MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Thuế là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Một trong những yêu cầu quan trọng trong tổ chức thực thi chính sách thuế là phải thu đúng, thu đủ và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế. Chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, cũng như đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Trong những năm qua, chính sách thuế nhập khẩu, cùng với cơ chế vận hàn
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của Tổng cục hải quan Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h đảm bảo công bằng minh bạch, không phân biệt đối xử và ổn định đã tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần huy động nguồn thu cho ngân sách, bảo hộ sản xuất trong nước…Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu cũng đã nổi lên một vấn đề cần giải quyết đó là tình trạng thất thu thuế nhập khẩu. Có thể nói tình trạng thất thu thuế nhập khẩu đã xảy ra trong thời gian dài, số thuế thất thu không phải là nhỏ, làm ảnh hưởng xấu đến cân đối thu chi của ngân sách nhà nước- một trong những cân đối lớn của nền kinh tế quốc gia và tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ về thuế.
Nguyên nhân của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu có thể do khách quan như chính sách chế độ thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai nạn bất ngờ…,cũng có thể do nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian lận trốn thuế…Vì vậy, cùng với việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thì việc tìm ra giải pháp để chống thất thu thuế nhập khẩu là một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách nhằm đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả chính sách thuế của nhà nước.Với ý nghĩa trên, em đã chọn đề tài “Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của Tổng cục hải quan Việt nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện “ để nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát những vấn đề cơ bản về chống thất thu thuế của tổng cục hải quan việt nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của tổng cục hải quan việt nam trong thời gian qua
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của tổng cục hải quan
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỐNG
THẤT THU THUẾ CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN VIỆT NAM
1.1. Giới thiệu tổng quan về Tổng cục hải quan Việt nam
1.1.1 Quá trình hình thành phát triển.
1.1.1.1. Lịch sử hình thành
Năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, sau đó Việt Nam vẫn phải tiếp tục trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt và 27 năm thử thách trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh.
Với cái tên đầu tiên là “Sở Thuế quan và thuế gián thu” được thành lập với mục đích đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn thu ngân sách Hải quan Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng, hoàn thiện và nâng cao cơ sở pháp lý - quản lý Nhà nước để ngày càng phù hợp hơn với thực tiễn của nước Việt Nam. Từ chỗ Hải quan Việt Nam còn phải tạm thời sử dụng những quy định nghiệp vụ về thuế quan của chính quyền thực dân đến nay đã xây dựng và ban hành được “Điều lệ Hải quan”, Pháp lệnh Hải quan và tiếp đó là Luật Hải quan Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002.
1.1.1.2.Tóm tắt sự phát triển của Hải quan theo các thời kì
Ngày 10 tháng 9 năm 1945 theo sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, thay mặt Chính phủ ký thành lập “Sở thuế quan và thuế gián thu”. Với mục đích thiết lập chủ quyền thuế quan của nước Việt Nam độc lập, đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn thu ngân sách từ hoạt động này.
Ngày 29 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 75-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức của Bộ Tài chính, Sở Thuế quan và thuế gián thu được đổi thành Nha Thuế quan và Thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính.
Ngày 4 tháng 7 năm 1951 Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã ký Nghị định số 54/NĐ quy định lại tổ chức của Bộ Tài chính và Nha Thuế quan và Thuế gian thu được đổi thành Cơ quan Thuế XNK.
Ngày 14 tháng 12 năm 1954 Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký Nghị định số 136-BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thay thế cơ quan thuế XNK thuộc Bộ Công thương.
Ngày 17 tháng 2 năm 1962 để thực hiện Điều lệ Hải quan (ban hành ngày 27/2/1960) Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Lý Ban ký Quyết định số 490/BNT/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan. Lúc này Cục Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984 Thực hiện Nghị quyết số 68/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh chống buôn lậu và thành lập Tổng cục Hải quan, và Nghị quyết số 547/NQ-HĐNN ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước phê chuẩn thành lập Tổng Cục Hải quan và ngày 20/10/1984 Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tô Hữu ký Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Tổng cục Hải quan. Tổng cục Hải quan trực thuộc Chính phủ
Ngày 4 tháng 9 năm 2002 theo Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Tổng Cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính.
1.1.2. Bộ máy tổ chức, chức năng và nhiệm vụ
1.1.2.1. Bộ máy tổ chức:
-Tổng Cục trưởng Lê Mạnh Hùng
-Phó Tổng Cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc
-Phó Tổng Cục trưởng Vũ Ngọc Anh
-Phó Tổng Cục trưởng Hoàng Việt Cường
-Phó Tổng Cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn
-Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Dương Thái
BỘ MÁY GIÚP VIỆC TỔNG CỤC TRƯỞNG:
1. Vụ Giám sát quản lý về hải quan;
2. Vụ Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu;
3. Vụ Pháp chế;
4. Vụ Hợp tác quốc tế;
5. Vụ Kế hoạch - Tài chính;
6. Vụ Tổ chức cán bộ;
7. Thanh tra;
8. Văn phòng;
9. Cục Điều tra chống buôn lậu;
10. Cục Kiểm tra sau thông quan;
11. Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan;
12. Ban Cải cách hiện đại hóa Hải quan;
13. Công ty cổ phần Nam Hải.
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRỰC THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN:
1. Viện Nghiên cứu Hải quan;
2. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Bắc;
3. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Trung;
4. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Nam;
5. Trung tâm Đào tạo công chức Hải quan;
6. Báo Hải quan.
CÁC CỤC HẢI QUAN TỈNH, LIÊN TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG.
Các chi cục Hải quan cửa khẩu, đội kiểm soát Hải quan và đơn vị địa phương trực thuộc cục hải quan địa phương
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của tổng cục Hải quan
* Chức năng:
Tổng cục hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính, giúp Bộ trưởng bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về hải quan; thực thi pháp luật hải quan trong phạm vi cả nước.
* Nhiệm vụ, quyền hạn:
Tổng cục hải quan thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo qui định của Luật hải quan, các qui định khác của pháp luật có liên quan và những nhiệm vụ quyền hạn cụ thể sau đây:
- Trình bộ trưởng bộ tài chính dự thảo các văn bản qui phạm pháp luật về ngành hải quan; chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển ngành hải quan và tổ chức thực hiện nghiêm túc sau khi được phê duyệt.
- Chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của ngành hải quan:
+ Kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
+ Phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biện giới trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan
+ Thực hiện các biện pháp phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan theo qui định của Chính phủ
+ Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Tổ chức thực hiện kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về hải quan các nước theo qui định của pháp luật.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ,tuyên truyền, phổ biến các tiến bộ khoa học trong ngành hải quan.
- Quản lý, tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo, thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Tổng cục.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, chống tham nhũng và xử lý vi phạm theo qui định của pháp luật.
1.1.2.3. Các đặc điểm trong hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu
Theo Chỉ thị 01/TCHQ/CT/KTTT của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan yêu cầu các đơn vị hải quan địa phương tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt các công việc để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu và chống thất thu thuế XNK nhằm hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu phấn đấu thu NSNN.
Công tác quản lý thu và chống thất thu ngân sách cần tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả các công tác nghiệp vụ Hải quan, đảm bảo việc thu đúng, thu đủ thuế, chống buôn lậu, chống gian lận thương mại. Về công tác giá tính thuế toàn ngành tập trung thực hiện theo Hiệp định trị giá GATT, triển khai thực hiện hệ thống dữ liệu giá GTT22, tiến hành thu thập và khai thác thông tin dữ liệu giá theo quy chế. Tăng cường công tác kiểm tra giá tính thuế tại các địa phương.
Về công tác thuế, thực hiện đúng chính sách, chế độ về thuế, nhất là cần tập trung xác định rõ ràng, rành mạch về thuế suất ở hai khâu: Văn bản hướng dẫn, kiến nghị sửa đổi biểu thuế và Áp mã chính xác theo mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu, khắc phục triệt để việc áp thuế suất không thống nhất cho một mặt hàng, xác định sai thuế suất đối với mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra để phát hiện, chấn chỉnh và kịp thời ngăn chặn sai phạm dẫn đến thất thu có thể xảy ra tại các đơn vị hải quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách.
Về công tác kiểm hóa, cần chú trọng đến việc quyết định tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa. Việc mô tả chủng loại hàng hóa nhập khẩu trên tờ khai phải rõ ràng, cụ thể và chính xác để đảm bảo xác định đúng mã số, số lượng, xuất xứ của hàng hóa thực tế xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu mới xuất hiện cần kịp thời báo cáo về Tổng cục Hải quan để tập hợp và chỉ đạo áp mã thống nhất trong toàn ngành.
Về công tác kiểm tra sau thông quan, cần tập trung kiểm tra về giá tính thuế theo khai báo của chủ hàng, đặc biệt chú trọng các mặt hàng trọng tâm, trọng điểm dễ gian lận về giá tính thuế. Ngoài ra, tăng cường công tác kiểm tra đối với các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu nhạy cảm như nhập khẩu linh kiện được hưởng chính sách nội địa hóa, nhận gia công, đầu tư, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Về công tác chống buôn lậu, ngoài những giải pháp thông thường cần tập trung điều tra xác minh làm rõ những trường hợp nghi ngờ về giá tính thuế; tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với những mặt hàng nhập khẩu nhạy cảm, mặt hàng trọng tâm, trọng điểm.
Về công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phải bảo đảm kết luận chính xác và trả lời đơn vị yêu cầu với thời gian ngắn nhất về mẫu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi phân tích phân loại phục vụ đắc lực cho việc áp mã và thông quan hàng hóa được nhanh chóng.
Về công tác thu đòi nợ đọng thuế, thường xuyên theo dõi, đôn đốc nhắc nhở các doanh nghiệp nộp thuế đúng thời hạn, tổ chức các tổ chuyên trách xử lý dứt điểm nợ xấu tồn đọng lâu nay đồng thời kiên quyết không để nợ xấu phát sinh mới. Đánh giá kỹ các nguyên nhân để nợ đọng, tập trung phân tích các nguyên nhân mang tính chủ quan của ngành để có những kiến nghị và giải pháp phù hợp, làm trong sạch thêm một bước tình hình nợ đọng thuế.
1.2. Vai trò và nội dung của hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan
1.2.1. Đặc điểm của thuế nhập khẩu của Việt nam
1.2.1.1. Tính gián thu
Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế( tức là người bán hàng hóa nhập khẩu) chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng hóa chịu, bằng cách cộng số thuế đó vào giá bán của hàng hóa đó. Thuế gián thu là loại thuế do người tiêu dùng đóng góp; nghĩa vụ tính thuế và thu thuế đơn giản, thu kịp thời hơn thuế trực thu; thuế gián thu nằm kín trong giá cả cho nên dễ thu hơn; người chịu thuế khó nhận biết là mình phải nộp thuế nên ít có phản ứng hơn.
Thuế gián thu mang lại nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước vì bất luận trong hoàn cảnh nào nhu cầu tiêu dùng của con người cũng luôn diễn ra và có xu hướng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú hơn. Đối tượng chịu thuế là hàng hóa nhập khẩu, còn đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, vì vậy khi hàng hóa được đăng kí với cơ quan hải quan là cơ quan hải quan đã nắm được số tiền thuế phải nộp, bất luận hàng hóa đó được tiêu thụ như thế nào.Từ đặc điểm trên, người nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu không phải là người chịu thuế, mà người chịu thuế chính là người tiêu dùng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thuế gián thu bảo đảm sự tự lựa chọn của người chịu thuế đối với các hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm tính tự nguyện chịu thuế. Nhà nhập khẩu khi bán hàng hóa sẽ thu thuế gián thu cùng với giá bán hàng ( thu hộ nhà nước) và nộp khoản thuế này cho ngân sách nhà nước ( nộp thay cho người tiêu dùng). Gọi là thuế gián thu là vì Nhà nước thu thuế vào người tiêu dùng nhưng lại không thu trực tiếp đối với người tiêu dùng( tức là người mua hàng hóa để sử dụng) mà lại thu gián tiếp qua người bán hàng hóa nhập khẩu. Trên ý nghĩa đó, nhà nhập khẩu thu thuế đối với người tiêu dùng sau khi bán hàng hóa, nếu không nộp đầy đủ số thuế, nợ đọng thuế quá hạn thì coi là hành động tham ô, biển thủ công quĩ của nhà nước.
