại. Đồng thời cần chuẩn bị tốt các điều kiện (như Hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ trong lĩnh vực Quản lý Chất lượng và trong kinh doanh để tạo đà cho sự phát triển ...). Mục tiêu chính của giai đoạn này là chuyển đổi tư những quan điểm nhận thức lỗi thời, cách thức làm ăn cũ sang quan niệm, nhận thức mới, cách thức làm ăn mới phù hợp với cơ chế của nền Kinh tế thị trường. Nhiệm vụ phải làm trong giai đoạn này là: - Tăng cường sự đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới, nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân để có thể làm tốt hơn công việc của mình. - Tăng cường các hoạt động thông tin tuyên truyền, hướng dẫn những phương pháp Quản lý Chất lượng mới, những mô hình Quản lý Chất lượng thích hợp và truyền đạt những kinh nghiệm của các nước ... - Doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới các nhận thức và cách tiếp cận Quản lý Chất lượng, đưa ra các giải pháp để khắc phục một cách tích cực tình trạng yếu kém về chất lượng, không ngừng tận dụng các cơ hội đầu tư, sửa chữa hoặc nâng cấp trang thiết bị, máy móc cải tiến và đổi mới công nghệ, thiết kế, đổi mới phương pháp Quản lý Chất lượng trong các doanh nghiệp... - Xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng thích hợp trong doanh nghiệp và huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả Hệ thống QLCL trong doanh nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu đa dạng, phong phú của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải hoàn chỉnh khung thể chế cho sự vận động của nền kinh tế thị trường, tiến hành những cải cách cơ bản Hệ thống tài chính, ngân hàng, tạo thị trường vốn, thị trường các yếu tố Sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh, khuyến khích họ đảm bảo và nâng cao Chất lượng, cải tiến Chất lượng, cải tiến năng suất và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế đất nước. * Giai đoạn 2001 - 2010: Là giai đoạn tăng tốc: Mục tiêu của giai đoạn này là phải đưa hàng hoá Việt Nam gia nhập với thị trường khu vực và thế giới. Chất lượng hàng hoá Việt Nam ổn định và có xu hướng nâng cao, tạo uy tín trên thị trường quốc tế. Trong đó một số mặt hàng đạt chất lượng ngang hàng với những mặt hàng đứng đầu thế giới. Hàng nội địa phải đạt được trình độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và Sản xuất trong nước, đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu. Nhiệm vụ phải làm trong giai đoạn này là: - Tiếp tục công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao dân trí, nâng cao kiến thức và tay nghề của người lao động, tiếp tục giới thiệu rộng rãi các phương thức Quản lý Chất lượng tiên tiến, tiếp thu các Mô hình Quản lý Chất lượng toàn diện vào các doanh nghiệp Việt Nam. - Hoàn thiện và phổ biến các Mô hình Quản lý Chất lượng tiên tiến trong nước, đưa phong trào Chất lượng đi vào chiều sâu với các hạt nhân là các "Câu lạc bộ Chất lượng", các "Nhóm Chất lượng" tại các Doanh nghiệp và các "Diễn đàn Chất lượng" trong các ngành và các khu vực khác nhau trong cả nước. - Tăng cường đầu tư để nâng cấp nhanh chóng hạ tầng cơ sở từ kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, y tế, văn hoá... - Đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng năng lực nội sinh về Khoa học - Kỹ thuật và Công nghệ. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách cho công cuộc đổi mới. - Phát triển các ngành Công nghiệp theo hướng Xuất khẩu, đẩy mạnh các ngành kinh tế và nhờ đó có điều kiện nâng cao Chất lượng sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ). * Giai đoạn vươn tới tầm cao về chất lượng sau 2011: Mục tiêu là phải đưa nước ta trở thành một nước được thế giới công nhận là quốc gia có trình độ chất lượng cao, sản phẩm Việt Nam hoà nhập được vào thị trường thế giới một cách vững chắc. Nhiệm vụ đặt ra là các Doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng và hoàn thiện các Mô hình Quản lý Chất lượng tiên tiến và có hiệu quả thực sự, làm đà cho sự phát triển liên tục và bền vững trong tương lai lâu dài. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay, sự phát triển chất lượng chưa phản ánh được đúng tốc độ, đúng trình độ mà các định hướng đã nêu trên. Nếu so với mục tiêu đề ra cho giai đoạn 1996-2000 trong chiến lược phát triển chất lượng, thì sự phát triển chất lượng trong các doanh nghiệp và trong cả nước nói chung chưa đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, Nhà nước cần sớm đưa ra những văn bản có tính pháp lý về định hướng phát triển Chất lượng chung cho cả nước và chính sách chất lượng, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố, đến các giải pháp hướng Sản xuất kinh doanh để xuất khẩu, để làm động lực thúc đẩy quá trình đổi mới về QLCL. Mặt khác, cũng là căn cứ để kiểm tra tiến độ phát triển của từng giai đoạn, qua đó có những giải pháp thích hợp để điều chỉnh kịp thời những sai lệch của việc đề ra mục tiêu, định hướng cũng như điều chỉnh cho phù hợp với sự biến đổi phức tạp của thị trường. 2. Cải tiến công tác Quản lý cấp Nhà nước về công tác Quản lý Chất lượng, thể hiện rõ trách nhiệm vĩ mô của Nhà nước về vấn đề Chất lượng : Cácnhiệm vụ đặt ra là : - Nhà nước cần có sự phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp một cách rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn giữa các bộ phận quản lý của Nhà nước, các ngành, tránh những chồng chéo, tiếp tục cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục phiền hà cho các doanh nghiệp trong quá trình QLCL. - Nhà nước phải có những khuyến khích nhất định đối với các doanh nghiệp SX-KD các loại hàng hoá và dịch vụ có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, Nhà nước phải cố gắng tạo môi trường pháp lý về chất lượng để các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình SX-KD của mình. - Về mặt tổ chức, Nhà nước cần cải tiến mạnh mẽ hơn nữa để thể hiện rõ được vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc QLCL vĩ mô, tránh việc hình thành nhiều các tổ chức, và nhiều thủ tục phiền hà cho các doanh nghiệp. - Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng là nơi đại diện của Nhà nước về lĩnh vực Quản lý Chất lượng, cần tăng cường hơn nữa cả về mặt khả năng và quyền hạn của mình để xứng đáng với tầm quản lý. Bên cạnh đó phải xây dựng được các Hệ thống tiêu chuẩn đánh giá Chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam . - Cần chính thức thành lập Hội đồng Quốc gia trực thuộc Chính phủ để làm tư vấn cho Nhà nước về công tác Chất lượng và Quản lý Chất lượng. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là tiếp tục cải cách hành chính, tránh các thủ tục phiền hà trong các hoạt động nhằm tăng tính hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong đó có Hội đồng chất lượng Quốc gia. 3. Phát động và thúc đẩy hơn nữa phong trào chất lượng, nâng cao hơn nữa hiệu quả của giải thưởng Chất lượng : Giải thưởng Chất lượng Việt Nam được duy trì đều đặn hàng năm là hoạt động nòng cốt của phong trào chất lượng Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần có những cải tiến hơn nữa trong việc tổ chức giải thưởng Chất lượng hàng năm, để giải thưởng thực sự có nề nếp và có chất lượng, phản ánh đúng thực chất năng lực và ưu thế của các doanh nghiệp đoạt giải. 4. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo về Chất lượng nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thức chất lượng không những cho các doanh nghiệp mà cho cả người tiêu dùng, cho toàn Xã hội, để chất lượng thực sự trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các doanh nghiệp và thực sự đi vào đời sống, tạo đà thúc đẩy sự phát triển "tăng tốc" cho nền kinh tế Việt Nam và cho Xã hội Việt Nam trong giai đoạn đầu của Thế kỷ 21 cũng như sự phát triển bền vững trong tương lai. Chất lượng không thể tự nhiên mà có, chất lượng chỉ có thể có được bằng việc thực hiện hàng loạt