Chọn hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle để xây dựng hệ thống bán hàng tại công ty VINDA

LỜI MỞ ĐẦU. Cơ sở dữ liệu là một trong những ngành được quan tâm nhiều trong khoa học máy tính, trong công nghệ thông tin. Từ khi có mô hình cơ sở dữ liệu đầu tiên vào những năm 60 đến nay tuy không là chặng đường dài đối với các ngành khoa học khác, nhưng với khoa học máy tính và đặc biệt với cơ sở dữ liệu thì đó là thời gian đáng kể. Cơ sở dữ liệu đã trải qua nhiều thế hệ của hệ quản trị cơ sở dữ liệu, và đã có nhiều ứng dụng trong khoa học và trong các nghành kinh tế quốc dân. Thời đại t

doc127 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Chọn hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle để xây dựng hệ thống bán hàng tại công ty VINDA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông tin ngày nay, bài toán cơ bản và cốt yếu là :Làm thế nào lưu trữ thông tin an toàn và chắc chắn đồng thời lại truy cập chính xác và dễ dàng. Theo thời gian, yêu cầu của bài toán ngày càng cao với lượng thông tin cần lưu trữ, xử lý ngày càng nhiều và đa dạng. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle là một trong những giải pháp tốt nhất, được công nhận trên thị trường tin học thế giới hiện nay. Oracle đã được nghiên cứu và phát triển, cho phép người sử dụng khai thác triệt để tiềm năng của hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ một cách ưu việt và mạnh nhất hiện nay. Nhu cầu tích lũy và xử lý các dữ liệu đã nảy sinh trong mọi công việc, trong mọi hoạt động của con người. Một cá nhân hay một tổ chức có thể đã nhầm có một hệ thống xử lý dữ liệu, dù cơ chế hoạt động của nó là thủ công và chưa tự động hoá. Một bài toán nhỏ cũng cần đến dữ liệu, nhưng không nhất thiết phải quản lý các dữ liệu theo các phương pháp khoa học. Do khả năng tổng hợp của người xử lý, các dữ liệu ấy được lấy ra, được xử lý mà không vấp phải khó khăn nào. Tuy nhiên khi bài toán có kích thước lớn hẳn và số lượng dữ liệu cần phải xử lý tăng lên nhanh thì e rằng tầm bao quát của con người bình thường khó có thể quản lý hết được! Ấy là không kể đến một số loại dữ liệu đặc biệt; chúng đòi hỏi được quản lý tốt không phải vì kích thước mà vì sự phức tạp của bản thân chúng tổ chức xử lý dữ liệu một cách khoa học đòi hỏi con người sử dụng cơ sở dữ liệu. Chính vì thế em đã chọn hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle để xây dựng hệ thống bán hàng tại công ty VINDA làm đồ án tốt nghiệp. Cám ơn các anh chị trong công ty VINDA đã tận tình giúp đỡ tạo điều kiện để đồ án được hoàn thành. Vì thời gian có hạn đồ án chắc còn nhiều thiếu xót, kính mong quý thầy cô, các bạn đóng góp ý kiến để đồ án hoàn thiện hơn. PHẦN MỘT Chương I:CƠ SỞ LÝ THUYẾT I. LỊCH SỬ ORACLE. Vào năm 1977, Larry Ellison, Bob Miner, và Ed Oates thành lập một công ty và đặt tên là Relation Software Incorporated(RSI). Công ty này xây dựng một hệ quản trị cơ sở dữ liệu gọi là Oracle. Ellison, Miner và Oates quyết định phát triển hệ này bằng C và giao tiếp SQL. Ngay sau một thời gian ngắn, họ đưa ra phiên bản một như một nguyên mẫu. Năm 1979, RSI phân phối sản phẩm đầu tiên cho khách hàng: hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle phiên bản 2, làm việc trên Digital PDP-11 chạy hệ điều hành RSX-11 và ngay sau đó chuyển sang hệ thống DEC VAX. Năm 1983 phiên bản 3 được giới thiệu với những thay đổi trong ngôn ngữ SQL. Không như các phiên bản trước đây , phiên bản 3 được viết toàn bộ bằng C. Vào thời điểm này , RSI được đổi tên thành Oracle Corporation. Phiên bản 4 được phát hành vào năm 1984. Phiên bản 5 được giới thiệu vào năm 1985, là mốc lịch sử vì nó đưa công nghệ Client/ Server vào thị trường với việc sử dụng SQL*Net. Năm 1988, Oracle đưa ra phiên bản 6, giới thiệu việc khoá ở mức thấp. Oracle 7 được phát hành năm 1992 bao gồm nhiều thay đổi kiến trúc về bộ nhớ, CPU và tiện ích xuất /nhập. Năm 1997 Oracle giới thiệu Oracle8, thêm phần mở rộng đối tượng cũng như nhiều tính năng và công cụ quản trị mới đặc biệt Oracle 8i phiên bản hỗ trợ nhiều tính năng mới và đặc biệt là các ứng dụng cơ sở dữ liệu Internet. I.1. ORACLE VÀ CÔNG NGHỆ CLIENT/ SERVER. Oracle Corporation trở thành một công ty cơ sở dữ liệu nổi tiếng nhờ tạo ra một hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ kiểu Server với hiệu suất cao và đầy đủ chức năng .Oracle đã vượt qua tầm vóc của một công ty cơ sở dữ liệu khi bổ sung hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ kiểu Server của nó những sản phẩm tích hợp cao được thiết kế đặc biệt cho các ứng dụng xử lý dữ liệu phân tán và công nghệ Client/ Server. II.CƠ SỞ DỮ LIỆU ORACLE TRONG KIẾN TRÚC CLIENT/SERVER. Oracle Corporation đã trở thành người dẫn đầu khi đưa ra công nghệ Client/Server tiên tiến, định hướng phát triển sản phẩm đặc trưng theo hướng hỗ trợ thiết kế, cài đặt và quản lý các hệ thống cơ sở dữ liệu Client/Server. Orcale đã thiết kế các sản phẩm theo một trong ba thành phần chủ yếu của kiến trúc Client/Server: Một hệ cơ sở dữ liệu quan hệ server hiệu suất cao, đủ tính năng, thích ứng cho các chủng loại, từ các máy tính xách tay( laptop, notebook) cho đến các máy mainframe. Sự phát triển client và các sản phẩm run-time hỗ trợ nhiều môi trường GUI Các phần trung gian kết nối cơ sở dữ liệu cung cấp sự giao tiếp bảo mật và hiệu quả trên nhiều lọai hình giao thức mạng. Các sản phẩm Oracle có tính thích ứng cao, cung cấp các giải pháp Client/Server trọn vẹn cho cho các môi trường ứng dụng từ các nhóm làm việc nhỏ đến các môi trường công ty III. HỆ QUẢN TRỊ CƠ SỞ DỮ LIỆU QUAN HỆ ORACLE 8 SERVER. Ngôn ngữ PL/SQL: Một thành phần chính của Oracle8 Server là engine xử lý PL/SQL. PL/SQL là ngôn ngữ thế hệ thứ tư của Oracle, kết hợp các nguyên tố ngôn ngữ thủ tục có cấu trúc với SQL. PL/SQL được thiết kế đặc thù để xử lý client/server, trong đó nó cho phép một khối chương trình PL/SQL chứa logic ứng dụng như các lệnh SQL để đệ trình đến Server với một yêu cầu đơn. Khi sử dụng PL/SQL có thể giảm một cách đáng kể khối lượng xử lý yêu cầu bởi phần Client của ứng dụng và sự lưu chuyển trên mạng để thực hiện phần logic. Các Stored procedure: Việc xử dụng các stored procedure tăng đáng kể hiệu quả của hệ thống Client/Server vì các lý do sau: Gọi một stored procedure từ một ứng dụng Client giảm đáng kể mật độ lưu thông trên mạng. Các stored procedure cung cấp một cơ chế bảo mật hiệu quả và tiện lợi. Cả hai dạng text và đã biên dịch của các stored procedure đều nằm trong cơ sở dữ liệu. Do dạng biên dịch của thủ tục có sẵn và sẵn sàng thực hiện, nhu cầu phân tích cú pháp và biên dịch PL/SQL lúc thi hành được giảm nhẹ. Database trigger: Các trigger cơ sở dữ liệu giống như các stored procedure ở chỗ chúng là các khối PL/SQL thường trú trong cơ sở dữ liệu. Tính toàn vẹn có thể khai báo Khi ta định nghĩa một bảng trong Oracle, các ràng buộc toàn vẹn như là một phần của định nghĩa bảng. Các ràng buộc được hỗ trợ bởi Server khi một bản ghi được chèn, sữa đổi hay xoá. Tính toàn vẹn được hỗ trợ bởi Server làm số mã yêu cầu để kiểm tra bên client và cũng tăng sức mạnh của mô hình giao dịch được định nghĩa bên trong cơ sở dữ liệu. Các User-defined function: Các user- defined function cũng tương tự các stored procedure. IV. CÁC SẢN PHẨM KẾT NỐI MẠNG. Net8: Là một phần mềm kết nối cơ sở dữ liệu dùng để cung cấp các thông tin cơ sở dữ liệu xác thực, tối ưu trên mọi thủ tục mạng thông dụng. Oracle Names: Tạo các liên kết cơ sở dữ liệu chứa các thông tin nút mạng trên một mạng bằng cách sử dụng từ điển toàn cục chung Oracle Names. Multi- protocol Interchange: cung cấp một nhu cầu giao tiếp trên các thủ tục khác biệt bằng cách gửi thông điệp SQL* Net từ thủ tục này sang thủ tục khác. Oracle Network Manager: Quản lý cấu hình và quản lý mạng cơ sở dữ liệu phân tán được thực hiện dễ dàng với Network Manager. Network Manager được sử dụng không chỉ để quản lý từ điển Oracle Names mà còn tạo ra các file cấu hình cho các thành phần Client/Server của SQL*Net và định nghĩa cho các đường kết nối cho các nút Multi-Protocol Interchange. V. CÁC CÔNG CỤ PHÁT TRIỂN CLIENT/SERVER. Các hệ Server: Oracle Unisersal Server có các thành phần tùy chọn: Distributed Option:(Tùy chọn phân tán) cho pháp một số cơ sở dữ liệu Oracle trên các máy tính khác nhau hoạt động như một cơ sở dữ liệu logic đơn. Replication Option(Tùy chọn sao lưu): cho phép một cơ sở dữ liệu Oracle sao chép sự thay đổi lên một cơ sở dữ liệu khác. Context Option(Tùy chọn ngữ cảnh): mở rộng khả năng cho phép người dùng tìm nội dung của một cơ sở dữ liệu Oracle theo các từ khóa và các chủ đề nhất định. Spatial Data Option(Tùy chọn không gian dữ liệu) cho phép một nhà thiết kế lựa chọn tạo ra các chỉ mục đặc biệt hỗ trợ các query tạm thời, không gian tinh vi và các query khác. Oracle Workgroup Server: được thiết kế cho các nhóm làm việc, có các bản cho Netware, Window NT, SCO UNIX và Unix Ware. Oracle Workgroup Server là một giải pháp có tính bảo trì nhỏ có kinh tế để hỗ trợ các nhóm nhỏ người dùng. Persernal Oracle: Là phiên bản chạy trên Windows engine của cơ sở dữ liệu Oracle có đủ các chức năng như Oracle Universal Oracle và Oracle Workgroup Server. Designer 2000: phát triển các ứng dụng Oracle. Developer/2000, Develper 6.0, Jdeveloper for Oracle 8i: Các bộ Developer này gồm Oracle form, Report, Graphics, và Oracle Procedure Builder được tích hợp vào môi trường phát triển Power Object: cung cấp môi trường phát triển ứng dụng nhanh với các đặc trưng kéo thả và quản lý các toàn tác cơ sở dữ liệu tự động. 2.CÁC ỨNG DỤNG 2.1 Các ứng dụng Oracle truyền thống Tài chính. Nhân sự. Quản lý dự án. Bán hàng. Sản xuất. Các ứng dụng OnLine Analytical Processing( OLAP). Các ứng dụng OLAP cung cấp một giao diện đồ hoạ cho các ứng dụng kho dữ liệu nhỏ. Những công cụ này đưa ra mô hình đa chiều cho cơ sở dữ liệu, cung cấp các tác vụ thiết kế, dự báo và thống kê. 3. CÁC HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ORACLE. Khách/chủ không dây:Công nghệ này làm việc trên các mạng nhỏ, đặc biệt thích hợp với người sử dụng laptop và palmtop. Một dạng hơi tiên tiến khác của công nghệ khách /chủ là Oracle Mobile Agents, sử dụng kiến trúc clien-agent-server cho phép một client làm việc offline và kết nối định kỳ với mạng để gửi yêu cầu và nhận kết quả từ server. Thành phần agent của kiến trúc này hoạt động thay cho client khi nó vắng mặt trên mạng. Giao diện Internet/ World Wide Web: Web interface Kit của Oracle được dùng để tích hợp các server World Wide Web với cơ sở dữ liệu Oracle8. Multimedia Server: Khi các ứng dụng sử dụng nhiều kiểu dữ liệu khác nhau, đặc biệt là dữ liệu multimedia, công nghệ server cơ sở dữ liệu cũng cải thiện để quản lý chúng. CHƯƠNG II. CẤU TRÚC CỦA ORACLE. II.1 LỚP VẬT LÝ CỦA ORACLE. 1. Lớp vật lý của Oracle bao gồm: các tập tin dữ liệu(data file), các tập tin điều khiển( control file) và các tập tin phục hồi( redo log file). Tập tin dữ liệu: lưu trữ thông tin chứa trong cơ sở dữ liệu. Phụ thuộc vào kích thước, các bảng và các đối tượng khác có thể nằm trên một hay nhiều tập tin. Các tập tin dữ liệu có kích thước cố định và không bao giờ tự phát triển lớn hơn kích thước ban đầu tạo ra. Mỗi cơ sở dữ liệu cần có ít nhất một tập tin điều khiển các tập tin này ghi tên của cơ sở dữ liệu,vị trí của tập tin dữ liệu, tập tin điều khiển và thông tin đồng bộ để đảm bảo rằng chúng luôn hoạt động ăn khớp với nhau. Các tập tin điều khiển cần được bảo vệ. Các tập tin phục hồi lưu giữ thông tin để phục hồi trong trường hợp hệ thống có sự cố. Các tập tin này ghi lại toàn bộ thay đổi của cơ sở dữ liệu, các tập tin phục hồi có kích thước cố định. 2. Lớp Logic của Oracle gồm: Một hay nhiều không gian bảng(tablespace). Các khung cơ sở dữ liệu (database schema) bao gồm nhiều đối tượng Oracle như:table, cluster, index, view, stored procedure, database trigger, sequence,… Mỗi khung thuộc về tài khoản người dùng gọi tắt là user, được xác định bởi một tên người dùng và một mật khẩu(password) duy nhất đối với cơ sở dữ liệu. Sau khi đăng nhập vào cơ sở dữ liệu bằng username và password hợp lệ, ta có thể truy xuất các bảng cũng như các đối tượng của Oracle trong một khung thuộc tài khoản người dùng vừa đăng nhập. Các bảng có cùng tồn tại trên hai tài khoản người dùng khác nhau của Oracle trong cùng một cơ sở dữ liệu vật lý. Đôi lúc, trên một cơ sở dữ liệu có thể tồn tại nhiều phiên bản khác nhau của các bảng trong các tài khoản khác nhau để người phát triển có thể thử nghiệm hệ thống. Thông thường, người ta hay xem tài khoản người dùng Oracle như một cơ sở dữ liệu, nhưng điều này không đúng hoàn toàn. Ta có thể sử dụng hai tài khoản người dùng để giữ dữ liệu cho hai hệ ứng dụng khác nhau; ta sẽ có hai cơ sở dữ liệu logic được cài đặt trên cùng cơ sở dữ liệu vật lý sử dụng hai tài khoản người dùng Oracle. SCHEMA cơ sở dữ liệu. Tổng quan về các đối tượng của Schema: Một schema kết hợp với một user cơ sở dữ liệu. Một schema là một tập các đối tượng schema sau:table,view,sequence,synonym,index,cluster,database link,snapshot ,store procedure, function, triger, package. Các đối tượng schema là cấu trúc lưu trữ dữ liệu logic. Các đối tượng schema không có mối tương ứng một-một với các tập tin trên đĩa lưu trữ thông tin của nó.Tuy nhiên, Oracle lưu một đối tượng schema trong một không gian bảng của cơ sở dữ liệu về mặt logic. Dữ liệu của mỗi đối tượng được lưu trữ vật lý bên trong một hay nhiều tập tin của không gian bảng. Đối với một đối tượng như: table, index, và cluster ta có thể chỉ định lượng không gian đĩa Oracle định vị cho đối tượng bên trong tập tin dữ liệu của không gian bảng. 3.1 Table Table là đơn vị lưu trữ dữ liệu trong Oracle. Dữ liệu được lưu trong các hàng và các cột. Ta định nghĩa một table với một tên bảng và một tập các cột. Ta gán cho mỗi cột một tên cột, một kiểu dữ liệu một chiều dài hay độ chính xác và scale. Một hàng là một tập các thông tin cột tương ứng với một bản ghi đơn. Ta có thể định nghĩa tuỳ ý các quy tắc đặc thù cho mỗi cột trong bảng. Những