Đối với những nước có nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập còn thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của ngân sách Nhà nước. Mặt nhược điểm của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó, vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một loại sản phẩm hàng hóa, nên người giàu và người nghèo nếu tiêu dùng cùng một loại sản phẩm hàng hóa và với số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn người nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu trên thu nhập càng thấp.
1.2.1.2. Tính xung đột
Xuất phát từ những lợi ích khác nhau của các nhà nhập khẩu và các nhà sản xuất trong nước, khi sử dụng chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu luôn phát sinh các lợi ích xung đột sau đây:
- Chính sách thuế theo hướng bảo hộ sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các nhà đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua việc đánh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ cao hơn vì phải cộng thêm một khoản thuế vào giá bán của hàng hóa nhập khẩu cho nên đã tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất trong nước. Vì vậy, với xu hướng này, các nhà đầu tư sản xuất trong nước thường ủng hộ duy trì hàng rào thuế quan càng cao, càng lâu dài thì càng tốt.
- Chính sách thuế theo hướng cắt giảm nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại được các nhà kinh doanh hàng hóa nhập khẩu và người tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu ủng hộ. Bởi vì thuế với hàng hóa nhập khẩu được xem như là rào cản làm cản trở khả năng thâm nhập thị trường nội địa của hàng hóa nhập khẩu; khi hàng hóa nhập khẩu phải chịu thuế càng cao thì giá cả hàng hóa nhập khẩu sẽ bị đẩy lên tương ứng. Trong trường hợp đó, người tiêu dùng sẽ ít có cơ hội lựa chọn, mua hàng hóa nhập khẩu với giá cao hoặc mua hàng tương tụ được sản xuất trong nước với giá cả thấp hơn. Vì vậy, với xu hướng này, các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng thường ủng hộ cắt giảm thuế quan càng thấp, càng sớm thì càng tốt.
1.2.1.3. Tính rủi ro cao
Nghiệp vụ xác định số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, phải thực hiện là áp mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế, kiểm tra thực tế và giám định chất lượng hàng hóa. Mỗi khâu nghiệp vụ đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn sâu mới có thể xác định chính xác các chỉ tiêu tính toán để xác định số thuế phải nộp. Vì vây, chỉ cần một trong số các chỉ tiêu tính toán chưa chính xác thì sẽ dẫn đến xác định sai số thuế phải nộp.
Như đã phân tích ở trên, khác với các loại thuế khác, đối tượng chịu thuế là hàng hóa, đối tượng nộp thuế là tổ chức cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế. Đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu, khi hàng hóa được phép thông quan thì chủ sở hữu hàng hóa đó mới được phép sử dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc đưa vào tiêu dùng.
Xuất phát từ đặc điểm này cho thấy, nếu tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ nhập khẩu mà chưa xác định được đầy đủ, chính xác nghĩa vụ thuế, thời hạn nộp thuế để đối tượng nộp thuế chủ động bố trí nguồn tài chính nộp thuế thì việc thông báo truy thu thuế ở giai đoạn sau sẽ rất khó khăn. Vì đối tượng nộp thuế cho rằng, các khoản chi phí phát sinh liên quan đến hàng hóa nhập khẩu, trong đó có thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đã hạch toán đầy đủ vào chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc vào giá bán cho người tiêu dùng nên không có nguồn vốn để nộp bổ sung tiền thuế cho nhà nước. Vì vậy, trước khi thông quan hàng hóa, trách nhiệm của đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế đầy đủ, chính xác và tự mình xác định có thuộc đối tượng được hưởng ân hạn nộp thuế hay không, hay phải nộp xong số thuế trước khi nhận hàng; trong quá trình thông quan hàng hóa, cơ quan hải quan phải kiểm tra đầy đủ, chính xác số thuế thực tế phải nộp trong phạm vi thông tin đã thu thập được về hàng hóa, về đối tượng nộp thuế. Từ đó, làm rõ quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, của cơ quan hải quan, nếu để phát sinh nguyên nhân dẫn đến nợ đọng thuế ở khâu nào thì phải cá thể hóa trách nhiệm ở khâu đó để xử lý.
1.2.2. Vai trò của hoạt động chống thất thu thuế trong quản lý nhà nước về hải quan
1.2.2.1. Đối với cân đối ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước là một trong các chỉ tiêu cân đối lớn của nền kinh tế. Ngân sách nhà nước được xác lập trên cơ sở dự toán nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, trong đó nguồn thu từ thuế có vai trò quan trọng. Nếu việc nộp thuế bị chậm trễ hoặc doanh nghiệp cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, thì việc thực hiện dự toán thu ngân sách sẽ không được đảm bảo. Như vậy, việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và các đơn vị sự nghiệp, cũng như nhu cầu về vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế- xã hội nói chung được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Vì vậy, việc đảm bảo chi ngân sách cũng như cân đối ngân sách nước sẽ bị tác động trực tiếp từ việc thực hiện kế hoạch thu ngân sách từ thuế.
1.2.2.22. Đối với môi trường kinh doanh
Để đảm bảo môi trường kinh doanh được bỉnh đẳng, cùng sân chơi, cùng hưởng lợi, đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó nghĩa vụ nộp thuế là một trong những tiêu chí đánh giá quan trọng nhất. Lý giải vấn đề này cho rằng, cùng hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế lại khác nhau: có đối tượng nộp ngay, có đối tượng ân hạn 30 ngày hoặc 275 ngày, thậm chí còn kéo dài tùy thuộc vào chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu… Sự bất bình đẳng được thể hiện ở chỗ, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn chân chính thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, thực hiện tốt chế độ quyết toán thuế, có một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách để nợ thuế, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế để đưa sản phẩm ra thị trường sẽ có giá bán rẻ hơn, có lợi thế cạnh tranh hơn và tất yếu sẽ thu lợi nhiều hơn. Thất thu thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh không công bằng.
1.2.3. Nội dung của hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan
1.2.3.1. Phân loại thất thu thuế nhập khẩu
* Phân loại theo nguyên nhân thất thu thuế
Thất thu thuế do nguyên nhân khách quan:
Khoản nợ thuế của đối tượng nộp thuế có thể phát sinh do chịu sự tác động ngoài dự kiến do sự thay đổi chính sách thuế nhập khẩu( như thuế suất, giá tính thuế, tỷ giá tính thuế) sau khi đối tượng nộp thuế đã nộp thuế theo thông báo thuế chính thức của cơ quan hải quan hoặc do sự tranh chấp về mã số thuế giữa đối tượng nộp thuế với cơ quan hải quan đối với những mặt hàng chưa được định danh cụ thể trong Biểu thuế cho nên dẫn đến phát sinh số thuế phải nộp bổ sung sau khi hàng hóa đã được thông quan. Ví dụ như ngày 20/03/2006 cơ quan có thẩm quyển ban hành quyết định thay đổi thuế suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng A từ 5% lên 20%, nhưng hiệu lực quyết định tính từ ngày 01/03/2006; hoặc khi thông quan hàng hóa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan xác định mã số thuế đối với mặt hàng B tương ứng với thuế suất 5%, nhưng sau khi thông quan, kiểm tra phát hiện có sự sai sót phải xếp vào mã số khác, tương úng với mức thuế suất 30% thì cơ quan hải quan phải ra quyết định truy thu số thuế còn thiếu.
Thất thu thuế do nguyên nhân chủ quan:
Đó là các khoản thất thu thuế phát sinh do đối tượng nộp thuế cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp đến hạn nộp thuế nhưng doanh nghiệp vẫn cố tình trây ỳ. Nợ đọng thuế phát sinh do đối tượng nộp thuế không chấp hành nộp thuế đúng thời hạn hoặc chưa thực hiện quyết toán nguyên liệu, vật tư tiêu hao vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu để xác định số thuế còn phải nộp và số thuế được hoàn trả do được hưởng chế độ miễn thuế nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo qui định. Đối tượng nộp thường sử dụng sai mục đích để được hưởng ân hạn thuế, sau đó dùng mọi thủ đoạn có thể trốn thuế, chây ỳ hoặc bỏ trốn. Ví dụ, doanh nghiệp đăng ký với cơ quan hải quan là nhập khẩu vải để may xuất khẩu, nhưng không đưa vào sản xuất mà đưa ra tiêu thụ trên thị trường, khi cơ quan hải quan kiểm tra thì đã bỏ trốn.
* Phân loại theo tính chất của khoản thuế bị thất thu
Khoản tiền thuế thất thu có khả năng thu hồi:
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, trong đó nợ có khả năng thu hồi cao, do các doanh nghiệp nợ thuế vẫn tiếp tục hoạt động bình thường hoặc chờ quyết định chính xác số thuế phải nộp hoặc số nợ nhỏ của doanh nghiệp chây ỳ, có thể giải quyết dứt điểm nếu tổ chức xử lý cương quyết.
Khoản tiền thuế thất thu không có khả năng thu hồi:
Là các khoản nợ phát sinh do đối tượng nộp thuế chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và khó có khả năng nộp thuế do các doanh nghiệp nợ thuế không còn nguồn vốn để nộp( doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc làm ăn thô lỗ) hoặc cũng có thể là số nợ mà cơ quan hải quan không thể kiểm soát được( nợ của doanh nghiệp mất địa chỉ).
Tóm lại, cách thức phân loại thất thu thuế nhập khẩu cho chúng ta thấy mỗi loại thất thu và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là rất khác nhau. Việc phân loại thất thu thuế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý và đề ra các biện pháp quản lý, thu hồi tiền thuế nhập khẩu cho phù hợp
1.2.3.2. Nội dung tổ chức hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu
+ Đảm bảo tính rõ ràng, công khai, minh bạch và ổn định của chính sách
Một trong những biện pháp chống thất thuế nhập khẩu là các chính sách, qui định phải đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, ổn đinh. Số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải nộp được xác định trong chính sách thuế, bao gồm: mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế và tỷ giá tính thuế. Để đối tượng nộp thuế khai báo, tính thuế và cơ quan hải quan ra thông báo thuế theo qui định, đòi hỏi các qui định của pháp luật về việc phân loại, áp mã số thuế, cũng như cơ chế xác định giá tính thuế, tỷ giá tính thuế phải đảm bảo rõ ràng, minh bạch và chính xác. Mỗi loại hàng hóa chỉ có một mã số thuế tương ứng với mã số đó là một mức thuế suất; giá tính thuế phải tôn trọng tính khách quan, đảm bảo tuân thủ các qui định về xác định giá tính thuế; tỷ giá tính thuế phải đảm bảo vừa tôn trọng yếu tố thị trường, phải đảm bảo minh bạch trong việc qui đổi đồng tiền ngoại tệ và đồng tiền Việt nam. Ngoài ra, thời điểm tính thuế cũng ảnh hưởng đến số thuế phải nộp. Bởi lẽ, mỗi thời điểm tính thuế thì các yếu tố thuế suất, tỷ giá tính thuế, cũng như giá tính thuế có thể thay đổi phụ thuộc vào việc thay đổi thuế suất( nếu có), tỷ giá hối đoái trên thị trường. Vì vậy, như phân tích ở trên, để giảm thiểu tình trạng thất thu thuế nhập khẩu thì các qui định cụ thể về chính sách thuế phải được đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và ổn định.
