Lời nói đầu
Bước vào thế kỷ XXI thế kỷ của sự hội nhập hoá và hợp tác hoá ,Việt nam là một nước xã hội chủ nghĩa nhưng chúng ta cũng không nằm ngoài tiến trình đó .Hội nhập hoá như là xu thế tất yếu của thời đại ,hội nhập hoá đem lại những thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng mặt khác nó cũng đem lại những thách thức và khó khăn cho những nước đang phát triển như ở Việt nam.
Việt nam với lợi thế của nước đi sau chúng ta đã học hỏi được rất nhiều từ các nước đi trứơc và cũng rút ra bài học từ
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính bản thân mình , chúng ta đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới để nâng cao hiệu quả kinh tế và chỗ đứng trên trường quốc tế .Vì vậy em đã chọn đề tài “ Chủ động hội nhập kinh tế thế giới của Việt nam”.Trong khi viết không chánh khỏi những thiếu sót mong được sự bổ sung góp ý của thầy giáo cho đề tài được phong phú hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy !
Sinh viên
Vũ văn Tuyên
Phần nội dung
I. Sự cần thiết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam
1.1. Bối cảnh quốc tế mới khi Việt Nam tiến hành hội nhập cùng thế giới
Xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh.Các nước lớn nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế ,theo đuổi chính sách kinh tế mở.Đồng thời cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu như môi trường ,dân số nghèo đói, dịch bệnh,khủng hoảng và suy thoái của một số nền kinh tế ,an ninh và trật tự kinh tế ...không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được ,mà cần phải có sự hợp tác.
Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội nhập để phát triển Nghĩa là hội nhập trở thành xu thế tất yếu khách quan ,lôi kéo tất cả các quốc gia, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không giao lưu ,hợp tác với khu vực và thế giới.
Tiến vào thế kỷ XXI Việt Nam đang thực hiện đường lối kinh tế và chiến lược phát triển mà đại hội Đảng lần IX đã chỉ rõ : “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá- , hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp...” ; “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực , nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN , bảo vệ lợi ích dân tộc , giữ vững an ninh quốc gia , phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ” Trong khi đó bối cảnh của nền kinh tế thế giới và khu vực đã có rất nhiều thay đổi . Nền kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ và xu hướng toàn cầu hoá đang là một xu thế phát triển tất yếu của thời đại .
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc , mặc dù tình hình trên thế giới còn có nhiều diễn biến phức tạp , các điểm nóng xung đột , các mâu thuẫn tiềm tàng còn đe doạ sự ổn định ở nhiều nơi , nhưng hoà bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc , các quốc gia . Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc , đặc biệt trong lĩnh vực tin học , viễn thông , sinh học , vật liệu mới và năng lượng , đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn. Tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với cường độ mạnh , trình độ cao hơn đã làm thay đổi cơ cấu các nghành sản xuất và dịch vụ mạnh mẽ hơn và sâu sắc hơn . Các ngành kinh tế trở nên mếm dẻo hoá , khu vực kinh tế vá phi kinh tế được mở rộng ,>có quy mô lớn hơn> nhiều lần . Cơ cấu lao động theo các ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc xuất hiện nhiều nghề mới , những nghề với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ (KH- CN). Đồng thời đưa thế giới bước sang một nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức . Do tác động của cách mạng KH-CN ,của sự phân công lao động quốc tế , do vai trò và tầm hoạt động mới của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia , quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiêù sâu trên hai cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá , đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới , đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu đẩy mạnh việc tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh . Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng sâu rộng , từ đó tạo nên thế phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dù lớn hay nhỏ , dù phát triển hay không phát triển . Rõ ràng trong khung cảnh quốc tế hiện nay khi mỗi quốc gia đều tập trung mọi nỗ lực của mình vào xây dựng kinh tế phát triển đất nước thì hợp tác kinh tế để phát triển đã trở thành một yêu cầu khách quan không thể thiếu .Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ lại có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi , đan xen và nhiều tầng cấp như hiện nay . Nền kinh tế ngày càng phát triển hơn thì những quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới cũng ngày càng phát triển hơn tạo nên một xu thế nổi bật trong quan hệ quốc như trong nghị quyết đaị hội VIII đã nhận định :> .