các hoạt động một cách có kế hoạch, có định hướng, bằng việc sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực mà con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất trong việc hình thành và cải tiến Chất lượng. Vì vậy, con người cần phải được giáo dục và đào tạo. Chỉ có con người được đào tạo, được giáo dục mới giám chịu trách nhiệm với bản thân mình trước tập thể, mới có đủ năng lực và tự nguyện cống hiến hết sức mình cho tổ chức. - Ngoài các Doanh nghiệp - chủ thể chịu trách nhiệm phải tạo ra sản phẩm có chất lượng luôn luôn đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, thì khách hàng cũng phải là người tham gia tích cực vào việc duy trì Chất lượng sản phẩm, đồng thời cũng là nơi có thể cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà kinh doanh trong việc cải tiến chất lượng. Vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục và đào tạo cần được mở rộng hơn nữa ra toàn xã hội để chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm không ngừng được nâng cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Các biện pháp căn bản là : - Đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục thông qua nhiều hình thức khác nhau, qua các khoá đào tạo, phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt cần mở các lớp tập huấn, các cuộc hội thảo về chất lượng cho các lãnh đạo doanh nghiệp và các cán bộ Quản lý Nhà nước. - Khuyến khích và hướng dẫn tạo điều kiện cho các trường Đại học, các viện nghiên cứu xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo về các hệ thống Quản lý Chất lượng và những vấn đề có liên quan đến chất lượng cho sinh viên ngành quản trị kinh doanh để tạo ra một thế hệ cán bộ Quản lý Chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường trước mắt và trong tương lai lâu dài. - Nhanh chóng hình thành đội ngũ chuyên gia đầu đàn có trình độ, kinh nghiệm và tâm huyết với việc tuyên truyền, quảng bá, giảng dạy và tư vấn xây dựng mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam. - Cần xây dựng và triển khai một số dự án lớn về giáo dục và đào tạo Chất lượng cho các doanh nghiệp hoặc theo khu vực, ngành hoặc nhóm ngành để việc đào tạo đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt là phải có sự hỗ trợ, ưu tiên đối với các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 5. Nhà nước cần có các Chính sách về vốn, nguồn tài trợ để khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng mới phù hợp với những đặc trưng và các nguồn lực của mình. Cần có các Chính sách về Thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp mới xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng trong một thời gian nhất định. Sự hỗ trợ của Nhà nước có thể là việc ưu tiên các doanh nghiệp bằng cách cung cấp về vốn từ các nguồn khác nhau như: Vốn ODA, chính sách ưu đãi về vốn ngân sách, lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp giảm bớt được những sự khó khăn trong khi tiến hành xây dựng và duy trì Hệ thống Quản lý Chất lượng của mình, đóng góp cho Xã hội những hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt phục vụ tối đa nhu cầu người tiêu dùng, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và toàn Xã hội. 6. Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải tiến Hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp hđ, đảm bảo quyền lợi cho cả người tiêu dùng và các nhà kinh doanh; tạo ra sân chơi và luật chơi thực sự công bằng, bình đẳng và thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nói chung và cho lĩnh vực Quản lý Chất lượng nói riêng. Thực tế vai trò Quản lý của Nhà nước về Chất lượng hiện nay vẫn còn nhứng điều cần được cải tiến. Việc tồn tại hàng chục tổ chức tư vấn và tổ chức chứng nhận nước ngoài về lĩnh vực Quản lý Chất lượng hoạt động một cách tự do, không có những nguyên tắc và thể chế hoạt động cụ thể là một điều bất cập. Để học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới , việc