quy tắc này gọi là các ràng buộc toàn vẹn. 3.2 View Một view là sự hiển thị dữ liệu chứa trong một hay nhiều bảng. Một view lấy kết xuất của một query và xử lý nó như một bảng. Vì vậy một view có thể xem như là bảng ảo. Ta có thể sử dụng view hầu như ở mọi chỗ có thể sử dụng bảng. 3.3. Bộ sinh mã tuần tự. Bộ sinh mã tuần tự cung cấp một chuỗi số tuần tự. Bộ sinh mã tuần tự đặc biệt hữu ích trong môi trường nhiều người dùng để tạo ra những số tuần tự duy nhất mà không phải tốn công truy xuất I/O đĩa hay khoá chuyển tác.Vì vậy, sẽ giảm sự “chuỗi hoá” mà các lệnh của hai chuyển tác cần phải thực hiện để tạo ra các số tuần tự đồng thời. Nhờ đó, bộ sinh mã tuần tự cải thiện năng suất chuyển tác và giảm đáng kể thời gian chờ đợi của một user. Các sequence là các số nguyên Oracle có 38 chữ số được định nghĩa trong cơ sở dữ liệu. Một định nghĩa sequence sẽ định hướng thông tin tổng quát: tên sequence, tăng lên hay giảm xuống, bước nhảy giữa các số, và các thông tin khác. Một phần quan trọng trong của một định nghĩa sequence là Oracle có trữ trong bộ nhớ một tập các sequence đã tạo ra hay không. Oracle lưu trữ định nghĩa tất cả các sequence của một cơ sở dữ liệu riêng biệt như là các hàng của một bảng từ điển dữ liệu trong không gian bảng System. Vì vậy tất cả các định nghĩa sequence luôn có sẵn vì không gian bảng System luôn mở sẵn. Các số sequence được sử dụng bởi các lệnh SQL tham chiếu sequence. Ta có thể phát ra một lệnh tạo một số sequence mới hay sử dụng một số sequence hiện hành. Khi một lệnh trong một phiên làm việc của user tạo ra một số sequence đặc thù chỉ có sẵn cho session đó; mỗi user tham chiếu đếm một sequence hiện hành của mình. Các số sequence được tạo ra độc lập với các bảng.Vì vậy cùng một bộ sinh mã tuần tự có thể sử dụng cho một hay nhiều bảng. Sự tạo ra các số sequence hữu dụng để tạo các khoá chính duy nhất cho dữ liệu một cách tự động và để định vị các khoá qua nhiều hàng của bảng. Các sequence riêng biệt có thể bỏ qua nếu chúng được tạo ra và sử dụng trong một chuyển tác đã roll back xong. Các ứng dụng có thể cung cấp và sử dụng lại những sequence này, nếu cần. 3.4 Synonym Một synonym là một bí danh của bất kỳ một table,view,snapshot ,sequence,function hay packagesequence. Do một synonym chỉ đơn giản là một bí danh, nó không chiếm nhiều bộ nhớ mà chỉ là một định nghĩa trong từ điển dữ liệu. Các synonym thường được sử dụng do tính bảo mật và tiện lợi. Ví dụ, chúng ta có thể làm những việc sau: che tên và chủ của một đối tượng cung cấp vị trí trong suốt các đối tượng từ xa của cơ sở dữ liệu phân tán đơn giản hoá các lệnh SQL cho người dùng cơ sở dữ liệu Ta có thê tạo ra cả synonym toàn cục lẫn riêng biệt. Một synonym toàn cục thuộc quyền một nhóm user đặc biệt tên PUBLIC và mọi USER trong một cơ sở dữ liệu có thể truy xuất nó. Một synonym riêng nằm trong schema của một user đặc thù mà kiểm soát tính sẵn dùng của nó cho user khác. Các synonym rất hữu ích cho cả môi trường cơ sở dữ liệu phân tán và không phân tán do chúng dấu chỉ danh của đối tượng đang được chỉ định, bao gồm cả vị trí trong một hệ phân tán. Đây là một ưu điểm vì nếu đối tượng đang chỉ định cần phải đổi tên hay di chuyển, chỉ cần định nghĩa lại các synonym và các ứng dụng dựa trên các synonym vẫn tiếp tục hoạt động mà không cần biến đổi. 3.5 Index. Index là cấu trúc tuỳ chọn kết hợp với các table và các cluster. Ta có thể tạo ra các index tường minh để tăng tốc độ thực hiện SQL trên một bảng. Cũng như các Index trong một cuốn sách giúp ta định vị thông tin nhanh hơn so với khi không có index, một index Oracle cung cấp một đường truy xuất dữ liệu của bảng nhanh hơn. Các index là các phương thức chủ yếu giảm xuất/nhập đĩa khi sử dụng thích hợp. Sự vắng mặt hay hiện diện của một Index không yêu cầu thay đổi bất kỳ một lệnh SQL nào. Một index đơn thuần chỉ là một đường truy xuất nhanh đến dữ liệu, nó chỉ ảnh hưởng đến tốc độ thực hiện. Cho một giá trị dữ liệu đã được Index, index trỏ trực tiếp vào vị trí của hàng chứa giá trị đó. Các index độc lập về mặt vật lý và logic với dữ liệu trong bảng kết hợp. Ta có thể tạo ra hay xoá một index bất cứ lúc nào mà không ảnh hưởng đến bảng gốc hay các index khác. Nếu ta bỏ một index, tất cả các ứng dụng vẫn tiếp tục làm việc; tuy nhiên, sự truy xuất đến dữ liệu đã được truy xuất trước đây có thể chậm hơn. Các index là một cấu trúc độc lập yêu cầu không gian lưu trữ . Oracle tự động duy trì và sử dụng các Index một khi chúng đã được tạo ra. Oracle tự động phản ánh sự thay đổi đến dữ liệu trong các index, tương ứng khi thêm các hàng mới, cập nhật hay xoá các hàng mà không cần thêm yêu cầu nào của user. Hiệu năng truy xuất dữ liệu đã index luôn là hằng số, thậm chí khi thêm các hàng mới vào. Tuy nhiên, sự hiện diện của nhiều index trên một bảng giảm hiệu năng sửa đổi, xoá, và chèn vì Oracle cũng cần cập nhật các index kết hợp với bảng. Các index Unique và Non-Unique Các Index có thể duy nhất hay không duy nhất Các index duy nhất trên các bảng tính duy nhất là một khái niệm logic nghiêm ngặt và chỉ nên kết hợp với định nghĩa một bảng. Ta nên thay vào đó bằng cách định nghĩa các ràng buộc toàn vẹn UNIQUE trên cột mong muốn. Oracle hỗ trợ ràng buộc toàn vẹn UNIQUE bằng cách tự động định nghĩa một index unique trên khoá unique. Một index composite là một index tạo ra trên nhiều cột của một bảng. Các cột trong một index composite có thể xuất hiện theo một thứ tự bất kỳ không cần nằm kế nhau trong một bảng. Các index composite có thể tăng tốc độ lấy dữ liệu cho các lệnh SELECT mà mệnh đề WHERE tham trỏ đến tất cả hay những cột đầu trong index composite, Vì vậy, thứ tự các cột xuất hiện trong định nghĩa rất quan trọng; thông thường, các cột được truy xuất nhiều nhất nên để đầu tiên trong index. Index và key Mặc dù hai thuật ngữ index và key thường dùng như nhau, ta nên hiểu sự khác nhau giữa chúng. Index là các cấu trúc thật sự được lưu trong cơ sở dữ liệu, mà user tạo ra, thay thế hay xoá bằng các lệnh SQL. Ta có thể tạo ra một index để tăng nhanh sự truy xuất đến bảng dữ liệu. Key là một khái niệm hoàn toàn logic. Các key tương ứng với một đặc trưng khác của Oracle gọi là ràng buộc toàn vẹn. Các ràng buộc toàn vẹn hỗ trợ các quy luật hoạt động. Do Oracle sử dụng Index để hỗ trợ một số ràng buộc toàn vẹn, thuật ngữ index và key thường dùng thay thế cho nhau. 3.6 Cluster. Cluster là một phương pháp tùy chọn để lưu trữ dữ liệu bảng. Một cluster là một nhóm các bảng có cùng các khối dữ liệu do chúng có các cột chung và thường sử dụng chung với nhau. Do các cluster lưu trữ các hàng liên quan của hai bảng khác nhau trong cùng một khối dữ liệu, sử dụng cluster một cách thích hợp sẽ có hai lợi điểm sau: Việc xuất nhập đĩa giảm và cải thiện thời gian truy cập nhờ nối các bảng cluster Trong một cluster, một giá trị key cluster đối với mỗi hàng. Mỗi giá trị key cluster được lưu trữ chỉ một lần trong cluster và trong index cluster, không cần biết có bao nhiêu hàng của các bảng khác nhau chứa giá trị đó. Vì