+ Kiểm soát chặt chẽ việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế
Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tình hình chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế là đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Cùng điều kiện, cùng môi trường kinh doanh, cùng thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thì tính canh tranh trên thị trường mới đảm bảo tính bình đẳng. Tránh tình trạng, cùng kinh doanh hàng nhập khẩu, nhưng có những doanh nghiệp có ý thức tuân thủ cao, chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, chi phí kinh doanh được tính toán đầy đủ; bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp cố tình chây ỳ, trốn thuế, chiếm dụng thuế thì chi phí kinh doanh được giảm thiểu vì chưa phải tính các khoản thuế phải nộp, hoặc chiếm dụng tiền thuế để quay vòng vốn nhờ đó sẽ tiết kiệm chi phí phải trả lãi suất tiền vay. Như vậy, nếu kiểm soát chặt chẽ quá trình chấp hành nghĩa vụ thuế sẽ giảm thiểu được tình trạng nợ đọng thuế, đồng thời góp phần làm cho môi trường hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ bình đẳng hơn, tính kỷ cương của chính sách thuế được thực thi có hiệu quả trên thực tế.
+ Phân công cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền xử lý của cơ quan hải quan trong công tác phòng, chống nợ đọng thuế:
Việc phân công trách nhiệm cụ thể cho cơ quan hải quan là phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Do tính đặc thù của công tác thuế cần thiết phải có qui định về phòng chống vi phạm pháp luật thuế nhằm qui định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hải quan và điều kiện trang bị kỹ thuật trong phòng, chống trốn thuế, nợ đọng thuế.
Hiện nay, cơ quan Hải quan chưa có chức năng điều tra, khởi tố trốn thuế như cơ quan hải quan các nước đang áp dụng( Luật hải quan qui định cơ quan Hải quan chỉ có quyền điều tra, khởi tố buôn lậu qua biên giới) do đó đã hạn chế việc ngăn chăn kịp thời các trường hợp cố ý trốn thuế với số lượng lớn hoặc có hành vi làm tổn hại đến số thuế lớn như hành vi mua bán hóa đơn để thu lợi bất chính, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước do đó cần bổ sung quyền điều tra tội trốn thuế cho cơ quan Hải quan và quyền này chỉ thực hiện được khi bổ sung quyền điều tra cho cơ quan hải quan trong Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế cần qui định cụ thể trách nhiệm cơ quan hải quan các cấp được thành lập đơn vị chuyên trách để trong trường hợp nếu có thông tin tài liệu xác định hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Hoặc phân rõ trách nhiệm, khi phát hiện hành vi đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan chuyển hồ sơ đối tượng vi phạm cho cơ quan điều tra tiến hành ngay các thủ tục tố tụng theo trình tự qui định. Ngoài ra, cần thiết phải bổ sung thẩm quyền của cơ quan Hải quan trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế để nâng cao hiệu quả trong quản lý thuế.
+ Sử dụng có hiệu quả nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan
Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và mở rộng dịch vụ tư vấn về thuế cho đối tượng nộp thuế, một giải pháp không kém phần quan trọng là công tác thanh tra, kiểm tra. Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách thuế phải được tiến hành định kỳ, thường xuyên để ngăn chăn và trừng phạt các đối tượng cố ý lợi dụng cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp để gian lận thuế dưới mọi hình thức. Trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, việc kiểm tra, phát hiện các sai sót và các hành vi gian lận tiền thuế được thực hiện dưới mọi hình thức, trong đó công tác kiểm tra sau thông quan chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Công tác kiểm tra sau thông quan không những góp phần đảm bảo việc thực hiện các chính sách pháp luật Hải quan, ngăn chăn tình trạng thất thu thuế mà còn là công cụ hữu hiệu trong việc tư vấn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác này hiện nay thường được hiểu là chỉ được tiến hành khi phát hiện đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật mà chưa được coi là một chức năng của cơ quan Hải quan nhằm chia sẻ trách nhiệm với các bộ phận có liên quan trong quá trình làm thủ tục hải quan theo đúng định nghĩa về bản chất của hoạt động này. Việc lựa chọn đối tượng kiểm tra trong thời gian qua chưa thực sự dựa trên các tiêu thức lựa chọn khoa học mà chủ yếu tập trung vào các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, công tác kiểm tra cũng chỉ tập trung vào đối tượng kê khai hải quan chứ chưa kiểm tra các đối tượng tham gia gián tiếp vào hoạt động thương mại quốc tế như các cơ quan ngân hàng, bảo hiểm, cơ quan giám định hàng hóa…
Vì vậy, để thực hiện nghiệp vụ này theo đúng thông lệ quốc tế, trước hết, cơ quan hải quan và các đối tượng nộp thuế phải có cách nhìn thật đúng về công tác kiểm tra sau thông quan nhưu một hoạt động nghiệp vụ thường xuyên của cơ quan Hải quan, thay vì chỉ kiểm tra đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật như hiện nay. Tiếp theo, cơ quan Hải quan phải áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong việc lưa chọn đối tượng kiểm tra để thích ứng với điều kiện hạn chế về nguồn lực và phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, để việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về đối tượng xuất nhập khẩu như: lịch sử hình thành và phát triển, qui mô, lĩnh vực hoạt động, quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động kinh doanh; các thông tin về hàng hóa như: các mặt hàng nhạy cảm, nguồn gốc xuất sứ, sự biến động về giá cả thị trường trong và ngoài nước, tính thời vụ của hàng hóa, lộ trình của hàng hóa như tuyến tường đi, phương thức vận tải, cửa khẩu đi, đến… Tất cả những thông tin trên sẽ được tổng hợp, phân tích để xác định mức độ rủi ro về gian lận thương mại nhằm loại trừ những._. doanh nghiệp, những hàng hóa ít hoặc không có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Công tác kiểm tra lúc này chỉ tập trung vào các doanh nghiệp, các loại hàng hóa có mức độ rủi ro về gian lận thương mại cao. Áp dụng quản lý rủi ro sẽ giúp nghành hải quan có thể dự báo được xu hướng của các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, phục vụ cho việc phát hiện và ngăn chặn các gian lận về trị giá hải quan, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra sau thông quan và có thể sử dụng kết quả này để áp dụng chính sách ân hạn nộp thuế cho các đối tượng nộp thuế.
+ Tăng cường điều kiện vật chất- kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin
Một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý tốt với những con người giỏi chuyên môn nghiệp vụ sẽ không thực sự phát huy được nếu thiếu những trang thiết bị tương ứng. Vì vậy, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại là một trong những điều kiện cần và đủ để có thể phát huy một cách tốt nhất những lợi thê về con người, góp phần tạo nên thành công của công tác quản lý thuế trong điều kiện hiện nay. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuât đó là một hệ thống vi tính nối mạng toàn ngành có khả năng cung cấp và xử lý các thông tin về thuế xuất nhập khẩu một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời; có khả năng đối chiếu, trao đổi và chia sẻ thông tin với hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như với các cơ quan quản lý nhà nước khác như: cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc, cơ quan ngân hàng, cơ quan bảo hiểm, cơ quan công an… Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn là hệ thống tàu cao tốc đủ mạnh để trấn áp được các hoạt động buôn lậu hàng hóa trên biển; hệ thống máy soi công ten nơ, hệ thống camera để theo dõi và kiểm tra việc xuất, nhập khẩu ở các cửa khẩu. Tất cả các điều kiện trên nếu được đầu tư và trang bị đầy đủ sẽ là tiền đề để công tác quan lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiến lên một bước mới, sánh ngang với các nước trong khu vực.
Cơ chế tự tính, tự nộp thuế xuất nhập khẩu, cùng với việc chuyên môn hóa công tác quản lý thu thuế từ phía cơ quan hải quan, hiện đại hóa công tác thu thuế cũng là điều kiện hết sức quan trọng, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí cho các đối tượng nộp thuế và cho chính cơ quan hải quan. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế mà còn nhằm đáp ứng yêu cầu cơ bản của xu hướng cải cách hành chính mà chính phủ đang tiến hành nhằm tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế xuất nhập khẩu của nước ta còn hết sức hạn chế. Hạn chế này thể hiện trên hai góc độ: thiếu máy móc thiết bị và thiếu cán bộ có trình độ sử dụng. Vì vậy, trong thời gian tới, bên cạnh việc đầu tư các trang thiết bị, phương tiện làm việc theo tiêu chuẩn hiện đại của các Chi cục, Cục hải quan, cần có các giải pháp để sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị này. Ngoài ra, việc thiết kế những phần mềm chuyên nghiệp nhưng không quá phức tạp cũng là một biện pháp để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao nhất trong việc hỗ trợ đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp. Đồng thời, cần thiết phải có một hệ thống xử phạt cưỡng chế, thu nợ thuế nghiêm minh cũng là điều kiện hết sức quan trọng khi thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tụ nộp.
1.3. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về chống thất thu thuế nhập khẩu
Inđônêsia:
Số thuế phải nộp đối với hàng hóa nhập khẩu và tiền phạt hành chính được thanh toán trong vòng 30 ngày, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ nộp thuế. Trường hợp đặc biệt được tạm hoãn nghĩa vụ nộp thuế do Bộ trưởng Bộ tài chính hướng dẫn chi tiết. Đồng thời, các khoản nợ thuế mà chưa thanh toán hoặc mới thanh toán một phần vào ngân sách nhà nước đều phải chịu lãi suất hai phần trăm mỗi tháng trong một thời hạn tối đa là hai mưoi bốn tháng, kể từ ngày phải thanh toán các khoản nợ phải trả đó cho đến khi đối tượng nộp thuế thanh toán xong( trong đó một phần của một tháng được tính là một tháng).
Philippin:
Thuế quan được cơ quan hải quan trực tiếp tính và thu thông qua các ngân hàng đại lý được ủy quyền của Ngân hàng Trung ương không quá 30 ngày, kể từ ngày thông quan hàng hóa. Trường hợp không nộp đủ thuế theo thời hạn qui định định sẽ bị phạt tăng thêm 25% số tiền thiếu đó. Nếu số thiếu hụt do khai báo hoặc xuất trình không đúng sự thật hoặc gian dối( gian lận thương mại) có lợi cho doanh nghiệp, thì sẽ phải nộp phạt 50% số tiền thuế phải nộp.
Hàn quốc:
Tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu phải chịu thuế quan và các loại thuế khác, đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế trước khi thông quan hàng hóa hoặc phải có ký quĩ, bảo lãnh nộp thuế. Việc ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải có sự chấp thuận của cơ quan hải quan. Quá thời hạn cho phép ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế, nếu tổ chức đứng ra ký quỹ, bảo lãnh chưa nộp thuế thì phải nộp một khoản tiền phạt nhất định theo cam kết, cùng với số thuế phải nộp.
Quy trình nộp thuế gồm 4 bước: Cơ quan hải quan ra thông báo và yêu cầu nộp thuế; thực hiện lệnh thu thuế; bán tài sản bị tịch biên và trả nợ thuế bằng số tiền thu được từ việc bán tài sản.Quy trình 4 bước có thế tóm tắt như sau:
Sau 15 ngày kể từ ngày đến ân hạn của số thuế phải nộp cơ quan hải quan sẽ ra thông báo yêu cầu nộp thuế và chuyển tới đối tượng nộp thuế để thông báo cho đối tượng nộp thuế biết.
Sau khi thông báo được ban hành, nếu đối tượng nộp thuế không chấp hành thì cơ quan hải quan sẽ kiểm tra thu nhập và tài sản của đối tượng nợ thuế thông qua hệ thống quản lý thuế(TIS) là hệ thống thông tin chủ đạo của cơ quan hải quan. Cấu phần chính của hệ thống này là cơ sở dữ liệu, cho phép các cán bộ thuộc cơ quan hải quan truy cập các thông tin về bất động sản, thu nhập từ hoạt động kinh doanh, các tài khoản phải thu của bên thứ ba ( nếu có).