Những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của quá trình liên kết khu vực , liên kết toàn cầu về kinh tế . Đó là sự ra đời của các tổ chức hợp tác kinh tế như ASEAN và khu vực mậu dịch tự do AFTA , khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA , liên minh Châu Âu EU, tổ chức hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương , hội nghị á-Âu ASEM ... Các tổ chức liên kết kinh tế khu vực dưới dạng khu vực mậu dịch tự do hoặc khu vực hợp tác để phát triển đã được hình thành ở mọi nơi . Hiện nay đã đạt được con số ~ 50 và bao gồm nhiều nước thành viên có trình độ phát triển và chế độ chính trị khác nhau . Cuối cùng trên phạm vi toàn cầu là tổ chức thương mại thế giới WTO được xem như một liên hợp quốc về kimh tế hiện có 133 nước thành viên , chiếm 90% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới. Các tổ chức hợp tác kinh tế thương mại thế giới và khu vực đều hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung kết hợp với đặc thù của từng quốc gia , khu vực . Song nói chung đều là những diễn đàn vừa liên kết vừa cạnh tranh , vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau , giữa các nước có trình độ phát triển cao và các nước đang phát triển , chậm phát triển . Vai trò to lớn của toàn cầu hoá là tạo cơ hội phát triển kinh tế cho mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới , giúp cho việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có trên trái đất hợp lí hơn , tạo điều kiện cho các nước thành viên phát triển những mặt mạnh riêng của mình , phát huy tối đa nội lực , bổ sung lẫn nhau để phát triển tương đối đồng đều. Nhưng đồng thời trong quá trình toàn cầu hoá này cũng đưa ra những thách thức to lớn ở nhiều góc độ khác nhau như : sự gia tăng các rủi ro kinh tế , khủng hoảng tài chính ,tiền tệ khu vực , sự sụt giảm thương mại toàn cầu . Chỉ cần một mắt xích quan trọng trong sợi xích nền kinh tế một khu vực hoặc toàn cầu bị hỏng thì sẽ lan truyền và làm suy giảm nền kinh tế của cả khu vực và thế giới . Ví dụ sự kiện ngày 11/9/2001 ở Mỹ đã kéo theo sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu ; cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan đã lan khắp ASEAN năm 1997 ...Trong quá trình này , những nước có nền kinh tế mạnh thường thu được lợi nhiều hơn còn những nước yếu dễ bị thua thiệt , bởi toàn cầu hoá mở rộng thị trường diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt , song là cuộc chạy đua không cân sức . Những nước có tiềm lực lớn , có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt lợi ích của họ dường như tăng thêm khoảng cách giàu nghèo .Vì thế trên thế giới vẫn diễn ra những cuộc biểu tình chống toàn cầu hoá của những nước nghèo . Nhưng với thể chế hợp tác đa phương giữa các nước thành viên , các nước kém phát triển có khả năng đấu tranh để tạo lập những luật chơi công bằng bình đẳng để bảo vệ lợi ích của mình , đồng thời tranh thủ những ưu đãi hợp lí cho mình phát triển nhằm tạo điều kiện thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và chậm phát triển chứ không bị động theo sau .
Trong tình hình quốc tế nói trên , bất cứ một nước nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung , điều chỉnh chính sách giảm dần hàng rào thuế quan , làm cho việc trao đổi hàng hoá , luân chuyển vốn , lao động , công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thoáng hơn . Việt Nam không phải là một ngoại lệ , vấn đề là phải chọn tiến trình hội nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và quá trình phát triển cuả từng nước .
Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .
Đứng trước sự phát triển vượt bậc của thế giới về kinh tế và KH-CN Việt Nam vẫn là một trong những nước được xếp vào loại nghèo nhất thế giới . GDP bình quân đầu người còn thấp , chưa thoát khỏi ranh giới nghèo khổ , máy móc thiết bị công nghệ thuộc tất cả các ngành , các lĩnh vực trong nền kinh tế trong nền kinh tế nước ta còn thấp hơn mức trung bình thế giới từ 1 đến 3 thế hệ công nghệ , do đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm , giá thành và khả năng cạnh tranh trên thị trường . Trong khi đó xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang phát huy những vai trò tích cực của nó , mở ra những cơ hội cho những nứơc kém phát triển và đang phát triển như Việt Nam . Để có thể đưa đất nước phát triển lên thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu , thì chỉ có con đường duy nhất là tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài phát huy nội lực phát triển đất nước . Thực tế đã chứng minh không thể có một nước nào dù lớn dù giàu đến đâu cũng không thể tự mình sản xuất được tất cả những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng nhu cầu của mình . Trên thế giới các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau , có quan hệ qua lại với nhau . Trong lịch sử không có nước nào có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh mà lại không tích cực mở cửa hội nhập kinh tế . Vì thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị roưi vào lạc hậu . Trái lại mở cửa hội nhập kinh tế thế giới có thể phải trả một giá nhất định song đó là một yêu cầu đối với sự phát triển đất nước . Trước kia khi vẫn còn hệ thống các nước XHCN , Việt Nam chỉ có quan hệ thương mại với các nước trong hệ thống này và được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước Đông Âu .Sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã trên thế giới chỉ còn lại 4 nước vẫn tiếp tục theo con đường tiến lên XHCN , Việt Nam trở nên yếu ớt trước sự phát triển của thế giới tư bản khi vẫn áp dụng một cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp . Để đi theo con đường đã chọn , Đảng và nhà nước ta quyết tâm xây dựng phát triển đất nước ngày càng phát triển hơn đưa nước ta tiến lên CNXH. Nhận thức được điều đó đại hội VI của Đảng 12/1986 trong khi quyết định chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN thì cũng đồng thời chủ trương Việt Nam phaỉ tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Đại hội VII (6/1991) đã đưa ra những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo tổng quát cho việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi >
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm nêu trên . Gần đây đại hội IX lại nhấn mạnh rằng:>
Đã xác định được hội nhập nền kinh tế thế giới là một yêu cầu khách quan, nhưng Đảng cũng khẳng định là phải xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập . Chúng ta nhất quán chủ trương đa phương hoá , đa dạng hoá , tranh thủ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của nước ta , giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế . Bởi có một bất lợi rất lớn trong quá trình hội nhập toàn cầu hoá đó là toàn cầu hoá tạo ra nguy cơ làm mất đi độc lập tự chủ của một quốc gia dẫn đến sự phụ thuộc về chính trị . Vì thế độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng đảm bảo sự bền vững của độc lập tự chủ về chính trị . Độc lập tự chủ thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình , tự quyết định các chủ trương , chính sách kinh tế xã hội , tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch cho từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó . Độc lập tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới .Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự cấp tự túc , xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh , hướng nội đã đựơc kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới , cũng như kinh nghiệm của bản thân chúng ta chứng minh là không phù hợp với xu thế chung của thời đại và không có hiệu quả , đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển . Và một khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục thì sẽ làm xói mònlòng tin của nhân dân , làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải , tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự , an toàn xã hội và điều đó rốt cuộc khiến chúng ta khó giữ vững được con đường phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với CNXH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Cách đây trên một thế kỷ ,jose Marti , người thầy của nền độc lập Cuba đã nói một câu có ý nghĩa triết lý sâu xa : “Quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước , còn quốc gia nào chỉ buôn bán với một nước thôi thì không tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy’’ . Câu nói đó càng làm sáng tỏ thêm các luận điểm mà Đảng ta đã nêu lên để chỉ đạo tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay
2. Những cơ hội đem lại cho Việt Nam khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến hệ quả tất yếu là các quốc gia phải mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào xu thế này , từng bước ký kết các hiệp định song phương , khu vực và địa phương Là một nước đang phát triển , tham gia hội nhập kinh tế thế giới nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển .
2.1 Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực và trên thế giới .