hợp tác quốc tế và các chuyên gia nước ngoài trong việc tư vấn xây dựng Hệ thống Chất lượng và chứng nhận Hệ thống Chất lượng của các doanh nghiệp và các tổ chức trong nước là điều cần thiết. Song cũng cần thấy được những khó khăn nhất định trong hoạt động của các tổ chức nước ngoài trong việc hươngs dẫn các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh, đặc trưng nền văn hoá nước ta. Mặt khác, cũng cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài trong việc tư vấn xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như tổ chức chứng nhận trong nước nhằm đảm bảo sự công bằng đồng thời có sự khuyến khích các tổ chức tư vấn và tổ chức chứng nhận trong nước. 7. Để thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế về mặt thương mại và dịch vụ, nhất là trong phạm vi các nước ASEAN, Việt Nam đã ký một Hiệp định khung ASEAN về các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA), Nhà nước cần đẩy mạnh triển khai các Chính sách, các biện pháp nhằm thực hiện các cam kết của Hiệp định khung nay cũng như các MRA của các Chuyên ngành. - Nhà nước cần tạo điều kiện để các tổ chức chuyên ngành của Việt Nam tham gia tích cực vào việc xây dựng các tiêu chuẩn và kiến nghị đối với sự đánh giá mức phù hợp của các cơ quan hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế.... - Nhà nước cũng tạo các điều kiện thuận lợi cho các nước tham gia vào hoạt động này của Việt Nam thông qua việc tăng cường các hoạt động thông tin, tư liệu cho hoạt động. Nhà nước hỗ trợ việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở kiểm tra, chứng nhận Chất lượng và tận dụng sự trợ giúp kỹ thuật cũng như thái độ đối xử ưu đãi đối với các nước đang phát triển mà Việt Nam là một trong các nước được cộng đồng quốc tế chú ý và quan tâm. - Ngoài ra, các Doanh nghiệp và Nhà nước Việt Nam cũng cần chuẩn bị tinh thần và điều kiện để dần dần chấp nhận các văn bản pháp quy kỹ thuật quốc tế hoặc tương đương của các thành viên tham gia hiệp định khung cũng là một biện pháp quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. II. Các giải pháp Vi mô: 1. Cần tăng cường nhận thức và cam kết của lãnh đạo Doanh nghiệp đối với việc xây dựng Mô hình Quản lý Chất lượng của Doanh nghiệp mình. - Lãnh đạo doanh nghiệp cần có nhận thức đúng đắn, am tường về những vấn đề có liên quan đến chất lượng, xác định mục tiêu chiến lược chất lượng ; cam kết xây dựng và duy trì cũng như cải tiến hệ thống quản lý chất lượng trong doanh nghiệp của mình. Sự cam kết sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động trong doanh nghiệp, thể hiện mối quan tâm và trách nhiệm của lãnh đạo đối với hoạt động chất lượng. 2. Mở rộng việc giáo dục và đào tạo về Mô hình Quản lý Chất lượng đến mọi nhân viên trong tổ chức. - Con người là nguồn lực quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực của công ty khi áp dụng mô hình QLCL. Vì vậy, con người cần được đào tạo để có kiến thức và các kỹ năng để làm tốt các công việc của họ. - Các doanh nghiệp cần hiểu rằng : Chất lượng sản phẩm được tạo ra bởi sự tham gia của tất cả mọi người trong doanh nghiệp. - Việc đào tạo cũng cần phù hợp với từng đối tượng về thời gian, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo cũng như cách truyền đạt các kiến thức. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại cán bộ, nhân viên theo trình độ nghề nghiệp, kỹ năng tay nghề để xác định nhu cầu đào tạo cho tất cả các đối tượng. Từ đó có kế hoạch và chiến lược đào tạo bồi dưỡng đúng đắn và có hiệu quả. 3. Thay đổi lại cơ cấu tổ chức Doanh nghiệp theo hướng nhấn mạnh vai trò của Chất lượng trong Doanh nghiệp. - Theo mô hình cơ cấu tổ chức hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp không có phòng quản lý chất lượng mà bộ phận kiểm tra chất lượng thường được đặt trong phòng kỹ thuật hoặc phòng KCS. Trách nhiệm về chất lượng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35011.doc
Tài liệu liên quan