Lệnh thu thuế là việc tịch biện tài sản hợp pháp của đối tượng nộp thuế để thanh toán trả cho khoản nợ thuế. Nếu thuế không được nộp đầy đủ sau khi có thông báo thì cơ quan hải quan có thể tịch biên và bán bất kỳ tài sản cá nhân hoặc bất động sản nào mà đối tượng nộp thuế sở hữu hoặc quan tâm tới. Bước này cho phép cơ quan hải quan được bán hợp pháp các tài sản tịch biên để tra nợ thuế. Đồng thời tạo áp lực cho đối tượng nợ thuế phải nộp thuế sóm hơn để tránh việc tài sản tịch biên bị bán với giá tương đối thấp.
Nếu thuế quá hạn không được nộp đầy đủ thậm chí sau khi có thông bao, cơ quan hải quan chuyển sang bước bán tài sản tịch thu thông qua việc đăng thông báo về tài sản chờ bán trên báo địa phương hoặc tờ rơi và đợi một thời gian nhất định trước khi bán. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả, việc bán tài sản tịch biên này thường do một công ty công cộng chuyên hoạt động bán các tài sản tịch biên thực hiện. Tại hàn quốc, Công Ty quản lý tài sản Hàn quốc (KAMCO) đã được ký kết với cơ quan hải quan Hàn Quốc để thực hiện công việc này.
Sau khi bán tài sản, cơ quan hải quan trước hết sẽ sử dụng số tiền thu được trả cho các chi phí liên quan đến việc tịch biên và bán tài sản. Số tiền con lại sẽ được sử dụng để nộp thuế.Nếu số thu được từ việc bán tài sản thấp hơn tổng số thuế, chi phí của việc tịch biên, bán tài sản thì đối tượng nộp thuế sẽ tiếp tục phải nộp số thuế còn thiếu. Ngược lại, cơ quan hải quan sẽ ra thông báo cho đối tượng nộp thuế số tiền còn thừa và hướng dẫn để đối tượng nộp thuế làm thủ tục xin hoàn thuế. Tuy nhiên, nếu có ai đó như người cầm cố… có yêu cầu đòi tiền và được ưu tiên trước so với đề nghị của đối tượng nộp thuế thì cơ quan hải quan sẽ trả khoản tiền nợ, số còn lại sẽ hoàn cho đối tượng nộp thuế.
Nhật Bản:
Thuế hải quan và các loại thuế khác đối với hàng hóa nhập khẩu, người khai hải quan phải nộp trước khi thông quan hàng hóa hoặc phải có ký quỹ, bảo lãnh về số thuế phải nộp. Do đặc điểm thuế quan của Nhật Bản chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng thu ngân sách nhà nước( khoảng 1,65% tổng thu), nên việc chấp hành nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế rất nghiêm. Trường hợp phát hiện có sự gian lận, trốn thuế thì áp dụng các biện pháp xử phạt rất nặng kể cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính.
Trung Quốc:
Người có nghĩa vụ nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải nộp đủ khoản thuế trong vòng 15 ngày, kể từ ngày cơ quan hải quan ra thông báo thuế, nếu kéo dài trong thời hạn nộp thuế thì cơ quan hải quan phạt chậm nộp thuế. Người có nghĩa vụ nộp thuế, người bảo lãnh nếu quá thời hạn ba tháng mà chưa giao nộp tiền thuế sau khi được thủ trưởng cơ quan hải quan phê duyệt thì có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau:
- Có giấy thông báo cho ngân hàng hoặc cơ quan tín dụng giữ số tiền còn lại trên tài khoản của chủ hàng để nộp thuế
- Bán hóa giá những hàng hóa chưa nộp thuế theo qui định, số tiền thu được đem nộp thuế.
- Giữ hàng hóa hoặc tài sản khác có giá trị tương đương số tiền thuế phải nộp để bán đấu giá, số tiền thu được đem nộp thuế.
Khi cơ quan hải quan thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với những người có nghĩa vụ nộp thuế hoặc người bảo lãnh mà vẫn chưa nộp thì người có nghĩa vụ nộp thuế phải nộp xong các khoản nợ thuế, nợ tiền phạt trước khi hàng hóa được thông quan.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên, chúng ta có thể rút ra bài học cho Việt nam như sau:
Một là, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia, qua mỗi thời kỳ, qui định về thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có khác nhau. Việc qui định về thời hạn nộp thuế luôn kèm theo các điều kiện để đảm bảo thu đủ thuế. Đồng thời, các biện pháp xử phạt rất nghiêm ngặt, vừa kết hợp biện pháp kinh tế( phạt nộp chậm), vừa áp dụng các biện pháp hành chính cũng được qui định rõ trong các văn bản pháp luật của nhà nước như Inđônêsia và Trung Quốc.
Hai là, hầu hết các quốc gia đều sử dụng biện pháp ký quỹ hoặc bảo lãnh nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trước khi thông quan hàng hóa, đây được xem là biện pháp kinh tế hữu hiệu, vừa đảm bảo điều kiện ràng buộc để thu tiền thuế cho ngân sách nhà nước, vừa tạo điều kiện đẩy nhanh việc thông quan hàng hóa, thúc đẩy phát triển sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Ba là, chế độ nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu của các nước được quy định rõ ràng, minh bạch. Mặc dù một số nước cũng cho phép ân hạn nộp thuế trong một khoảng thời gian ngắn nhất định, nhưng cơ chế thực thi về thuế luôn đảm bảo nghiêm minh, với bộ máy cưỡng chế thu nợ đọng thuế hiệu quả. Vì vậy, tình trạng nợ đọng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu hầu như ít xảy ra như Hàn Quốc, Trung Quốc.
Tóm lại, từ việc phân tích bản chất, chức năng, vai trò và vị trí của chính sách thuế nhập khẩu trong hệ thống chính sách thuế, cũng như cơ sở lý luận của việc quy định chính sách ân hạn thuế là cơ sở để đánh giá, phân tích tình hình nợ đọng thuế và nguyên nhân dẫn đến nợ đọng thuế ở nước ta trong thời gian qua. Kết quả nghiên cứu của chương này có ý nghĩa thiết thực trong việc hình thành cơ sở lý luận về chính sách thuế nhập khẩu và các điều kiện thực hiện. Ngoài ra, việc tham khảo kinh nghiệm và đưa ra những khuyến nghị bổ ích từ việc nghiên cứu chính sách thuế và vấn đề tổ chức thu nộp thuế của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã rút ra những bài học quý giá có thể áp dụng cho Việt Nam
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP
KHẨU TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN CỦA TỔNG
CỤC HẢI QUAN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình thu thuế nhập khẩu giai đoạn 1998-2009
Thuế là một khoản thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Số thu ngân hàng nhà nước luôn chiếm xấp xỉ 20% GDP; Trong đó số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu chiếm khoảng 25% trong tổng thu ngân sách nhà nước; Riêng số thu thuế nhập khẩu luôn chiếm khoảng 14% tổng thu ngân sách nhà nước. Chúng ta xem Bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1: Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1998-2009
Năm
Tổng thu NSNN so với GDP
Tỷ trong số thu từ hàng hóa XNK trong tổng thu NSNN
Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu NSNN
1998
19.60%
23.10%
19.60%
1999
19.60%
26.50%
16.95%
2000
20.50%
20.90%
12.18%
2001
21.60%
22.10%
14.60%
2002
23.10%
25.50%
16.77%
2003
23.20%
23.80%
14.31%
2004
23.40%
21.30%
11.07%
2005
23.70%
26.71%
8.45%
2006
21.20%
30.73%
7.68%
2007
25.20%
29.55%
9.13%
2008
26.10%
28.80%
8.55%
2009
27.20%
27.80%
8.23%
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Nhìn vào Bảng 2.1 trên, chúng ta thấy tổng thu ngân sách nhà nước so với GDP giai đoạn 1998-2009 luôn chiếm trên 19%, có những năm đạt tới 27.2% (năm 2009) thấp nhất là năm 1998,1999 cũng đạt 19,6%.
Hình 2.1: Tỷ trọng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Từ Hình 2.1 ta có thể nhận thấy số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước liên tục có thay đổi; Thấp nhất là chiếm 20,9% vào năm 2000 và cao nhất lên tới 30.73% vào năm 2006. Dù có những thay đổi nhưng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu luôn giữ được ổn định. Đóng góp đáng kể vào số thu chung của ngân sách nhà nước.
Hình 2.2: Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Từ Hình 2.2 trên ta thấy số thu từ thuế nhập khẩu giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2002 có năm đạt tỷ lệ trên 16% trong tổng số thu ngân sách nhà nước. Tính bình quân, số thu từ thuế nhập khẩu giai đoạn này là 16,02% trong tổng số thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí. [3]
Giai đoạn 2003-2009, với thành tích đạt được về tăng trưởng kinh tế cao bình quân trên 7%, tỷ lệ huy động nguồn thu về thuế, phí và lệ phí đã không ngừng tăng lên ( từ 74,444 tỷ đồng năm 1999 lên 287.900 tỷ đồng trong năm 2007). Mức tăng trưởng thu ngân sách nhà nước bình quân trong kỳ là 15%. Nét nổi bật trong chính sách kinh tế đối ngoại giai đoạn này là phải thực hiện cắt giảm thuế theo lộ trình để thực hiện một số cam kết quốc tế đối với EU, CEPT/AFTA, Hoa Kỳ và cắt giảm thuế đối với nhiều nhóm mặt hàng là tư liệu sản xuất cũng như việc chuyển dịch điều tiết từ thuê nhập khẩu sang điều tiết bằng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa nhập khẩu. Cùng với việc ban hành các luật thuế mới được thực hiện từ ngày 1/1/1999 nhằm thực hiện cải cách cơ bản chính sách thuế phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế nhập khẩu cũng đã được sửa đổi, bổ sung. Biểu thuế đã được xây dựng lại theo hướng đơn giản mức thuế suất, chi tiết hơn dòng hàng theo danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu. Biểu thuế nhập khẩu từ chỗ bao gồm 29 mức thuế suất, với mức thuế suất danh nghĩa là 16,11% xuống còn 18 mức thuế suất danh nghĩa là 15,3%. Vì vậy, tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn này đã giảm xuống so với trước song bình quân vẫn đạt 10,12%.Tuy nhiên, nếu tính chung cả số thu thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu thì tỉ trọng số thuế từ hàng hóa xuất, nhập khẩu vẫn không ngưng tăng lên, với mức huy động bình quân trong giai đoạn này là 26,41% trong tổng số thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí và lệ phí.
Theo lộ trình cam kết song phương với các đối tác thương mại lớn như AFTA, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và mức thuế suất trần theo cam kết khi gia nhập WTO vai trò động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước của thuế nhập khẩu tuy có giảm về thuế suất do thực hiện các cam kết cắt giảm thuế, nhưng do kim ngạch nhập khẩu tăng, sự gia tăng về hoạt động giao dịch thương mại nên vẫn sẽ tiếp tục là nguồn thu quan trọng.
2.2. Thực trạng hoạt động chống thất thu thuế
2.2.1. Tình hình gian lận về thuế nhập khẩu
* Với mục đích trốn thuế nhập khẩu bằng việc khai báo giá trị hàng hóa thấp các đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi:
- Thông đồng với đối tác bán hàng để lập hóa đơn, hợp đồng hạ thấp trị giá hàng hóa so với giá trị thực;
- Khai báo thấp về chất lượng hàng hóa hoặc đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn;
- Khai báo mã hàng hóa có thuế suất bằng không, hàng thuộc diện không phải nộp thuế như hàng cho tặng, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo, khuyến mại, hàng viện trợ...