Những năm trước đây thương mại của Việt Nam chủ yếu giao dịch với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu . Từ sau 1990 thương mại đã chuyển hướng mạnh sang thị trường khu vực Đông Nam á và Đông Bắc á . Khi cuộc khủng hoảng tài khu vực bùng nổ lượng cầu của khu vực bị giảm sút , chúng ta đã chủ động mở cửa ra thị trường mới , nhất là thị trường EU và Bắc Mỹ . Sản phẩm của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có chất lượng cao nên tỉ trọng xuất khẩu rất cao góp phần nâng cao năng suất xuất khẩu của nền kinh tế . Hội nhập kinh tế đã tạo nên những mỗi quan hệ kinh tế chính trị chằng chịt đan xen phụ thuộc lẫn nhau góp phần nâng cao vị thế quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam tham gia bình đẳng trong các giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế . Đặc biệt tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép tạo dựng , củng cố và sử dụng tốt những cơ sở pháp lí cần thiết như : chế độ tối huệ quốc (MFN) , đối xử quốc gia (NT) và cơ chế giải quyết tranh chấp để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử , bảo vệ quyềnvà lợi ích của mình trong các quan hệ kinh tế đối ngoại . Tham gia hội nhập kinh tế ta còn tranh thủ và khai thác những quy chế , điều kiện ưu đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước chậm phát triển và đang phát triển để bảo đảm hội nhập có hiệu quả vừa bảo hộ hợp lí và phát triển vững chắc các ngành sản xuất của Việt nam .
2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tạo điều kiện kinh tế phát triển nhanh .
Hội nhập kinh tế thế giới Việt Nam có cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn nước ngoài tăng thêm nguồn lực cho phát triển , nhất là khi tích luỹ nội bộ còn thấp và phần thực huy động vào tích luỹ chỉ dưới 20% GDP , chỉ tương ứng tốc độ tăng trưởng 4-5% của khu vực nông thôn . Muốn tăng trưởng nhanh cần bổ xung thêm vốn từ nước ngoài dưới nhiều hình thức
ODA, FDI và các khoản huy động vốn gián tiếp và vay nợ . Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư . Họ sẽ mang vốn công nghệ vào nước ta , sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nước ta , làm ra các sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có . Đây cũng là cơ hội thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn . Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là một nhân tố quan trọng buộc các doanh nghiệp Việt Nam chấn chỉnh tổ chức quản lí sản xuất , đổi mới công nghệ nắm bắt thị trường , tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá để đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội điạ.
2.3 Hội nhập kinh tế thế giới Việt Nam có thể học hỏi , giao, lưu mở rộng , rút kinh nghiệm của các nước đi trước .
Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam có thể tranh thủ học hỏi, mở rộng giao lưu , rút kinh nghiệm của các nước đi trước trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế tránh được những sai sót , từ đó có nhũngbiện pháp để rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước . Với lợi thế của nước đi sau, chúng ta có thể tranh thủ kỹ thuật công nghệ đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH . Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện để Việt Nam dần điều chỉnh các chính sách, chế độ kinh tế theo các chuẩn mực của các tổ chức và các định chế kinh tế quốc tế , tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và bình đẳng , tăng sức thu hút vốn đầu tư , qua đó mà các kỹ thuật , công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta . Đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kinh tế , công nghệ quốc gia nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế . Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ với các nước phát triển nhưng lại là mới và hiệu quả tại một nước kém phát triển như Việt Nam . Nhiều sản phẩm thông qua ODA và FDI đã có được những chứng chỉ chất lượng cao do các tổ chức quốc tế cấp như : ISO 9001, 9002 , 14000 . Một số sản phẩm như cá biển đã được chuyển giao công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm nên có điều kiện xuất sang các thị trường khó tính như Mỹ và Tây Âu .
2.4 Hội nhập kinh tế là điều kiện thuận lợi để tiến hành đào tạo và nâng cao chất lượng quản lí .
Với số dân trên 80 triệu người, nguồn nhân lực của ta khá dồi dào. Nhưng nếu không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí kém hiệu quả . Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với các nước . Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu . Đồng thời tạo điều kiện nhập khẩu lao động kỹ thuật cao ,các công nghệ mới , các phát minh , sáng chế mà ta chưa có . Thông qua các dự án ODA sẽ góp phần quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực . Mặt khác , yêu cầu cao của các dự án FDI sẽ thúc đẩy học hỏi , tự rèn luyện của người lao động để nâng cao trình độ tay nghề và cũng nâng cao chất lượng cán bộ quản lí .