vậy, không gian lưu trữ các bảng liên hệ và dữ liệu index trong một cluster luôn hơn khi không cluster. Cluster có thể làm giảm hiệu năng của lệnh INSERT so với việc lưu trữ các bảng tách riêng với index của nó. Khuyết điểm này liên quan đến việc sử dụng không gian và sơ đồ khối dữ liệu cần phải xem để quét một bảng. Do nhiều bảng có dữ liệu trong mỗi khối, lưu trữ một bảng có cluster cần sử dụng nhiều khối hơn là bảng không cluster. Để các định dữ liệu thích hợp lưu trữ ở dạng cluster hay là không cluster, hãy tìm các bảng liên quan đến các ràng buộc toàn vẹn tham chiếu và các bảng thường được truy xuất với nhau thông qua việc sử dụng một kết nối. Nếu ta thực hiện cluster các bảng trên các cột sử dụng để nối dữ liệu bảng, ta giảm số khối dữ liệu cần truy xuất để xử lý query; tất cả các hàng cần thiết để nối trên một cluster key nằm trong cùng một khối. Vì vậy, hiệu năng đối với kết nối được cải thiện. Cũng như index, các cluster không ảnh hưởng đến thiết kế ứng dụng. Sự tồn tại của một cluster trong suốt đối với user và ứng dụng. Ta truy xuất dữ liệu lưu trữ trong một bảng có cluster bằng lệnh SQL như bảng không cluster. II.2. CẤU TRÚC BỘ NHỚ VÀ CÁC QUÁ TRÌNH. 1. Cấu trúc bộ nhớ: Oracle tạo ra và sử dụng cấu trúc bộ nhớ để hoàn thành một số công việc. Ví dụ, bộ nhớ lưu trữ mà chương trình đang được thực hiện và dữ liệu dùng chung của các user. Các cấu trúc bộ nhớ cơ bản kết hợp với Oracle: Vùng toàn cục hệ thống( system global area- bao gồm các buffer cơ sở dữ liệu, các buffer redolog, và shared pool) và vùng toàn cục chương trình( program global areas). Một thể hiện của Oracle(Oracle Instance): Mỗi lúc một cơ sở dữ liệu được tạo ra, một SGA được định vị và các quá trình chạy ngầm (background) của Oracle được khởi tạo. Sự kết hợp giữa các quá trình background và các bộ nhớ đệm gọi là một thể hiện của Oracle. Một thể hiện của Oracle gồm hai loại: các quá trình User và các quá trình Oracle. Một quá trình user thực hiện mã của một chương trình ứng dụng hay một công cụ Oracle. Các quá trình Oracle gồm: các quá trình Server thực hiện các quá trình của user và các quá trình chạy ngầm để duy trì công việc của Oracle Server. System Global Area(SGA). Là một vùng nhớ dùng chung chứa dữ liệu và các thông tin điều khiển của một thể hiện Oracle. Một SGA và các quá trình chạy ngầm của Oracle tạo nên một thể hiện của Oracle. Oracle định vị SGA khi một thể hiện khởi động và giải phóng nó khi thể hiện chấm dứt. Mỗi thể hiện có vùng SGA riêng của nó. Các user đang nối vào một Oracle server chia sẻ dữ liệu trong SGA. Để đạt hiệu năng tối ưu , toàn bộ SGA càng lớn càng tốt để trữ dữ liệu trong bộ nhớ càng nhiều càng tốt giảm truy xuất đĩa. Thông tin lưu trữ trong SGA được chia thành vài loại cấu trúc bộ nhớ: các bộ đệm buffer cơ sở dữ liệu, các bộ đệm redo log, các vùng chia sẽ. Những vùng này có kích thước cố định và được tạo ra khi thể hiện setup. Bộ đệm cơ sở dữ liệu Bộ đệm cơ sở dữ liệu của SGA lưu trữ những khối dữ liệu thường được sử dụng nhất; tập hợp các bộ đệm cơ sở dữ liệu trong một thể hiện gọi là database buffer cache. Buffer cache chứa các khối đã biến đổi. Do những dữ liệu thường được dùng nhất lưu trong bộ nhớ, việc xuất nhập đĩa giảm đi và hiệu năng được cải thiện. Bộ đệm redo log Redo log buffer của SGA lưu trữ các mục redo-quá trình các thay đổi của cơ sở dữ liệu. Các mục redo log lưu trong các redo log buffer được ghi vào trong một tập tin redo log online, sẽ được sử dụng khi cần khôi phục cơ sở dữ liệu. Kích thước của nó không đổi. Vùng chia sẻ Share pool là một phần của SGA chứa các cấu trúc bộ nhớ dùng chung như các vùng SQL dùng chung. Một vùng SQL dùng chung được dùng để xử lý mọi lệnh SQL xác định đưa tới cơ sở dữ lịêu. Một vùng SQL dùng chung chứa thông tin như cây cú pháp và kế hoạch thực hiện tương ứng. Một vùng SQL dùng chung được sử dụng bởi nhiều ứng dụng phát cùng lệnh, để nhiều vùng nhớ chia sẻ hơn cho các user khác. Các cán lệnh Một currsor là một cán bộ nhớ kết hợp với một lệnh xác định. Mặc dù hầu hết các user Oracle dựa vào sự quản lý tự động các currsor của các tiện ích Oracle, các yêu cầu về lập trình giao diện(GUI) đề nghị các nhà thiết kế ứng dụng điều khiển các currsor nhiều hơn. Program Global Area(PGA) PGA là một bộ nhớ đệm chứa dữ liệu và kiểm soát thông tin của một quá trình server. Một PGA được tạo ra bởi Oracle khi một quá trình Server khởi tạo. Thông tin trong một PGA phụ thuộc vào cấu hình của Oracle. Cấu trúc các quá trình. Một quá trình là một tuyến đoạn điều khiển hay một cơ chế trong hệ điều hành mà có thể thực hiện một chuỗi các bước. Một số hệ điều hành sử dụng thuật ngữ công việc hay tác vụ. Một tiến trình thường có một vùng nhớ riêng để chạy. Một Oracle server có hai loại quá trình chính: quá trình user và quá trình Oracle. Quá trình user: Một quá trình user được tạo ra và duy trì để thực hiện mã phần mềm của một chương trình ứng dụng (như chương trình Pro*C/C++) hay một công cụ của Oracle(như Oracle Enterprise Manager). Quá trình user cũng quản lý sự giao tiếp với các quá trình Server. Các quá trình user giao tiếp với các quá trình server qua giao diện chương trình. Cấu trúc quá trình của Oracle. Các quá trình của Oracle được gọi bởi các quá trình khác để để thực hiện các chức năng của quá trình gọi.Chúng bao gồm các quá trình server và các quá trình chạy ngầm. Các quá trình Server: Oracle tạo ra các quá trình server để quản lý các yêu cầu từ các quá trình kết nối của user. Một quá trình Server có nhiệm vụ giao tiếp với quá trình user và tương tác với Oracle để thực hiện các yêu cầu của quá trình user kết hợp. Oracle có thể cấu hình để thích nghi với một số các quá trình user trên một quá trình server. Trong một cấu hình server chuyên dùng, một quá trình server quản lý các yêu cầu cho một quá trình user đơn lẻ. Cấu hình server đa luồng cho phép nhiều quá trình user chia sẻ một số nhỏ các quá trình server, giảm thiểu số quá trình server và tối ưu hoá giảm thiểu tài nguyên hệ thống có sẵn. Trong một số hệ thống, các quá trình user và server được tách biệt riêng, trong khi các hệ thống khác chúng được kết hợp thành một tuyến trình đơn. Nếu một hệ thống sử dụng Server đa luồng hay nếu các quá trình user và server chạy trên các máy khác nhau, chúng cần phải tách riêng. Các hệ thống client/server tách riêng các quá trình user và server và thực hiện chúng trên các máy khác nhau. Các quá trình Background. Oracle tạo ra một tập các quá trình background cho mỗi thể hiện. Chúng hợp nhất các chức năng mà lẻ ra sẽ được quản lý bởi nhiều chương trình Oracle chạy cho mỗi quá trình user. Các quá trình background đồng bộ hoá việc thực hiện xuất nhập và giám sát các quá trình Oracle khác để cung cấp cơ chế song hành nhằm cải thiện hiệu năng và độ tin cậy. Một SGA và một tập các quá trình background tạo nên một thể hiện Oracle. Mỗi thể hiện Oracle có thể sử dụng một vài quá trình background. Giao diện chương trình. Giao diện chương trình là cơ chế giao tiếp của một quá trình server