- Hiện nay, các tập đoàn kinh tế lớn sẽ tính toán chiến lược để thâm nhập sản phẩm hàng hóa vào thị trường Việt nam kể cả việc họ chấp nhận giảm giá thành sản phẩm để tiếp cận sản phẩm của mình với người tiêu dùng và đương nhiên họ sẽ đưa ra một số điều kiện cho người nhập khẩu như khuyến mại để chiếm thị phần nên giá khai báo của doanh nghiệp với cơ quan hải quan có thể là giá thực tế mà người nhập khẩu đã thanh toán, nhưng vô tình họ đang tiếp tay một cách gián tiếp cho người xuất khẩu trốn thuế Nhà nước bằng cách bán rẻ hoặc cho thêm hàng khuyến mại mà không phải nộp thuế cho nhà nước do chính sách ưu đãi của Việt nam.
- Nhà nhập khẩu chỉ định là đại lý độc quyền sản phẩm tại Việt nam nên người xuất khẩu đã đưa ra các điều kiện làm không thể xác định được trị giá thật của hàng hóa. Hoặc kết thúc năm tài chính người nhập khẩu sẽ chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho các Tập Đoàn...
- Lợi dụng các quy định để hưởng lãi suất ưu đãi đặc biệt để trốn thuế( giả mạo C/O form D).
Đặc biệt trong loại hình nhập khẩu hàng hóa phi mậu dịch, với đặc thù loại hình này là hàng hóa không cần hợp đồng mua bán, việc gian lận về giá diễn ra rất phức tạp, dễ xảy ra móc nối tiêu cực giữa hải quan làm thủ tục và doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng hình thức này để gom hàng hóa tại nước ngoài, sau đó tạo Công ty giả để làm hợp đồng, hóa đơn hạ thấp trị giá hàng hóa.
Thủ đoạn mới phát hiện: Làm hóa đơn, chứng từ, giả chữ ký của công chức và con dấu của cơ quan Hải quan
Qua công tác kiểm tra trị giá khai báo, cục Hải quan địa phương đã phát hiện nhiều lô hàng nghi ngờ trị giá khai báo thấp, bất hợp lý đặc biệt là những lô hàng nhậy cảm có thuế suất cao như: Ô tô, xe gắn máy, ngoài ra còn có các mặt hàng điện, điện tử, linh kiện, phụ tùng ôtô, xe máy
Thực tế thời gian qua cho thấy, đi đôi với nỗ lực của cơ quan Hải quan và việc chấp hành tốt nghĩa vụ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính, thì cũng có không ít doanh nghiệp tìm đủ mọi cách để chây ỳ nợ thuế, trốn tránh nghĩa vụ thuế để rồi đi tới xin xóa nợ hoặc bỏ trốn.
Để phân tích tình trạng thất thu thuế nhập khẩu, chứng ta hãy nghiên cứu sơ qua số liệu về nợ đọng thuế nhập khẩu qua các năm:
Bảng 2.2: Tỷ trọng số thuế nợ đọng trong tống số thu thuế nhập khẩu
Năm
Số thuế nợ đọng
Số thu từ hàng hóa nhập khẩu
2001
3755
27800
2002
4709
34500
2003
3068
35105
2004
3207
42300
2005
2850
49800
2006
3200
58627
2007
3068
85700
2008
4380
125136
2009
5130
132000
Đơn vị: Tỷ VND
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Hình 2.3 So sánh tình hình nợ đọng so với số thu từ thuế đối với hàng nhập khẩu
Nguồn: Cục Tin Học và Thống kê- Tổng Cục Hải quan, Tổng cục Thuế.
Chi tiết về số nợ thuế nhập khẩu lũy kế tính đến cuối năm 2009 là 4365 tỷ đồng, cụ thể như sau: [8]
-Nợ thuế của các doanh nghiệp thua lỗ là 760 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp giải thể, phá sản là 615 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp mất tích, bỏ trốn là 435 tỷ đồng;
-Nợ thuế do chính sách thay đổi là 875 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chây ỳ là 745 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chờ xóa nợ theo quy định 115 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chờ giải quyết miễn thuế, xét miễn thuế là 615 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp được phép giãn nợ là 45 tỷ đồng.
Theo số liệu thu ngân sách năm 2008, số nợ đọng thuế nhập khẩu chiếm khoảng 5,24 % số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu. Số nợ đọng đến cuối năm 2009 tuy có giảm về số tương đối nhưng về số tuyệt đối vẫn không giảm nhiều, do phần lớn các khoản nợ này nằm trong số nợ khó có khả năng thu hồi, trong đó số nợ thuế của các doanh nghiệp kinh doanh lắp ráp, sản xuất xe máy là tương đối lớn.
Thực tế cho thấy, tống số lượt doanh nghiệp nợ thuế có khoảng 8268 lượt doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 24% tổng số doanh nghiệp nợ và doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác chiếm 76%; chiếm khoảng gần 50% số doanh nghiệp thường xuyên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Theo số liệu thống kê của cơ quan hải quan, kể từ khi thực hiện luật doanh nghiệp năm 1999, hàng năm số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh không ngưng tăng lên, bình quân mỗi năm tăng lên khoảng 20% so với năm trước. Trong đó, số doanh nghiệp đăng ký tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng. Trước năm 1999 cả nước mới có khoảng hơn 2000 doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, thì đến cuối năm 2009 con số này lên đến gần 74000 doanh nghiệp. Trên thực tế chỉ có khoảng 26.000 doanh nghiệp thương xuyên hoạt động xuất nhập khẩu, số còn lại chỉ đăng ký để thực hiện chức năng xuất nhập khẩu khi tìm kiếm được khách hàng hoặc có cơ hội nhập khẩu một lần để rồi nợ thuế, trốn thuế. Sở dĩ có sự tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như vậy là do điều kiện được phép kinh doanh xuất nhập khẩu khá thông thoáng, doanh nghiệp được quyền sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà nhà nước không cấm.
Sự thông thoáng nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, tạo cơ hội cho mọi thành phần kinh tế tham gia tiếp cận, tìm kiếm và mở rộng thị trường, tạo công ăn việc làm, góp phần giải phóng sức sản xuất... Đó là tiền đề và động lực cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế đã có sự thiếu phối hợp đồng bộ trong việc tổ chức quản lý từ khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, đến quá trình kinh doanh, chấp hành pháp luật, trong đó có pháp luật về thuế. Doanh nghiệp đăng ký và được phép đi vào hoạt động, còn hoạt động, còn hoạt động tốt hay xấu như thế nào? hiệu quả ra sao? Quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp... không có theo dõi đánh giá hoặc đánh giá thiếu đầy đủ; mỗi cơ quan quản lý chỉ chịu trách nhiệm phần việc của mình, ví dụ: cơ quan kế hoạch- đầu tư cấp phép chỉ biết cấp phép, cơ quan thuế, cơ quan hải quan chỉ biết thu thuế,... Trong khi đó, có những doanh nghiệp từ khi bắt đầu thành lập đã có sẵn ý đồ trốn thuế, nợ thuế, bán hóa đơn ra ngoài để thu lợi hoặc trốn tránh nghĩa vụ thuế khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa. Do vậy, theo điều tra thì cứ khoảng 100 doanh nghiệp được phép thành lập, đăng ký kinh doanh thì có đến 35-40 doanh nghiệp thay đổi địa chỉ mà không thông báo cho cơ quan thuế, cơ quan hải quan biết.
Qua phân tích số liệu thống kê, cho thấy số nợ đọng thuế như các khoản nợ xấu, gồm nợ thuế do thô lỗ không có khẳ năng thanh toán, nợ thuế của doanh nghiệp giải thể, nợ thuế của các doanh nghiệp không có địa chỉ đang có xu hướng gia tăng, hiện chiếm khoảng 19% tổng số nợ thuế, nợ phạt; nợ có khả năng thu chiếm trên 80%, nhưng phần nhiều lại rơi vào một số trường hợp phức tạp như nợ do chứng từ chậm luân chuyển, nợ của một số doanh nghiệp chây ỳ nếu không thu hồi được nợ đọng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu kịp thời sẽ còn ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch thu ngân sách nhà nước.
Trên thực tế, việc thu hồi nợ đọng thuế là rất khó khăn. Sau nhiều đợt phát động chiến dịch thu hồi nợ đọng thuế nhưng tình hình vẫn rất ít chuyển biến. Việc thực hiện quyết liệt các biện pháp như phê phán trên báo, kiểm soát liên thông tài khoản với ngân hàng, lập các đội đòi nợ đọng thuế... nhưng hiệu quả thu hồi nợ đọng thuế của cơ quan hải quan là không đáng kể, số thuế nợ đọng cũ giải quyết chưa xong thì số nợ đọng mới lại phát sinh. Ngoài ra, có nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách khoanh nợ, xóa nợ trong thời gian chờ cổ phần hóa để trốn tránh nghĩa vụ thuế. Vì theo quyết định số 172/2001/QĐ- TTG ngày 05 tháng 11 năm 2001 về việc xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước đối với những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn nhà nước đối với những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn do nguyên nhân khách quan thì Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần, còn nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, nếu đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ về tài chính và tín dụng, mà doanh nghiệp vẫn còn khó khăn không có khả năng thanh toán nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước thì được xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
2.2.1.1. Gian lận trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất của hàng hóa:
Theo quy đinh hiện hành: Thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam (Nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ nêu ở đây do Bộ Thương mại thông báo). Thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Người nộp thuế tự khai và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về xuất xứ hàng hóa.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại các Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính và được hướng dẫn thực hiện tại Thông tư số 45/2007/TT-BTC ngày 7/5/2007 của Bộ Tài chính.
- Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.
Việc phân loại hàng hoá để xác định các mức thuế suất phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc phân loại hàng hoá, được thực hiện theo hướng dẫn về phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và các văn bản hiện hành khác.
Lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế trong quá trình thông quan, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện hành vi mô tả sai hàng hoá trên tờ khai Hải quan, đưa hàng hoá từ mã số có thuế suất cao về mã số có thuế suất thấp để gian lận trốn thuế.
Ngoài ra,trong thực tế, để trốn thuế, doanh nghiệp cố tình khai báo sai mã số của hàng hoá nhập khẩu; lợi dụng sự phức tạp trong cơ cấu sản phẩm cũng như tên gọi, đặc biệt là những sản phẩm mới, là hỗn hợp của nhiều chất hoặc linh kiện khó có thể phân biệt bằng cảm quan để kê khai vào mã số có thuế suất thấp.
Theo thống kê, gian lận, trốn thuế qua việc khai sai mã số thường xảy ra đối với những mặt hàng có sự chênh lệch về thuế là hàng điện tử, điện lạnh, sắt thép, thực phẩm, hàng tiêu dùng... Tình trạng doanh nghiệp gian lận trốn thuế bằng thủ đoạn nhập nhằng trong khai báo hải quan, như: khai báo sai mặt hàng hoặc tính chất mặt hàng để được áp mã số thuế thấp; nhập nhiều, khai ít… cũng diễn ra phổ biến. Có những lô hàng, do khai báo sai mặt hàng dẫn đến chênh lệch thuế vài trăm triệu đồng, thậm chí cả tỉ đồng. Điển hình có lô hàng thép, trị giá trên 550.000 USD của Công ty TNHH Thương mại- sản xuất Nguyễn Minh. Công ty này khai báo nhập khẩu lô hàng thép lá có thuế suất 0%, thực tế kiểm tra, hàng thực nhập là loại thép có thuế suất 4,5%, dẫn đến chênh lệch thuế trên 400 triệu đồng. Hay như lô hàng gốm sứ nhập khẩu của Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Huy Hân, Đội kiểm soát Hải quan đã phát hiện công ty này nhập khẩu hàng sai khai báo và hàng không khai báo với số lượng lớn, gồm tổng cộng 17.000 cái tách uống trà, 8.000 cái quần và hàng sai khai báo hải quan gồm gần 22.000 sản phẩm gốm sứ các loại. Trị giá lô hàng vi phạm ước tính khoảng gần 270 triệu đồng, gian lận gần 200 triệu đồng tiền thuế. Hay việc một doanh nghiệp tại Hà Nội nhập khẩu 26.000 tấn thép cuộn chứa chất Bo từ Trung Quốc nhưng khai là thép hợp kim, nhằm hưởng thuế nhập khẩu 0%. Việc gian lận thuế nhập khẩu thép này sẽ khiến giá thép nhập khẩu rẻ hơn, doanh nghiệp sản xuất thép trong nước không thể cạnh tranh được, và nguy cơ phải ngừng sản xuất rất có thể xảy ra. Trong khi đó, theo quy định, thép có chứa chất Bo cũng giống như thép xây dựng nhập khẩu thông thường phải chịu thuế suất nhập khẩu 12%. Vụ việc được Hiệp hội Thép Việt Nam phát hiện và trình báo cơ quan chức năng điều tra, truy thu thuế. Ngay sau đó liên Bộ Tài chính và Công thương đã kiểm tra, xác minh, phát hiện gian lận và thống nhất truy thu thuế loại thép này ở mức 15% và truy thu cả những lô thép đã nhập khẩu.