Những cơ hội mà Việt Nam sẽ nhận được thông qua hội nhập càng khẳng định đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay đây là con đường đúng đắn để phát triển đất nước .Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội , trên con đường hội nhập và phát triển cũng có không ít những khó khăn thách thức sẽ đến với chúng ta . Chúng ta phải xác định rõ được những khó khăn thách thức đó để giữ vững thế chủ động trong tiến trình hội nhập .
II . Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Những thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập
1.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam
a/ Thách thức to lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới là hiện trạng yếu kém của nền kinh tế . Nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn lạc hậu , còn tụt hậu khá xa so với thế giới nhất là về thu nhập bình quân đầu người và trình độ công nghệ .
Trải qua những cuộc chiến tranh lâu dài khốc liệt và cơ chế quản lí kinh tế tập trung bao cấp , Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế với một xuất phát điểm thấp . GDP bình quân đầu người còn thấp , chưa thoát khỏi ranh giới nghèo đói . Năm 2001 thu nhập bình quân đầu người ~400 $ bằng chỉ tiêu các nước nghèo nhất thế giới do liên hợp quốc đặt ra .
So với nhiều nước trong tổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham gia thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chưa bằng 1/3 của Inđo và Philipin , bằng 1/9 của Thái lan , bằng 1/15 của Malayxia , chưa bằng 1/100 của Singapo . Mặt khác tỉ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế thấp , tích luỹ và đầu tư chưa cao mà còn ở cả cơ cấu ngành của nền kinh tế , trình độ phát triển lực lượng sản xuất , công nghệ sản xuất còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới .
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn rất cao và có xu hướng gia tăng : năm 1996 là 5,88% ,1997 là 6,01% ,1998là 6,85% ,1999là 7.4% , 2000 là 6,49%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ 8,15% năm 1997 xuống 4,8% năm 1999 , năm 2000 là 6,5% năm 2001 là 6,85% .
Cơ cấu kinh tế còn chậm thay đổi , nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn, công nghiệp và dịch vụ không những tăng chậm mà còn có biểu hiện chững lại do khủng hoảng . Kinh tế khu vực và chính sách đầu tư kém hiệu quả . Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt nam đã chuyển hướng mạnh mẽ theo hướng kinh tế thị trường, tuy nhiên các cơ chế của nền kinh tế thị trường vẫn còn ở mức sơ khai.
Năng lực công nghệ của nền kinh tế Việt Nam rất lạc hậu so với thế giới . Trong những năm qua Việt Nam đã rất cố gắng đổi mới thiết bị công nghệ , lựa chọn những công nghệ tiên tiến của thế giới đặc biệt trong các ngành bưu chính viễn thông và tử ... nhưng vẫn còn rất nhiều ngành có thiết bị công nghệ lạc hậu từ 2- 5 thế hệ so với các doanh nghiệp cùng ngành trong nước , trong khu vực và trên thế giới . Nhiều công nghệ lạc hậu 40-50 năm nhưng vẫn chưa được thay thế .Công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất chất lưọng của sản phẩm , giúp các doanh ngiệp có thể cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường . Tuy nhiên do nguồn vốn bị hạn chế không cho phép các doanh nghiệp tự mình đổi mới cũng như áp dụng những trang thiết bị công nghệ kỹ thuật tiên tiến . Vì thế trong quá trình chuyển giao công nghệ nhập các máy móc thiết bị vào trong nước xảy ra tình trạng các doanh nghiệp thường nhập các máy móc thiết bị đã quá lạc hậu có khi đến gần 100 năm . Thế nên sau khi sử dụng một thời gian ngắn đã giảm năng xuất , gây ô nhiễm môi trường , giảm năng lực sản xuất , lại gây cản trở cho sự phát triển . Đây là một thách thức to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam vì trong quá trình hội nhập kinh tế Việt nam sẽ dần cắt giảm và xoá bỏ nhũng biện pháp bảo hộ sản xuất dưới các hình thức thuế quan và phi thuế quan , kinh tế và phi kinh tế , hàng hoá nước ngoài sẽ dễ dàng lưu thông trên thị trường Việt Nam . Nếu Việt nam không nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ , đổi mới cơ chế quản lí , nâng cao chất lượng hàng hoá , hạ giá thành sản phẩm thì có hàng loạt các doanh nghiệp sẽ phá sản gây nên hậu quả nguy hại về kinh tế và xã hội .