và user. Nó cung cấp một phương thức giao tiếp chuẩn giữa một công cụ hay một ứng dụng client bất kỳ (như Oracle forms) và phần mềm Oracle. Nó có chức năng: hoạt động như một cơ chế giao tiếp bằng cách định dạng yêu cầu dữ liệu, truyền dữ liệu, bẩy và trả về lỗi. Thực hiện việc chuyển đổi và dịch dữ liệu, đặc biệt giữa các loại máy tính khác nhau hay dịch sang kiểu dữ liệu chương trình user. II.3 TRANSACTION, COMMIT, ROLLBACK. Một Transaction là một đơn vị làm việc nguyên tố bao gồm một hay nhiều lệnh SQL; nó bắt đầu khi user kết nối vào cơ sở dữ liệu và kết thúc khi một lệnh COMMIT hay ROLLBACK được phát ra. Sau lệnh COMMIT hay ROLLBACK, một chuyển tác mới tự động bắt đầu. Tất cả các lệnh trong một chuyển tác hoặc là được lưu hết hay đều hồi phục lại hết. Việc COMMIT một chuyển tác tạo sự thay đổi thường trực từ toàn chuyển tác vào cơ sở dữ liệu, và khi đã COMMIT, sự thay đổi không thể thay đảo lại. Sự rollback đảo lại sự thêm, sửa đổi, xoá trong chuyển tác; và khi đã roll back, những thay đổi này không thể COMMIT. Ở bên trong, quá trình COMMIT có nghĩa là ghi những thay đổi đã ghi ở bộ đệm chương redo log của SGA vào các tập tin redo log on line lên đĩa. Nếu thao tác xuất nhập đĩa này thành công, ứng dụng nhận một thông báo chỉ định một commit thành công II.4. CÁC TÁC VỤ KHỞI TẠO VÀ CHẤM DỨT. Một cơ sở dữ liệu Oracle có chỉ có sẵn cho user khi Oracle server được startup và cơ sở dữ liệu được mở. Những tác vụ này cần được thực hiện bởi người quản trị mạng. Việc khởi động một cơ sở dữ liệu và đưa ra những bước sau: Khởi động một thể hiện của Oracle server. Mount cơ sở dữ liệu. Mở cơ sở dữ liệu. Việc chấm dứt một cơ sở dữ liệu mà nó kết nối gồm: Đóng cơ sở dữ liệu. Dismount cơ sở dữ liệu. Shutdown thể hiện của Oracle server. II.5 BẢO MẬT CƠ SỞ DỮ LIỆU. Các hệ thống cơ sở dữ liệu nhiều user như Oracle luôn bao gồm các đặc trưng bảo mật kiểm soát được truy xuất và sử dụng cơ sở dữ liệu. Các cơ chế bảo mật gồm: Ngăn cản sự truy xuất dữ liệu trái phép. Ngăn cản sự truy xuất trái phép các đối tượng schema. Điều khiển việc sử dụng đĩa. Điều khiển việc sử dụng các tài nguyên hệ thống. Giám sát các hành động của user. Theo mặc định,mỗi user tạo ra và có quyền đối với tất cả các đối tượng trong schema tương ứng. Tính bảo mật cơ sở dữ liệu có thể phân làm hai loại riêng biệt: bảo mật hệ thống và bảo mật dữ liệu. Bảo mật hệ thống gồm các cơ chế điều khiển việc truy xuất và sử dụng cơ sở dữ liệu ở mức hệ thống. Ví dụ bảo mật hệ thống bao gồm: Sự kết hợp hợp lệ username/password. Lượng không gian đĩa sẵn có cho mỗi đối tượng schema của user. Giới hạn về tài nguyên cấp cho user. Cơ chế bảo mật hệ thống kiểm tra: User có quyền truy xuất vào cơ sở dữ liệu hay không? Sự giám sát dữ liệu có hoạt động hay không? Các tác vụ hệ thống nào user có thể thực hiện? Bảo mật dữ liệu bao gồm các cơ chế điều khiển sự truy xuất và sử dụng cơ sở dữ liệu ở mức đối tượng schema. Ví dụ bảo mật dữ liệu bao gồm: Xác định quyền của user v._.ới một đối tượng schema xác định và những tác vụ nhất định mà user có thể thực hiện trên đối tượng của schema đó( ví dụ, user SCOTT có thể phát sinh lệnh SELECT và INSERT nhưng không thể dùng lệnh DELETE đối với bảng EMP). Các tác vụ, nếu có, được giám sát với mỗi đối tượng hệ thống. CÁC CƠ CHẾ BẢO MẬT. Oracle Sever cung cấp sự điều khiển truy xuất theo nhiệm ý, tức là một cách giới hạn sự truy xuất thông tin dựa trên đặc quyền(privilege). Một đặc quyền thích hợp cần gán cho một user để user đó có quyền tác động/ xử lý một đối tượng schema. Các user có đặc quyền thích hợp có thể gán cho các user khác đặc quyền tuỳ ý; do đó, loại bảo mật này được gọi là “nhiệm ý”(discretionary). Oracle quản lý sự bảo mật bằng các phương tiện sau: Hình 1: Các đặc trưng bảo mật của Oracle Đặc quyền thực hiện ứng dụng ACCTS_PAY Đặc quyền thực hiện ứng dụng ACCTS_REC Đặc quyền ứng dụng User PAY_CLERK Role MANAGER Role REC_CLERK Role Role User ACCTS_PAY Role ACCTS_REC Role Role ứng dụng Các User và các schema cơ sở dữ liệu Các đặc quyền(privilege) Các vai trò(role) Chỉ định bộ nhớ và quota. Giới hạn tài nguyên. Kiểm tra. II.6. USER CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ SCHEMA. Mỗi cơ sở dữ liệu Oracle có một danh sách username. Để truy xuất một cơ sở dữ liệu, một user cần sử dụng ứng dụng cơ sở dữ liệu và gắn với một username hợp lệ của cơ sở dữ liệu. Mỗi username có một password kết hợp để ngăn ngừa sự truy xuất trái phép. DOMAIN SECURIY(bảo mật vùng). Mỗi user có một domain security- là một tập các tính chất xác định những điều như: Các hoạt động(privilege và role) sẵn có cho user. Các quote tables( không gian đĩa có sẵn) cho user. Giới hạn tài nguyên hệ thống( ví dụ, thời gian xử lý cho CPU) cho user. PRIVILEGE (Đặc quyền) Một privilege là quyền thực hiện một lọai lệnh SQL đặc biệt. Một số privilege như: Quyền kết nối vào cơ sở dữ liệu( tạo ra một session) Quyền tạo bảng trong schema của mình. Quyền chọn các hàng từ bảng của User khác. Quyền thực hiện các store procedure của user khác. Các privilege của một cơ sở dữ liệu Oracle có thể chia thành hai lọai riêng biệt: privilege hệ thống và privilege của các đối tượng schema. PRIVILEGE hệ thống. Privilege hệ thống cho phép user thực hiện một hành động mức hệ thống đặc biệt hay một hành động đặc biệt trên một loại đối tượng schema đặc biệt. Ví dụ., đặc quyền tạo một tablespace hay xóa các hàng trong cơ sở dữ liệu là các đặc quyền mức hệ thống. Nhiều đặc quyền hệ thống chỉ dành cho người quản trị và các nhà phát triển ứng dụng do các đặc quyền này rất mạnh. PRIVILEGE đối tượng schema. Privilege đối tượng schema cho phép các user thực hiện một hành động đặc biệt trên một đối tượng schema đặc biệt. Ví dụ, đặc quyền xoá một số hàng của một bảng, đặc biệt là một privilege đối tượng. Privilege đối tượng được gán cho các người dùng cuối để họ có thể thực hiện một ứng dụng cơ sở dữ liệu nhằm thực hiện một tác vụ xác định. CẤP PRIVILEGE. Privilege được cấp cho các user để họ có thể truy xuất và biến đổi dữ liệu trong một cơ sở dữ liệu. Một user có thể nhận một privilege theo hai cách khác nhau: Các privilege có thể cấp cho user một cách tường minh. Ví dụ, privilege để chèn các record vào bảng EMP có thể gán tường minh cho user scott. Các privilege có thể gán cho các role( là một nhóm các privilege được đặt tên), và sau đó role có thể gán cho một hay nhiều user. Ví dụ, privilege chèn các record vào bảng EMP có thể gán cho một role tên CLERK, và sau đó role này sẽ được cấp cho các user SCOTT và BRIAN. Do các role cho phép quản lý các privilege dễ dàng và tốt hơn , các privilege thường được gán cho các role chứ không cho một user xác định. ROLE Cung cấp việc quản lý privilege một cách dễ dàng qua các role. Các role là một nhóm các privilege có liên quan được đặt tên để cấp cho các user hay các role khác. Các tính chất sau cho phép quản lý các role dễ dàng hơn: Giảm việc cấp privilege-Thay vì cấp tường minh cùng một tập privilege cho nhiều user, người quản trị cơ sở dữ liệu