Thậm chí nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã cố tình tháo bỏ một số bộ phận cấu thành của máy móc, thiết bị vận tải để khai báo hàng hóa thuộc dạng chưa đồng bộ để tránh thuế hàng đồng bộ. Đối với trường hợp hàng hoá là nguyên chiếc có thuế suất thuế nhập khẩu cao hơn thuế suất thuế nhập khẩu của các chi tiết tháo rời thì doanh nghiệp nhập khẩu không đầy đủ các chi tiết rời của một sản phẩm (nhập khẩu các chi tiết, linh kiện rời không đồng bộ trong từng lô hàng nhập khẩu nhưng lại là đồng bộ qua nhiều lô hàng nhập khẩu) để được phân loại theo từng chi tiết linh kiện...
Từ các vụ gian lận thuế nhập khẩu cho thấy, khi không kiểm soát chặt chẽ các hành vi gian lận thuế sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Thứ nhất, gian lận thuế khiến ngân sách Nhà nước mất đi nguồn thu rất lớn. Giải pháp kích cầu với một khoản tiền lớn mà Chính phủ đang thực hiện chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước. Trong khi đó, thuế là nguồn thu chính của ngân sách. Gian lận và thất thu thuế nhiều khiến thâm hụt ngân sách tăng cao hơn. Thứ hai, gian lận thuế sẽ khiến các ngành hàng cùng loại phải chịu sự cạnh tranh không lành mạnh, nhẹ thì bị sụt giảm lượng bán ra, thu hẹp sản xuất, nặng thì sụp đổ cả một ngành sản xuất trong nước, kéo theo nhiều lao động mất việc làm.
Câu hỏi được đặt ra là hiện có bao nhiêu mặt hàng đang diễn ra tình trạng gian lận thuế? Số thất thu thuế là bao nhiêu? Theo Bộ Tài chính, mỗi năm, số tiền mà Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thuế phát hiện sai phạm, truy thu thuế lên tới hàng nghìn tỷ đồng, trong đó có một phần không nhỏ gian lận thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu. Đây mới chỉ là thống kê chưa đầy đủ, chưa phản ánh hết thực tế. Tình trạng gian lận thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp. Trong đó, gian lận thông qua khai báo._.ế của các doanh nghiệp bỏ trốn, chuyển sang trụ sở mới nhưng không khai báo:
Đối với loại nợ này, cơ quan hải quan cần có sự phối kết hợp với cơ quan nhà nước khác như: Cục thống kê, Sở kế hoạch đầu tư, cơ quan công an, cơ quan thuế để truy tìm và xử lý truy thu. Trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh, trong đó có địa chỉ, chứng minh nhân dân,… của chủ doanh nghiệp, các thành viên trong Hội đồng sáng lập, cơ quan quản lý đầu tư cung cấp cho cơ quan hải quan để chủ động truy tìm giám đốc doanh nghiệp( người đại diện pháp lý của doanh nghiệp) hoặc chủ doanh nghiệp( người đầu tư thành lập doanh nghiệp) để có biện pháp xử lý thích hợp:
+ Nếu tìm ra địa chỉ mới của doanh nghiệp thì yêu cầu doanh nghiệp nộp số nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Doanh nghiệp phải làm cam kết thời hạn trả nợ, trên cơ sở đó, cơ quan hải quan tổ chức thu hồi nợ đọng; đồng thời phối hợp với cơ quan công an theo dõi đối tượng. Đối với loại nợ đọng này, cơ quan hải quan cần áp dụng các biện pháp mạnh như phong tỏa tài khoản ngân hàng, kê biên tài sản, đưa tên lên phương tiện thông tin đại chúng. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục chây ỳ không chịu nộp thuế thì đề nghị truy tố về tội trốn thuế.
+ Trường hợp không tìm thấy địa chỉ mới của doanh nghiệp do chủ động bỏ trốn, hoặc giải thể, phá sản nhưng không tuân thủ qui trình giải thể, phá sản thì chuyển cơ quan công an truy tố về hành vi trốn thuế.
Nói chung, nợ thuế của các doanh nghiệp cố tình chây ỳ, không chịu thanh toán thì cơ quan hải quan, cơ quan thuế, cơ quan ngân hàng ở địa phương nơi doanh nghiệp mở tài khoản áp dụng các biện pháp mạnh như nêu tên lên phương tiện thông tin đại chúng, phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, thu giữ hàng hóa và thậm chí đề nghị truy tố trước pháp luật đối với doanh nghiệp chây ỳ không chịu nộp thuế để thu hồi nợ
- Đối với các khoản nợ khác:
+ Nợ chờ ghi thu- ghi chi:
Từ năm 2004 đã xóa bỏ cơ chế ghi thu- ghi chi, thay vào đó là ngân sách nhà nước cấp phát đủ tiền thuế và các khoản phải nộp đối với hàng hóa nhập khẩu cho đơn vị dự toán. Vì vậy, đối với khoản nợ này, cơ quan hải quan làm việc cụ thể với cơ quan tài chính để gắn việc cấp phát ngân sách với việc trả nợ thuế.
+ Nợ do chờ xét miễn thuế:
Đối với nợ thuế do chờ xét miễn thuế thì phải cải tiến qui trình, thủ tục xét miễn thếu, gắn trách nhiệm miễn thuế với nghĩa vụ của cơ quan hải quan, không thể gắn trách nhiệm của doanh nghiệp nếu đã nộp đủ các chứng từ theo qui định để được xét miễn thuế.
Mặc dù đã quá thời hạn nộp thuế( nợ đọng) nhưng việc thống kê đối với các khoản nợ thuế do chờ thủ tục ghi thu, ghi chi, hoặc chờ xét miễn thuế cần phải theo dõi và có biện pháp xử lý thích ứng.
- Nợ thuế do thực hiện chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe gắn máy:
Khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn bình quân khoảng 32% trong tổng số nợ đọng thuế, vì vậy giải quyết dứt điểm khoản nợ này có ý nghĩa rất lớn, góp phần làm lành mạnh hóa tình trạng nợ đọng thuế hiện nay. Để làm được điều đó, cần phải gắn việc trả nợ thuế với việc làm thủ tục nhập khẩu vật tư, linh kiện, phụ tùng, giải quyết ân hạn thuế và cấp giấy chứng nhận hoàn thành thủ tục hải quan để đăng ký lưu hành; đồng thời nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục chây ỳ, không nộp thuế, thì không bán hóa đơn. Quá thời hạn cam kết trả nợ được xem là trốn thuế thì chuyển hồ sơ cho cơ quan công an xử lý về hành vi trốn thuế. Tuy nhiên, do bất cập trong quá trình thực hiện chính sách theo tỷ lệ nội địa hóa, nên cần áp dụng hài hòa giữa biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế, thời hạn cam kết nộp tiền nợ thuế cần cụ thể để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện, cụ thể là doanh nghiệp phải đăng ký kế hoạch nộp thuế theo thời gian đối với cơ quan hải quan, theo nguyên tắc phải nộp ngay số thuế mới phát sinh( vì thuộc đối tượng không được áp dụng chế độ ân hạn) và trả nợ một phần số nợ đọng. Số tiền trả nợ thuế do doanh nghiệp đăng ký với cơ quan hải quan nhưng thời hạn tối đa không quá 2 năm ( đối với số nợ thuế dưới 20 tỷ đồng) và 3 năm( đối với số nợ thuế trên 20 tỷ đồng).
- Đối với các khoản nợ với số tiền thuế không quá lớn mà chi phí trong việc theo dõi, đôn đốc thu hồi nợ thuế có thể lớn hơn số tiền thuế còn nợ đọng:
Theo chuẩn mực của công ước KYOTO, đối với các khoản thu mà chi phí hành thu lớn hơn số tiền thuế còn phải thu thì pháp luật quốc gia qui định mức không thu. Vì vậy, sau khi rà soát lại tất cả các trường hợp nợ đọng và yêu cầu nộp ngay số tiền còn nợ đọng, nếu thuộc đối tượng giải thể, phá sản… nếu thuộc đối tượng nộp khó đòi thì xem xét xóa nợ. Đối với điều kiện nước ta, mức tối thiểu có thể là 10 triệu đồng. Mức tối thiểu trên đây dựa vào mức chỉ đạo của thủ tướng Chính phủ về biện pháp chưa cưỡng chế làm thủ tục hải quan đối với số nợ đọng dưới 10 triệu đồng.
Theo thống kê, khoản nợ dưới 10 triệu đồng/ doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong số doanh nghiệp nợ đọng thuế, chỉ tính riêng cục hải quan TP Hồ Chí Minh, số nợ thuế thuộc đối tượng này chiếm trên 50% trong tổng số doanh nghiệp có phát sinh nợ đọng thuế. Việc theo dõi nợ thuế phải hết sức cụ thể, chi tiết từng doanh nghiệp, từng loại nợ thuế, từng tờ khai… nên việc theo dõi hết sức công phu và tốn kém thời gian, tiền bạc và nguồn nhân lực. Về lâu dài, để giảm bớt thời gian vào việc theo dõi các khoản nợ thuế ở mức độ nhỏ cần tính đến việc phải nộp thuế ngay trước khi thông quan; nhưng đối với các khoản nợ đọng tiền thuế ở mức từ 10 triệu đồng trở xuống cần áp dụng điều kiện bắt buộc thu hồi ngay trước khi đăng kí làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; khuyến khích doanh nghiệp chủ động nộp tiền nợ thuế, nếu nộp ngay cho phép doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi ân hạn thuế và miễn kiểm tra thực tế như đối với doanh nghiệp khác có quá trình chấp hành tốt pháp luật thuế và hải quan. Đồng thời, khi triển khai thực hiện công ước KYOTO, cũng là thời điểm xác định các khoản tiền thuế phát sinh mới từ 10 triệu đồng trở xuống thì đối tượng nộp thuế phải nộp ngay trước khi thông quan hàng hóa mà không phải xem xét điều kiện để được hưởng ân hạn thuế.