b/ Nước ta có nguồn lực lao đông dội dào nhưng chất lượng lao động kém thiếu công nhân lành nghề .
Nước ta được xếp vào hàng các quốc gia có trình độ học vấn cao nhưng do xuất phát điểm là nước nông nghiệp lạc hậu , tiếp theo đó là những năm dài nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ quan liêu bao cấp , nên đã để lại hậu quả nặng nề về đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế cũng như đội ngũ người lao động . Chúng ta thường nói nhiều đến nặng xuất lao động xã hội , đến hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp . Tất cả những điều đó đều có nguyên nhân chung là thiếu những nhà quản lí giỏi , những doanh nhân có tài , những người lao động tinh thông công việc .
Dân số nước ta trên 80 triệu người trong đó có trên 50 triệu người lao động từ 15 tuổi trở nên nhưng tỷ lệ qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật rất thấp . Theo kết quả điều tra dân số 1/4/1999 thì tại thời điểm điều tra chỉ có 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên có bằng cấp về một trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó , tức là đã qua trường lớp đào tạo . Trong đó 2,3% là công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp , 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp , 0,7% cao đẳng , 1,7% đại học và 0,1% có trình độ sau đại học . Đây là một tỷ lệ quá thâp , trong khi những người không có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật lại chiếm đến 92,4% . Cơ cấu đào tạo bất hợp lí nên tình trạng “nhiều thầy, thiếu thợ ”trong nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng . Sinh viên ra trường không có việc làm , nhưng các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nước ngoài lại không tìm được công nhân kỹ thuật và thợ lành nghề . Theo kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp , đến giữa 1998 trong tổng số lao động công nhân ngạch 4 bậc chỉ có 17,5% số ngưòi đạt bậc 4/4 . Trong ngạch 5 bậc tỷ lệ bạc 5/5 chiếm 20,8% . Ngạch bậc 6 thợ bậc 6/6 chiếm 5,9% thợ bậc 7/7 chiếm chỉ có 3,2%
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH và nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức mà bản thân người lao động không biết nghề hoặc biết nghề không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm việc ,làm gì thì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đén chất lượng chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây .
c/ Hàng hoá Việt Nam về chất lượng chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế .
Do máy móc thiết bị , công nghệ lạc hậu nên chất hàng hoá , dịch vụ nhìn chung thấp , giá thành cao do đó thiếu sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới . Theo kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp thì đến giữa năm 1998 ngành công nghiệp mới có 26% các doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường tron g nước . 58,5% số doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường nhưng chưa vững chắc còn 14,3% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước . So với hàng nhập khẩu hàng hoá của ta thua kém cả về chất lượng và giá cả mà biểu hiện rõ nhất là ở giá cả . Ví dụ đường RS của ta giá xuất xưởng là 340-400 $ / tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260-300$/ tấn . Như vậy giá nhập còn rẻ hơn giá xuất xưởng của ta 20-30% . Giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300$/ tấn nhưng nhập khẩu chỉ có 285$/ tấn , giá xi măng của Việt Nam 840 nghìn đồng /tấn trong khi nhập của Thái Lan chỉ có 630 nghìn . Hay thể hiện rõ nhất là trong vòng hai năm trở lại đây hàng xe máy Trung Quốc đã làm rối loạn cả thị trường Việt Nam với một ưu điểm mà xe máy sản xuất trong nước chưa làm được đó là giá cả rất rẻ hợp với túi tiền của người lao động . Qua những ví dụ nhỏ trên càng chứng tỏ để hàng hoá của ta có thể đứng vững trên thị trường thì nhất thiết phải đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và giảm giá thành của sản phẩm . Đó là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam .
Trong khi đó hiện nay nước ta mới chỉ có 23,8% số doanh nghiệp đã có hàng xuất khẩu , 13,7% có triển vọng xuất khẩu , còn lại 62,5% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu . Tuy nhiên đến nay hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô chưa được chế biến hoặc chỉ được sơ chế .Ví dụ dầu thô chiếm 17,5% kim ngạch xuất khẩu (KNXK) , gạo chiếm 9% KNXK , cà phê chiếm 5% , hải sản chiếm 8,5% KNXK ... Còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn ít , sức cạnh tranh yếu . Trong khi đó các giá cả các mặt hàng nguyên vật liệu và sơ chế lại bấp bênh , hay bị tác động xấu bất lợi cho các nước xuất khẩu . Ta có thể thấy rõ điều này qua sự sụt giảm giá hàng loạt các sản phẩm nông sản như cà phê , tiêu ... xuất khẩu trên thế giới . Giá cà phê đã xuống đến mức thấp nhất trong tháng 11,12 năm 2001 vừa qua , dẫn đến việc chính phủ phải rút một khoản ngân sách lớn để bao tiêu sản phẩm giúp các nhà trồng cà phê không bị phá sản . Mặt khác giá hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thuờng rẻ hơn 10-20% với giá bình quân trên thế giới .
Vì thế thị trường cho hàng hoá xuất khẩu còn rất hạn chế . Hiện nay thành phần hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đến các nước ASEAN chiếm chưa đến 1% trong tổng giá trị hàng nhập khẩu của các nước này , so với thị trường Đông Bắc á thì tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều , thị trường liên minh Châu Âu còn rất hạn chế trong phạm vi quan hệ song phương Anh , Pháp , Đức , Hà Lan ... Còn hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ thì rất ít do những yêu cầu khắt khe về phía Mỹ . Diễn đàn kinh tế thế giới mới đây quan sát và đánh giá sức cạnh tranh của 59 nền kinh tế thì Việt Nam xếp thứ53 /59
Khi mà chúng ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế thế giới trong đó có các thị trường lớn có triển vọng xuất khẩu mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá ta không được cải thiện thì đó là một thách thức to lớn cho nền kinh tế nhỏ như Việt Nam .
d / Chính sách về thuế , luậtkhuyến khích đầu tư chưa được hoàn thiện còn là bước ngăn cản hội nhập kinh tế kinh tế .
Hiện nay trong hệ thống luật và các chính sách hiện hành còn nhiều điều bất hợp lí và chưa chặt chẽ . Như về thuế nhập khẩu , hiện nay thuế nhập khẩu có chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế suất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được , do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho thời kỳ đầu phát triển . Nhưng chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước , đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài . Trong những năm qua đầu tư nước ngoài đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước chứ không nhằm xuất khẩu . Do tổ chức quản lí điều hành xuất nhập khẩu còn yếu kém nên thị trường khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu mà cung ứng trên thị trường nội địa , và đây là việclàm đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm . Điều này dẫn đến vốn đầu tư chưa thực sự góp phần tăng thêm tiềm lực xuất khẩu cũng như làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và chưa đẩy nhanh được khả năng thâm nhập thị trường thế giới của hàng Việt Nam , gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn vốn này .
Trong luật thuế có quy định áp dụng giá tính thuế tối thiểu với 15 nhóm mặt hàng do nhà nước quản lí . Việc áp dụng này chưa phù hợp với quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ phải cam kết thực hiện khi gia nhập AFTA và WTO cũng như trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ . Đó là quy định của hoạt động xác định giá hải quan theo GATT . Luật thuế xuất nhập khẩu cũng quy định một số loại hàng hoá chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng , nghiên cứu khoa học , giáo dục được xét miễn giảm thuế nhập khẩu . Tuy nhiên trên thực tế rất khó xác định rạch ròi các loại hàng hoá này vì thế vừa làm cho thủ tục xét miễn giảm thuế phức tạp nhưng vẫn không bảo đả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34608.doc