có thể gán các privilege cho một role, sau đó người quản trị cơ sở dữ liệu có thể gán role cho các thành viên của nhóm. Quản lý privilege động- Khi các privilege của một nhóm cần thay đổi, chỉ cần biến đổi privilege của role cần biến đổi. Domain bảo mật của tất cả các user được cấp role của một nhóm tự động phản ánh thay đổi được thực hiện trong role. Tính sẵn có chọn lọc của privilege- Các role được cấp cho một user có thể cho phép, sẵn dùng, hay không cho phép, không sẵn dùng, một cách chọn lọc. Điều này cho phép điều khiển đặc quyền của một user trong tình huống đã cho. Hỗ trợ ứng dụng- một ứng dụng cơ sở dữ liệu có thể thiết kế cho phép hay không cho phép một cách chọn lọc các role một cách tự động khi các user sử dụng ứng dụng. Người quản trị mạng thường tạo ra các role cho một ứng dụng cơ sở dữ liệu. Data Base Aministrator(DBA) cấp cho role của một ứng dụng tất cả các privilege cần thiết để chạy ứng dụng. DBA sau đó cấp role ứng dụng cho các role khác hay user. Một ứng dụng có thể có một số role khác nhau, mỗi cái được cấp một tập các privilege mà cho phép truy xuất sử dụng ứng dụng cơ sở dữ liệu. DBA có thể tạo ra một role có password để ngăn cản sự sử dụng trái phép các privilege cấp cho role. Thông thường, một ứng dụng được thiết kế sao cho khi khởi động nó cho phép một role thích hợp. Do đó, user sử dụng ứng dụng không cần biết password của một role của ứng dụng. CÁC XÁC LẬP LƯU TRỮ QUOTA. Oracle cung cấp các biện pháp để định hướng và giới hạn việc sử dụng không gian của cơ sở dữ liệu trên từng User, bao gồm các tablespace, tablespace mặc định, tablespace tạm thời và các quota tablespace. Tablespace tạm thời. Mỗi user có một tablespace mặc định. Khi user tạo ra một bảng index hay cluster mà không chỉ định cụ thể một tablespace, tablespace mặc định sẽ được sử dụng nếu user có privilege tạo ra các đối tượng schema và có quota trong tablespace mặc định. Đặc trưng tablespace mặc định giúp Oracle chỉ định nơi lưu trữ trong trường hợp vị trí của đối tượng schema không được chỉ định. Tablespace tạm thời. Mỗi user có một tablespace tạm thời. Khi một user thực hiện một lệnh SQL, mà yêu cầu tạo ra một segment tạm thời( như tạo một index), tablespace tạm thời của các user vào một tablespace riêng, đặc trưng tablespace tạm thời có thể giảm sự tranh chấp xuất hiện giữa các segment tạm và các loại segment khác. Các quota tablespace. Oracle có thể giới hạn lượng không gian đĩa sẵn để cung cấp cho các đối tượng trong một schema. Các quota có thể xác lập cho từng tablespace có sẵn của user. Đặc trưng bảo mật quota tablespace điều khiển chọn lọc lượng không gian đĩa tiêu tốn bởi các đối tượng của các schema xác định. CÁC PROFILE VÀ GIỚI HẠN TÀI NGUYÊN. Mỗi user được gán một profile chỉ định các giới hạn tài nguyên trên một số tài nguyên hệ thống có sẵn cho user, bao gồm. Số session có thể được thiết lập đồng thời bởi user. Thời gian truy xuất CPU. Sẵn có cho session của user. Sẵn có cho lần gọi Oracle của một lệnh SQL. Lượng xuất nhập logic: Sẵn có cho session của user. Sẵn có cho một lần gọi Oracle của một lệnh SQL. Lượng thời gian rỗi cho phép của một session của user. Lượng thời gian kết nối cho phép của một session của user. Các giới hạn password: Khóa account sau nhiều lần cố gắng login thất bại. Sự hết hạn của password và chu kỳ gia hạn Sự sử dụng lại password và các hạn chế phức tạp. SỰ KIỂM TRA Oracle cho phép kiểm tra chọn lọc( giám sát có đăng ký) các hành động của user nhằm điều tra các sử dụng cơ sở dữ liệu không rõ ràng. Sự giám sát có thể được thực hiện ở ba mức: kiểm tra lệnh, kiểm tra đặc quyền, kiểm tra các đối tượng schema. Kiểm tra lệnh: sự kiểm tra các lệnh SQL xác định mà không quan tâm đến tên các đối tượng schema. Sự kiểm tra lệnh có thể mở rộng và kiểm tra tất cả các user của hệ thống hay chỉ tập trung kiểm tra các user có lựa chọn hệ thống Kiểm tra đặc quyền: sự kiểm tra các đặc quyền hệ thống quan trọng mà không quan tâm đến tên các đối tượng schema. Sự kiểm tra lệnh có thể mở rộng và kiểm tra tất cả các user của hệ thống hay chỉ tập trung kiểm tra các user có lựa chọn hệ thống. Kiểm tra các đối tượng schema: Kiểm tra sự truy xuất đến một đối tượng schema nhất định mà không quan tâm đến user. Sự kiểm tra đối tượng giám sát các lệnh được cho phép theo đặc quyền đối tượng, như các lệnh SELECT hay DELETE trên một bảng đã cho. Đối với tất cả các loại kiểm tra, Oracle cho phép kiểm tra chọn lọc sự thực hiện lệnh thành công, sự thực hiện lệnh không thành công, hay cả hai. Điều này cho phép giám sát các lệnh khả nghi, không kể user có phát lệnh có đặc quyền thích hợp hay không. TRUSTED ORACLE. Trusted Oracle là một sản phẩm quản lý bảo mật cơ sở dữ liệu nhiều mức của công ty Oracle. Nó được thiết kế để cung cấp khả năng bảo mật cơ sở dữ liệu cao nhằm phục vụ yêu cầu các tổ chức xử lý những dữ liệu tế nhị hay bảo mật. Trusted Oracle tương thích với các sản phẩm cơ bản của Oracle, và nó hỗ trợ tất cả các chức năng của Oracle. II.7 BẢO MẬT ỨNG DỤNG. 1. Tổng quan. Chế độ bảo mật ứng dụng giới hạn việc truy cập cơ sở dữ liệu từ phía Client của hệ thống. Bảo mật cơ sở dữ liệu giới hạn đến việc truy xuất đến các đối tượng cơ sở dữ liệu đặc biệt trong khi bảo mật ứng của ứng dụng giới hạn việc truy xuất các đối tượng giao diện đặc biệt. Nói rộng ra, bảo mật ứng dụng bao gồm cả việc sử dụng bất kỳ đối tượng cơ sở dữ liệu nào của ứng dụng được dùng để nâng cao chế độ bảo mật. Bảo mật của ứng dụng được sử dụng để tăng cường và bổ sung chế độ bảo mật của cơ sở dữ liệu. Tuy thế, không nên chỉ tin vào chế độ bảo mật của ứng dụng, vì không ai tin rằng user chỉ truy cập đến dữ liệu thông qua dữ liệu đã viết. Bảo mật của ứng dụng có thể nâng cao mức bảo mật cơ sở dữ liệu bằng cách giới hạn hơn nữa việc truy xuất đối tượng cơ sở dữ liệu bằng cách giới hạn hơn nữa việc truy xuất đối tượng cơ sở dữ liệu và bằng cách cung cấp một lớp trừu tượng bổ sung. Nếu giới hạn cả việc truy cập các stored procedure, function của ứng dụng và tạo thêm các role đặc biệt cho ứng dụng, ta có thể dấu các đối tượng ứng với các user đặc biệt hay các role đặc biệt khi truy xuất hệ thống. Tương tự như chế độ bảo mật cơ bản, ứng dụng có thể giới hạn việc truy xuất đến các cột hay chỉ định cột nào đó là chỉ đọc bằng cách sử dụng các view khác nhau ứng với các role khác nhau của user. Trong các ứng dụng thông thường, giao diện cho phép user làm việc với cơ sở dữ liệu thông qua các trình đơn, các forms tương ứng với các tiến trình và các đối tượng hoạt động. Đó là một lớp thuận lợi cho việc ngăn ngừa user hiểu biết tên các bảng và các cột được truy xuất. Trong nhiều trường hợp, thông tin của cơ sở dữ liệu sẽ dùng để quản lý các hoạt động của giao diện, dựa trên các role của user. Các bảng của hệ thống chứa các thông tin bảo mật cho ứng dụng sẽ điều khiển các khả năng của giao diện là sẳn dùng. Các tuỳ chọn trình đơn và các forms sẽ được hiện ra cho các user có đặc quyền và sẻ ẩn đi nếu user không được phép. Một lý do nữa để cần phải sử