3.2.2.3. Giải pháp khác
- Mở rộng loại hình kho ngoại quan, kho bảo thuế và chợ nguyên phụ liệu để góp phần đảm bảo kịp thời nhu cầu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu:
Theo pháp luật về hải quan và thông lệ quốc tế thì kho bảo thuế là kho được thành lập để lưu giữ nguyên liệu nhập khẩu dùng để cung ứng cho sản xuất của chính doanh nghiệp có kho bảo thuế. Nguyên liệu nhập khẩu đưa vào kho bảo thuế phải chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan; khi sử dụng, hàng hóa đó phải nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác. Còn kho ngoại quan là khu vực kho, bãi được thành lập trên lãnh thổ Việt nam, ngăn cách với khu vực xung quanh để tạm lưu giữ, bảo quản hoặc thực hiện một số dịch vụ đối với hàng hóa từ nước ngoài, hoặc từ trong nước đưa vào kho theo hợp đồng thuế kho ngoại quan được ký giữa chủ kho ngoại quan và chủ hàng. Khi có nhu cầu về vật tư, hàng hóa, doanh nghiệp nhập khẩu làm thủ tục hải quan, nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác trước khi thông quan. Đối với loại hình chợ nguyên phụ liệu được tổ chức hoạt động dưới hình thức khu phi thuế quan, nhằm tạo điều kiện cho việc chủ động nguồn nguyên liệu mà không chịu áp lực phải nhập khẩu để dự trữ vật tư, nguyên liệu để phục vụ kịp thời nhu cầu cho sản xuất.
Như vậy, nếu hội đủ các điều kiện đảm bảo thực hiện tốt chế độ kiểm tra, giám sát hải quan thì việc phát triển kho ngoại quan, kho bảo thuế, chợ nguyên phụ liệu có tác dụng góp phần đảm bảo kịp thời nhu cầu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, đảm bảo quản lý chặt chẽ từ khi thông quan đến quá trình sản xuất, nhưng khong bị lệ thuộc vào việc nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác để nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để dự trữ phục vụ sản xuất. Đây được xem là bước đi cần thiết để từng bước xóa bỏ cơ chế ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyen liệu( 275 ngày) như qui định hiện hành.
- Sử dụng đồng bộ chính sách ân hạn thuế, bảo lãnh và ký quĩ nộp thuế nhằm đảm bảo thu đủ thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế:
Để tiếp tục đảm bảo môi trường thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời vẫn phải đảm bảo chặt chẽ trong công tác quản lý, chống hiện tượng chây ỳ, lợi dụng để chiếm đoạt tiền thuế cần qui định thêm các điều kiện ràng buộc như phải đảm bảo mức độ tín nhiệm hoặc có bảo lãnh, tín chấp… để gắn trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc nộp thuế, hạn chế nợ đọng thuế kéo dài.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả mục tiêu khuyến khích tối đa xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước, nhưng vẫn đảm bảo thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước, sớm chấm dứt tình trạng nợ đọng, chiếm dụng tiền thuế thì cần phải sửa đổi, bổ sung về thời hạn nộp thuế theo hướng chỉ cho phép đối tượng nộp thuế đảm bảo đủ tín nhiệm, có quá trình chấp hành tốt chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, thực hiện đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước. Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đảm bảo điều kiện theo tiêu chí trên đây thì phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng hoặc phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng về số thuế phải nộp. Việc sửa đổi, bổ sung qui định về thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu như trên là phù hợp với chuẩn mực về bảo lãnh thuế theo công ước KYOTO.
Theo công ước KYOTO, cơ quan hải quan được quyền yêu cầu bảo lãnh hay vật thế chấp để đảm bảo rằng người khai hải quan sẽ thực hiện đầy đủ bất cư nghĩa vụ nào về thủ tục hải quan và nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Mục đích trước tiên của việc bảo lãnh là đảm bảo việc nộp các khoản thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Mặt khác, việc bảo lãnh cũng có thể được yêu cầu để đảm bảo việc hoàn thành bất cứ một nghĩa vụ nào khác mà ngừoi khai hải quan có thể liên quan đến thủ tục hải quan hay bất cứ yêu cầu nào khác được cơ quan hải quan qui định cụ thể. Do đó, luật pháp quốc gia phải bao gồm những qui định để cơ quan hải quan có thể nhận một khoản bảo lãnh theo bất cứ thủ tục hay thông lệ thích hợp. Vì việc cấp một khoản bảo lãnh thường phải phát sinh chi phí và các khoản chi phí này được cộng vào chi phí kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu. Cho nên những qui định liên quan đến việc bảo lãnh cần phải qui định cụ, rõ ràng đối với đối tượng nộp thuế.
Luật pháp quốc gia sẽ qui định chi tiết về việc xác định việc bảo lãnh, hình thức trong đó khoản bảo lãnh được qui định thống nhất. Khi cơ quan hải quan yêu cầu bảo lãnh để đảm bảo việc nộp thuế và bất cứ nghĩa vụ nào khác thì đối tượng nộp thuế phải thỏa thuận với tổ chức có tư cách pháp nhân đứng ra bảo lãnh về số thuế phải nộp. Tồ chức đứng ra bảo lãnh phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế trước cơ quan hải quan. Khoản bảo lãnh thường phải tương đương với khoản giá trị thực sự hay qui ước có thể phát sinh từ nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế đối với cơ quan hải quan.
Ở nước ta, việc xác định cơ chế bảo lãnh theo phương thức tín chấp đã được áp dụng từ lâu đối với các khoản bão lãnh tín dụng cho vay. Tuy nhiên, bảo lãnh cho đối tượng nộp thuế về các khoản thuế phải nộp chưa được áp dụng. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, việc áp dụng đồng bộ việc bảo lãnh bằng tín chấp dựa trên cơ sở đánh giá chấp hành tốt pháp luật về thuế.
Ngoài ra, yêu cầu đảm bảo tính minh bạch trong việc hạch toán, chế độ hóa đơn chứng từ, chế độ thanh quyết toán các khoản phải thu, phải trả cũng là điều kiện cần thiết. Khi đó cơ quan hải quan hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy xác nhận được xem là hình thức bảo lãnh để được hưởng thời hạn nộp thuế theo qui định của pháp luật.
Khi đối tượng nộp thuế được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp, thì thời hạn nộp thuế thực hiện theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá thời hạn nộp thuế. Trong trường hợp thời hạn bảo lãnh ngắn hơn thời hạn nộp thuế hoặc chưa hết thời hạn nộp thuế mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh phải có trách nhiệm nộp số tiền thuế. Trong điều kiện cụ thể của Việt nam, có thể áp dụng như kinh nghiệm của nhiều nước, sau khi cơ quan hải quan chấp nhận bảo lãnh, cả tổ chức bảo lãnh hay người bảo lãnh đều không được hủy ngang bảo lãnh đó, cho tới khi cơ quan hải quan thông báo rằng qui trình, thủ tục hải quan và các nghĩa vụ nộp thuế đã được hoàn tất. Hình thức bảo lãnh được thực hiện dưới dạng thư bảo lãnh. Việc bảo lãnh số thuế phải nộp sẽ phát sinh chi phí kinh doanh cho đối tượng nộp thuế. Cũng theo chuẩn mực công ước KYOTO thì yêu cầu nộp bảo lãnh, khoản bảo lãnh phải nộp ở mức càng thấp càng tốt và đối với việc nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các khoản thuế khác không vượt quá tổng số thuế phải nộp. Vì vậy, việc áp dụng hình thức bảo lãnh tín dụng cần phải xuất phát từ lợi ích của đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế sẽ tính toán giữa lợi ích mang lại giữa việc phải phát sinh chi phí bảo lãnh và nộp xong thuế trước khi nhận hàng để quyết định việc áp dụng cơ chế bảo lãnh thuế hoặc nộp xong thuế trước khi nhận hàng.
Từ những lý giải nêu trên, việc áp dụng hình thức bảo lãnh nào cũng cần ở mức độ cần thiết để đảm bảo thu đủ tiền thuế cho ngân sách nhà nước. Việc thực hiện các chuẩn mực theo công ước KYOTO nêu trên đảm bảo vừa thu đủ tiền thuế, nhưng cũng không tạo cho đối tượng nộp thuế quá khó khăn trong việc nộp thuế. Đây là điều kiện tạo nên môi trường sản xuất, kinh doanh được bình đẳng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa nhà nước và đối tượng nộp thuế cần được nghiên cứu để triển khai áp dụng tại Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Việt nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO.
- Tăng cường công tác tuyên truyền:
Để thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thì đối tượng nộp thuế cần phải có khả năng hiểu biết pháp luật về thuế. Trong trường hợp đối tượng nộp thuế chưa nắm bắt đầy đủ, hoặc không thể tự mình xác định số thuế phải nộp thì cơ quan hải quan phải có trách nhiệm hướng dẫn cho đối tượng nộp thuế. Vì vậy, cần qui định rõ quyền của đối tượng nộp thuế được yêu cầu cơ quan hải quan trong việc hướng dẫn thực hiện pháp luật thuế; cung cấp thông tin tài liệu thực hiện nghĩa vụ thuế; giải thích việc tính thuế, ấn định thuế đặc biệt là được giữ bí mật thông tin; được bồi thường thiệt hại do cơ quan hải quan, công chức hải quan không làm đúng gây ra. Việc bổ sung một số quyền cho người nộp thuế là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý thuế như bảo mật thông tin về đối tượng nộp thuế để khẳng định độ tin cậy của người nộp thuế với cơ quan hải quan trong việc bảo mật bí mật kinh doanh của người nộp thuế. Nếu không đảm bảo bí mật thông tin cho người nộp thuế thì sẽ ít có khả năng người nộp thuế cung cấp thông tin thiếu trung thực, dẫn đến cơ quan hải quan không có cơ sở thông tin để quản lý thuế.
Ngoài ra, để làm tốt công tác tổ chức thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến và hướng dẫn về chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để đối tượng nộp thuế thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tự kê khai thuế, tự nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thông qua công tác tuyên truyền làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội hiểu rõ bản chất của thuế nói chung, trong đó có thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Từ đó, tạo sự đồng tình cao đối với các chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Nhà nước, sẵn sàng và tự nguyện cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan hải quan để thu thuế, lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Vận động mọi người thực hiện tốt các chính sách thuế của Nhà nước. Mục tiêu của công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế là thông qua việc cung cấp đầy đủ và có chất lượng cao dịch vụ hỗ trọ về thuế để nâng cao tính tuân thủ, tự giác chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo qui định của các luật thuế trên cơ sở hiểu nội dung qui định cụ thể của các chính sách thuế, các thủ tục hành chính về thuế.
Nội dung công tác tuyên truyền, hướng dẫn nghiệp vụ về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm:
+ Tuyên truyền, phổ biến đầy đủ, kịp thời cho mọi đối tượng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu về chính sách thuế, về thủ tục kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Giải đáp kịp thời những vướng mắc về chính sách thuế, mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế, thủ tục nộp, thanh quyết toán các nghĩa vụ thuế phải nộp.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu và các chỉ tiêu đánh giá, phân loại đối tượng nộp thuế
Để có cơ sở trong việc xác định trị giá tính thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều VII- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), trong đó để làm rõ nội dung khai báo và thực tế phải thanh toán của đối tượng nộp thuế với nhà xuất khẩu cần phải có cơ sở thông tin chính xác, kịp thời để làm cơ sở đưa ra quyết định áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế cho phù hợp. Bên cạnh đó, để tránh sự tranh chấp giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan trong việc phân loại, áp mã hàng hóa cần phải nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ phân tích, phân loại hàng hóa phục vụ kịp thời thông quan hàng hóa, đồng thời hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện việc tự kê khai thuế, nộp thuế được chính xác. Từ đó, sẽ góp phần làm giảm thiểu những thay đổi về số thuế phải nộp và số thuế đã nộp cũng là tiền đề để nhằm hạn chế nợ đọng thuế.
Ngoài ra, như đã phân tích, một trong những nguyên nhân phát sinh tình trạng nợ đọng thuế là việc điều trỉnh số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp sau khi hàng hóa đã được thông quan, vì vậy phần lớn đối tượng nộp thuế đều cho rằng trách nhiệm chính do cơ quan hải quan. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức hải quan trong việc phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Vì vậy, cần làm tốt công tác xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về giá tính thuế; tăng cường các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ, phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu cần phải nâng cao hơn nữa năng lực của cơ quan hải quan trong việc phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhằm đảm bảo việc áp mã số thuế tuân thủ theo đúng chuẩn mực quốc tế về phân loại và mã hóa hàng hóa xuất nhập khẩu.