dụng bảo mật ứng dụng là ta có thể truy xuất cơ sở dữ liệu từ nhiều ứng dụng khác nhau. Lúc này user có thể có các role khác nhau ứng với các ứng dụng khác nhau. SỬ DỤNG ĐỐI TƯỢNG CƠ SỞ DỮ LIỆU CỦA ỨNG DỤNG. Sự phân biệt giữa bảo mật ứng dụng và bảo mật cơ sở dữ liệu đôi lúc mập mờ như khi ta dùng các đối tượng cơ sở dữ liệu của ứng dụng. Khi các ứng dụng khác nhau cùng truy cập đến đến một cơ sở dữ liệu chung . Khi tạo ra các đối tượng để dùng cho một ứng dụng cụ thể thì bảo mật ứng dụng là dùng chung. Dù cho đối tượng tồn tại trong cơ sở dữ liệu, và bảo mật cơ sở dữ liệu đã được áp dụng, nhưng nếu đối tượng đó chỉ dùng cho một ứng dụng cụ thể nào đó, thì ta có thể coi đó là ứng dụng chủ “Owner” của nó. Theo định nghĩa chung về bảo mật ứng dụng hệ thống, các đối tượng “cơ bản”( cluster, tables, indexes, sequence) và các quyền cấp cho các đối tượng này thuộc loại bảo mật cơ sở dữ liệu. Các đối tượng khác như view, procedures và function được coi là các đối tượng cơ sở dữ liệu ứng dụng và các quyền cấp về chúng thuộc loại bảo mật ứng dụng. Thông thường, trong môi trường cơ sở dữ liệu lớn, nhà quản trị cơ sở dữ liệu chính sẽ không chịu trách nhiệm về việc tạo và bảo trì các đối tượng cơ sở dữ liệu ứng dụng. Một cách có thể áp dụng để tạo bảo mật cho một cơ sỏ dữ liệu lớn được truy xuất từ nhiều ứng dụng là cung cấp quyền tạo sequence và views của các bảng cho các nhà phát triển hay quản trị để họ đóng vai trò là những nhà quản trị cơ sở dữ liệu cho các ứng dụng riêng biệt của mình. Hình 2. Vai trò của các đối tượng cơ sở dữ liệu trong bảo mật ứng dụng. TABLES SEQUENCES VIEWS PUBLIC SYNONYMS Tables PROCEDURE& FUNCTION PUBLIC SYNONYMS VIEWS PROCEDURE VÀ FUNCTION BÊN TRONG LỚP ĐỐI TƯỢNG ỨNG DỤNG CLIENT Đối tượng ứng dụng Đối tượng CSDL Sequences CHƯƠNG III: ORACLE VÀ MÔ HÌNH MẠNG. Tổng quan về NET8. Net8 là nền tảng cho các họ sản phẩm mà Oracle xây dựng nên. Nhờ vào Net8 tất cả mọi dịch vụ và ứng dụng của Oracle nằm trên các máy tính khác nhau đều có thể dễ dàng truy cập và trao đổi dữ liệu với nhau như đang làm việc trên cùng một máy. Chức năng chủ yếu là thiết lập các phiên chuyển tác mạng và trao đổi giữa các máy client/server hay giữa các server-server với nhau. Mỗi máy tính có ứng dụng Oracle muốn tham gia vào hệ thống mạng đều phải được cài Net8 trên đó. Các phiên kết nối mạng được thiết lập thông qua cơ chế lắng nghe và phản hồi. Một chương trình trên máy chủ được gọi là listener sẽ chạy thường xuyên như là một dịch vụ, tiếp nhận tất cả các kết nối từ các máy khác( máy client) đến cơ sở dữ liệu( máy server, nơi chứa cơ sở dữ liệu và cũng là nơi Listener đang hoạt động ). Bộ tiếp nhận đóng vai trò như một môi giới hướng dẫn các yêu cầu kết nối xuất phát từ máy client đến máy server. Mỗi khi có một máy client yêu cầu một phiên kết nối mạng đến máy mà Listener đang hoạt động, Listener sẽ tiếp nhận những thông tin kết nối do máy client đưa đến. Nếu những thông tin này phù hợp với những thông tin mà mà Listener nắm giữ thì máy client sẽ được listener cấp cho quyền kết nối vào máy server. Như vậy muốn kết nối với cơ sở dữ liệu của Oracle một ứng dụng trên máy client cần phải thiết lập đúng những thông số kết nối mà chương trình listener trên máy server quy định. Trên một môi trường mạng rộng lớn đòi hỏi nhiều kết nối đến cơ sở dữ liệu để truy xuất cùng một dịch vụ, thay vì sử dụng cơ chế listener Net8 cho phép cài đặt bộ tiếp nhận listener và quản lý các kết nối trên một máy tính riêng biệt bằng chương trình Oracle Connection Manager. Khi đó thao tác kết nối với listener nằm trên một máy tính trung gian không còn hoạt động chung với các dịch vụ trên máy server nữa. II. CÁC KHÁI NIỆM VÀ KIẾN TRÚC MẠNG CỦA ORACLE. Net8 sử dụng khái niệm” Nền giao tiếp mạng trong suốt”(Trasparent Net Work Subtrate) gọi tắt là TNS, cùng với các chuẩn công nghiệp về giao tiếp mạng để thực hiện những kết nối giữa máy client-server cũng như thiết lập các phiên làm việc trên mạng cho ứng dụng Oracle. Net8 đảm nhiệm khả năng giao tiếp giữa nhiều máy trong hệ một hệ thống mạng thực hiện những chuyển tác phân tán của Oracle bất chấp các kết nối được thực hiện dưới hình thức client-server hay giữa các server-server với nhau. Hoạt động của các dịch vụ mà Net8 cung cấp chủ yếu là ba thao tác: Thao tác thực hiện kết nối giữa các máy. Thao tác trên dữ liệu Các tháo tác xử lý ngọai lệ III. KIẾN TRÚC CỦA NET8 Kiến trúc của Net8 gồm: Môi trường mạng Net8 và nền giao tiếp mạng trong suốt Các tầng giao tiếp mạng. Các tầng giao tiếp mạng bên trong môi trường mạng điển hình của Oracle. Các tầng giao tiếp mạng trong môi trường IIOP. Tương tác giữa Server và Server. Các tầng giao tiếp mạng trong môi trường JDBC. IV. MÔI TRƯỜNG MẠNG. Môi trường mạng của Oracle được xây dựng trên hai khái niệm: Tiến trình xử lý phân tán Cơ sở dữ liệu phân tán. Server Client *Tiến trình xử lý phân tán Cơ sở dữ liệu của Oracle và các ứng dụng phía client hoạt động theo cách của một môi trường xử lý phân tán. Tiến trình xử lý phân tán là sự tương tác giữa hai hay nhiều máy cùng truy xuất vào cơ sở dữ liệu khác nhau để hoàn tất một thao tác chuyển tác về xử lý và truy xuất dữ liệu. Các ứng dụng bao gồm những công cụ của Oracle như SQL*Plus, Schema Manager chẳng hạn đều có khả năng yêu cầu nhiều Server chứa cơ sở dữ liệu đồng thời thực hiện các thao tác khác nhau để trả về một kết quả truy vấn duy nhất. Trong một cấu hình mạng điển hình, máy client và server được cài đặt như là những thực thể tách biệt nhau về mặt vật lý cũng như logic. Cấu hình mạng tách biệt này cho phép thể hiện sự phân công lao động giữa các và phân bổ tài nguyên một cách hiệu quả. Những ,máy này không đòi hỏi cấu hình mạnh nên chỉ là những máy cần tốc độ xử lý và bộ nhớ ở mức bình thường là đủ. Ngược lại server được xem như là những máy chuyên biệt, lưu trữ tài nguyên và dữ liệu để phân bố cho các client. Máy server thường trang bị cấu hình tối đa về dung lượng đĩa, tốc độ xử lý, bộ nhớ, cơ chế bảo mật và sao lưu dữ liệu… Và như vậy giữa client và Server đã có sự phân công và cùng hợp tác để phục vụ cho mục đích xử lý dữ liệu của các chương trình. Cơ sở dữ liệu phân tán: Là một cơ sở dữ liệu gồm nhiều cơ sở dữ liệu địa phương có quan hệ logic với nhau mà được phân tán trên nhiều trạm làm việc của một mạng máy tính. Đối với người dùng tập hợp cơ sở dữ liệu nằm rãi rác trên mạng có liên quan đến nhau khi truy xuất sẽ được xem như là một cơ sở dữ liệu duy nhất. Các server chứa cơ sở dữ liệu phân tán thường được liên kết với nhau bằng data link hoặc bằng đường dẫn từ một cơ sở dữ liệu này đến một cơ sở dữ liệu khác. Xu thế phát triển của cơ sở dữ liệu phân tán: Cơ cấu tổ chức kinh tế phi tập trung Sự tăng trưởng Giảm chi phí truyền thông Kiến trúc của cơ sở dữ liệu phân tán. SƠ ĐỒ ÁNH XẠ ĐỊA PHƯƠNG 1 SƠ ĐỒ ÁNH XẠ ĐỊA PHƯƠNG n DBMS1 DBMSn CSDL1 CSDLn SƠ ĐỒ TỔNG THỂ SƠ ĐỒ PHÂN ĐOẠN SƠ ĐỒ SẮP CHỖ Sơ đồ tồng thể Bao gồm tập toàn bộ dữ liệu của xí nghiệp được biểu diển bỡi mô hình quan hệ Tập các quan hệ tổng