- Đổi mới qui trình thủ tục hải quan cho phù hợp cơ chế tự kê khai thuế, tự nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Việc đổi mới qui trình thủ tục thu nộp thuế, theo hướng đối tượng nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có trách nhiệm kê khai đầy đủ, chính xác, mình bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai; nộp tờ khai hải quan cho cơ quan hải quan, tính thuế và nộp thuế vào ngân sách nhà nước cầm phải đổi mới qui trình thủ tục hải quan, nhằm đảm bảo tăng cường hỗ trợ kỹ thuật trong việc đối tượng nộp thuế tự kê khai, bao gồm áp mã số thuế, giá tính thuế…; đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan hải quan trong việc kiểm tra tính chính xác của việc kê khai thuế, nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sửa đổi qui trình thủ tục hải quan hiện hành cho phù hợp với qui trình thủ tục kê khai, nộp thuế cũng như phải đảm bảo phù hợp với qui định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức thu, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Để đảm bảo thu đúng, thu đủ các khoản nợ đọng thuế, cần có cơ chế phối hợp giữa Bộ tài chính và các Bộ có liên quan như: Bộ công an, Bộ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các tổ chức tín dụng để thu ngay vào ngân sách nhà nước các khoản nợ đọng có khả năng thu hồi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có liên quan đến lĩnh vực thuế; phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Quy chế trao đổi, cung cấp thông tin và phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan nhằm đảm bảo thu đủ các khoản nợ đọng thuế. Trong đó, phối hợp với bộ Kế hoạch và đầu tư và Bộ thương mại nhằm trao đổi thông tin về chính sách mặt hàng, thành lập mới và giải thể doanh nghiệp; phối hợp với cơ quan ngân hàng để nắm số dư trong tài khoản, kiểm soát quá trình thanh toán; phối hợp với Bộ tư pháp, bộ Công an và các cơ quan liên quan xây dựng qui chế cưỡng chế thu nợ thuế; đồng thời cần có biện pháp xử lý các khoản nợ đọng không có khả năng thu hồi. Có được sự phối hợp đồng bộ, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo qui định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ phát huy hiệu quả tích cực, sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng nợ đọng thuế.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc theo dõi, quản lý và thu hồi nợ đọng thuế
Như đã phân tích ở trên, nợ đọng thuế phát sinh từ nhiều nguyên nhân, trong đó việc tổ chức quản lý, theo dõi, xử lý nợ đọng đồng bộ, kịp thời và hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong việc kiểm soát tình trạng nợ đọng, chủ động có kế hoạch trong việc đề ra các giải pháp thu hồi nợ. Ngoài ra, vấn đề nợ đọng thuế còn liên quan đến quá trình xét miễn thuế, hoàn thuế đối với hàng hóa sử dụng vào mục đích sản xuất hàng xuất khẩu cũng như đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu, sản phẩm xuất khẩu… để xác định chính xác số thuế được miễn và số thuế còn phải truy thu. Trong điều kiện áp dụng cơ chế tự khai thuế, tự nộp thuế thì yêu cầu kiểm tra, kiểm soát cần phải được tăng cường hơn. Vì vậy, để làm tốt công tác này cần phải có bộ phận chuyên trách, có đội ngũ công chức hải quan có kinh nghiệp về nghiệp vụ kế toán, ngân hàng, kiểm toán… giúp cơ quan hải quan trong việc tổ chức theo dõi, quản lý, quyết toán thuế và thu hồi nợ đọng thuế.
- Đảm bảo quyền khiếu kiện, khiếu nại của đối tượng nộp thuế; đồng thời cần triển khai sớm thực hiện cơ chế giám sát thi hành pháp luật thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Khi chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã đảm bảo tính công bằng, minh bạch, ổn định và dễ thực hiện, kể cả đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan đều nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng là yếu tố cơ bản hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. Tuy nhiên, để đảm bảo tính thực tiễn của chính sách thì đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan đều phải nghiêm trỉnh chấp hành, bên nào sai thì phải xử lý theo qui định của pháp luật, tạo sự bình đẳng trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế. Theo đó, để tạo điều kiện bình đẳng giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan cần đổi mới qui trình, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại theo đúng qui định của công ước KYOTO. Cụ thể là đối tượng nộp thuế có quyền lựa chọn khiếu nại với cơ quan hành chính hay khiếu nại ra tòa án để đảm bảo minh bạch và công bằng. Thực hiện bình đẳng và dân chủ trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế cũng là yêu cầu cần thiết để mỗi công chức hải quan, cơ quan hải quan có nghĩa vụ tuân thủ, trách sự đùn đẩy trách nhiệm mà phần thiệt thuộc về đối tượng nộp thuế. Đồng thời, để đảm bảo tính tuân thủ pháp luật về thuế, cần phải bổ sung ngoài quyền kiểm tra, thanh tra về thuế còn có sự giám sát của toàn xã hội đối với công tác thuế nhằm phát hiện xử lý kịp thời các hành vi trái pháp luật của cơ quan hải quan, công chức hải quan và đối tượng nộp thuế, gây hậu quả xấu làm thiệt hại đến lợi ích Nhà nước.
- Nâng cao năng lực cưỡng chế, thu hồi nợ đọng thuế cho cán bộ, công chức hải quan
Để thu hồi nợ đọng thuế, đòi hỏi công chức hải quan trực tiếp theo dõi nợ thuế phải nắm rõ đối tượng nợ thuế, số nợ thuế, tuổi nợ đối với từng loại thuế, từng lô hàng; thường xuyên cập nhật thông tin liên quan đến nợ thuế và thu hồi nợ thuế. Trong điều kiện năng lực tổ chức, quản lý và thu hồi nợ đọng thuế của công chức hải quan trực tiếp làm công tác cưỡng chế và thu hồi nợ đọng thuế còn hạn chế thì cần thiết phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về cưỡng chế, thu hồi nợ đọng thuế, với chương trình đào tạo, bồi dưỡng hợp lý tập trung vào kỹ thuật kiểm tra, kiểm soát nợ thuế, thu thập, cung cấp và xử lý nợ đọng thuế và hệ thống cơ sở dữ liệu để quản lý đối tượng nộp thuế của cơ quan hải quan.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước trong đấu tranh chống gian lận thương mại qua giá
+ Tham khảo kinh nghiệm của các nước trong đấu tranh chống gian lận thông quan các cuộc họp thường niên của Tổ chức Hải quan thế giới.
+ Ký kết các Hiệp định hợp tác với Hải quan các nước trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin về hàng hoá, trị giá, tên doanh nghiệp nhập khẩu...
Tóm lại, xuất phát từ những nguyên tắc, quan điểm và yêu cầu cụ thể trong việc hoàn thiện chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng thích ứng của chính sách thuế nói chung, phù hợp với điều kiện kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong chương này, đề tài đã đề xuất các giải pháp dựa trên nền tảng lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để tiến hành cải cách cơ bản chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, xây dựng cơ chế bảo lãnh, ký quĩ thông quan phù hợp với công ước KYOTO về hài hòa thủ tục hải quan, đến việc tăng cường các biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đối với hàng hóa nhập khẩu làm cho chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trong tương lai sẽ có thể đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đồng thời chỉ ra sự cần thiết phải có các điều kiện để tổ chức thực thi chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như các điều kiện về tổ chức thông tin đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như các điều kiện về tổ chức hệ thông thông tin về đối tượng nộp thuế, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, cơ quan cưỡng chế thuế, cũng như về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ… là đòi hỏi khách quan nhằm đưa chính sách thuế đặc biệt là chính sách ân hạn thuế được thực thi có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn nền kinh tế.
KẾT LUẬN
Vấn đề thất thu thuế nói chung, trong đó có thất thu thuế nhập khẩu luôn là hai mặt trong cùng một vấn đề. Việc tìm ra nguyên nhân, giải quyết ngay từ đầu, từ khâu hoạch định chính sách đến cơ chế tổ chức thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiểm soát có hiệu quả tình trạng nợ đọng thuế, tiến tới hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nợ đọng thuế. Yêu cầu đặt ra cho chính sách thuế nhập khẩu là vừa bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trong đó mục tiêu bảo hộ phải đảm bảo thích ứng với các nguyên tắc của WTO và cam kết quốc tế.
Trong điều kiện hàng rào phi thuế quan đã và đang xóa bỏ triệt để, chỉ dành chỗ cho hàng rào thuế quan; biện pháp thuế quan cũng chỉ dừng lại ở chỗ thuế quan hóa các hàng rào phi thuế quan. Ngoài ra, chính sách bảo hộ cũng phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử, trong phạm vi cam kết thuế quan thông quan mức thuế suất trần đối với từng dòng thuế; các biện pháp trợ cấp để hỗ trợ xuất khẩu cũng từng bước bị bãi bỏ. Do vậy, chinh sách ân hạn thuế được xem là biện pháp cứu cánh, là công cụ kinh tế chủ yếu mà chúng ta đã và đang áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn về vốn. Tuy nhiên, tính hai mặt của chính sách thuế nhập khẩu đã lộ khá rõ đó chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng thất thu thuế; nhưng mặt khác cũng đã góp phần khuyến khích những doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước có điều kiện giải quyết khó khăn về vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO không những trong lĩnh vực thuế mà còn cả các biện pháp để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực thi trong môi trường pháp lý bình đẳng. Vì vậy, cần hoàn thiện chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Đồng thời tăng cường biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao hơn nữa tính chủ động, tự chủ của đối tượng nộp thuế. Hy vọng rằng, những giải pháp đồng bộ trên sẽ góp phần quan trọng trong việc hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế, góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.
Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đọc để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính - Tổng cục Thuế (1998), Chính sách thuế trong điều kiện mở rộng quan hệ với các khu vực kinh tế quốc tế
2. Bộ Tài chính (2006), Báo cáo tình hình thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
3. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, NXB Tài chính, Hà Nội
4. Công ước về đơn giản hóa hài hòa hóa thủ tục hải quan sửa đổi (Công ước KYOTO)
5. Cục tin học và thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế (2007), Báo cáo tình hình thu thuế giai đoạn 1998-2007.
7. Cục tin học và thống kê - Tổng cục Hải quan (2007), Báo cáo thực trạng thất thu nhập khẩu ở Việt Nam
8. Đoàn Ngọc Xuân (2005), “Ân hạn thuế, nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu- thực trạng và giải pháp”
9. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình Nghiệp vụ Thuế (2005), NXB Tài chính
10. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình lý thuyết thuế, NXB Tài chính
11. Quách Đức Pháp (1999), Thuế - Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội
12. Quỹ tiền tệ Quốc tế Việt Nam (2002), Áp dụng tự khai, tự tính, tự nộp thuế và cải cách quản lý thuế
13. Tổng cục Hải quan (1995), Các phương pháp xác định trị giá theo GATT và kiểm toán hải quan, NXB Tài chính, Hà Nội.
14. Tổng cục Hải quan (2003), Luật Hải quan một số nước, NXB Chính trị Quốc gia
15. Tổng cục Hải quan (2005), Hồ sơ xử lý nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
16. Tổng cục Hải quan (2005), Phân tích nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
17. Tổng cục Hải quan (2006), Danh mục các văn bản Luật Hải quan và luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
18. Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thuế (2004), Báo cáo kết quả hội thảo – Thách thức trong cải cách quản lý thuế và hải quan
19. Tổng cục thuế (2000) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001 – 2010”
20. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2003), Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại thế giới
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31582.doc