thể Mỗi quan hệ là một đối tượng của cơ sở dữ liệu phân tán và qua hệ đó được tách thành các bộ phận không bao trùm lên nhau. Mỗi bộ phận đó là một đoạn. Sơ đồ sắp chỗ Mỗi đoạn là một đơn vị logic của cơ sở dữ liệu phân tán mà nó được định vị tại một hoặc nhiều trạm làm việc. CÁC MỨC TRONG SUỐT KHÁC NHAU * Mức trong suốt phân đoạn: Người sử dụng biểu diễn ứng dụng trên các quan hệ tổng thể mà không hề biết về sự phân đoạn cũng như sự sắp chỗ của quan hệ tổng thể. Sự phân đoạn là hoàn toàn trong suốt đối với người sử dụng. Mức trong suốt ánh xạ định vị Người sử dụng biểu diển trên các đoạn do vậy người sử dụng biết sự phân đoạn của quan hệ tổng thể. Tuy nhiên sự định vị của các đọan là trong suốt đối với người sử dụng. Mức trong suốt ánh xạ địa phương Người sử dụng biểu diễn ứng dụng trên các đọan mà còn phải chỉ rõ làm việc trên bản sao nào của đoạn. CHƯƠNG IV: ORACLE VÀ CẤU HÌNH MẠNG SERVICE VÀ NHỮNG CHỨC NĂNG PHỤC VỤ CỦA ORACLE. Oracle xây dựng rất nhiều loại service để hỗ trợ và phục vụ cho các thao tác kết nối cũng như truy xuất cơ sở dữ liệu. Một Service thường có hai thao tác chính mà bạn cần quan tâm là START và STOP. Khi một Service được START nó sẽ ở trạng thái sẵn sàng phục vụ cho mọi yêu cầu gửi đến theo cách thức mà ứng dụng quy định. Khi STOP một Service cũng đồng nghĩa với các dịch vụ hay ứng dụng mà bạn yêu cầu phục vụ không còn có sẵn nữa. Chương trình listener của Oracle là một Service dễ hình dung nhất. II. TỔNG QUAN VỀ CÁC CẤU HÌNH VÀ KẾT NỐI CỦA ORACLE. Do cơ sở dữ liệu và các ứng dụng của Oracle hoạt động theo mô hình mạng client/server nên hầu hết các cấu hình cần thiết lập cần phải ăn khớp nhau giữa client với server. Muốn cơ sở dữ liệu trên máy Server chấp nhận kết nối máy client cần phải được cấu hình thiết lập các thông số cho Net Service Name các thông số mà Net Service Name nắm giữ phải phù hợp với những thông số thiết lặp trong tập tin LISTENER.ORA do chương trình kiểm soát. Các thông số này chủ yếu bao gồm địa chỉ mạng của máy Server và các giao thức dùng để kết nối. Trong quá trình kết nối máy client sẽ gửi thêm thông tin về định danh của cơ sở dữ liệu trên máy chủ để LISTENER biết cách gửi những yêu cầu của bạn đến đúng Service của cơ sở dữ liệu mà bạn cần truy xuất. Tập tin LISTENER.ORA dùng lưu những thông tin quy định cách ứng xử và kiểm soát kết nối của Services listener, các thông tin này bao gồm địa chỉ mạng nơi listener muốn tiếp nhận kết nối( thường là địa chỉ máy Server), giao thức mà Listener dùng để liên lạc và hiểu được máy Client, cổng giao tiếp( dành cho giao thức TCP/IP), định danh SID của cơ sở dữ liệu cần LISTENER phục vụ ( hay chuyển giao các yêu cầu truy xuất từ phía client đưa đến). Tập tin này thường được ORACLE đặt tại thư mục ORACL_HOME\Net80\Admin \ trên máy server. Để kết nối với Server máy Client dùng Net Service Name là một chuỗi thông tin được lấy từ tập tin TNSNAMES.ORA( trên máy client cục bộ tập tin này thường được ORACLE lưu trong thư mục ORACLE_HOME\Net80\Admin) hoặc trên một máy Server khác(Oracle Names Server) trong trường hợp bạn có nhiều cơ sở dữ liệu và cần truy xuất trên mạng diện rộng với quy mô cơ sở dữ liệu phân tán lớn. Khi cấu hình máy client ( hay Server đóng vai trò client) chúng ta cần phải quan tâm đến những thông số máy kết nối này. Tổng quát ta có hai cách thiết lập cấu hình cho Net Services Name ở máy Client là: Cấu hình quản lý cục bộ. Địa chỉ mạng và giao thức quy định kết nối được đặt trong tập tin TNSNAMES. ORA hoặc chỉ dùng tập tin WINNT\SYSTEM32\DRIVER\ETC\HOST duy nhất của Window NT. Công cụ của Oracle giúp bạn thực hiện công việc này là Oracle Net8 Easy Config hay Net 8 Assistance. Cấu hình quản lý tập trung. Tất cả tên Net Service Name và địa chỉ kết nối với Server được đặt trên một máy chủ khác(ONS- Oracle Name Server). Máy client chỉ cần quan tâm đến địa chỉ máy ONS các thông tin khác về Server chứa cơ sở dữ liệu sẽ được ONS cho biết. Công cụ hỗ trợ cấu hình này của Oracle là Oracle Net8 Assistance. III. NET8 VÀ “NỀN GIAO TIẾP MẠNG TRONG SUỐT”. Khái niệm “trong suốt” thường để chỉ những phần mềm trung gian giúp ta thực hiện một thao tác nào đó mà không cần biết đến cơ chế hoạt động hay sự hiện diện của thành phần trung gian. Oracle cung cấp mô hình hoạt động và giao tiếp mạng tương tự như vậy. Tất cả các lời gọi kết nối đều với mạng đều do TNS( Transaparent Network Subtrate) hay “Nền giao tiếp mạng trong suốt” quản lý và chuyển tải. Kỹ thuật và nền tảng của TNS được xây dựng bên trong Net8 cung cấp một cách giao tiếp duy nhất cho tất cả các giao thức mạng hiện nay đang được sử dụng rộng rãi như: TCP/IP, IPX, Pies… Với TNS mọi ứng dụng ngang hàng đều có thể kết nối được với nhau một cách tự nhiên. Trong kiến trúc mạng ngang hàng gồm hai hay nhiều máy tính ( mỗi máy tính được xem như là một node hay là một nút mạng) có thể giao tiếp trực tiếp với nhau không cần thông qua một thiết bị trung gian nào khác. Với hệ thống ngang hàng mỗi node đều có thể đóng vai trò là một client hoặc một server. IV. CÁC TẦNG GIAO TIẾP. Khái niệm xử lý các tiến trình phân tán mà ta đã nêu trước đây dựa vào khả năng của nhiều máy tính tách biệt nhau có thể giao tiếp và tương tác với nhau thông qua những tầng giao tiếp được thiết kế khác nhau về mặt vật lý. Các tầng giao tiếp này được thiết kế theo mô hình hệ thống mở (Open System Interconnection gọi tắt là OSI). Trong mô hình OSI, giao tiếp giữa các máy tính khác biệt nhau được thực hiện thông qua việc phân chia trách nhiệm trong việc chuyển và xử lý một gói thông tin xuyên qua nhiều tầng tách rời. Phía máy client thông tin từ tầng cao nhất sẽ được phân tích và chuyển dần xuống các tầng dưới. Tầng vật lý cuối cùng sẽ chuyển thông tin qua mạng đến máy server. Tại máy server gói thông tin sẽ được phân tích và chuyển xuống thông qua các tầng giao tiếp theo hướng ngược lại. Điều hấp dẫn của tiếp cận OSI chính là ở chỗ nó hứa hẹn giải pháp cho vấn đề truyền thông giữa các máy tính không giống nhau. Hai hệ thống dù khác nhau như thế nào đi nữa, điều có thể truyền thông với nhau một cách hiệu quả nếu chúng đảm bảo những điều kiện sau đây: Chúng cài đặt một tập các chức năng truyền thông Các chức năng đó được tổ chức thành một tập các tầng. Các tầng đồng mức phải cung cấp các chức năng như nhau Các tầng đồng mức phải sử dụng một giao thức chung. Để đảm bảo những điều trên cần phải có các chuẩn. Các chuẩn phải xác định các chức năng và dịch vụ được cung cấp bởi một tầng. Theo cách tiếp cận OSI, trong mỗi tầng của một hệ thống có một hoặc nhiều thực thể(entity) hoạt động. Một(N) entity (thực thể của tầng N) cài đặt các chức năng của tầng N và giao thức truyền thông với các(N) entity trong các hệ thống khác. Một tiến trình trong một hệ đa xử lý là một ví dụ của thực thể. Hay đơn giản hơn, một thực thể có thể là một trình con(subroutine). Mỗi thực thể truyền thông với các thực thể ở các tầng trên và dưới nó thông qua một giao diện. Giao diện này gồm một hoặc nhiều điểm truy cập dịch vụ(Service Access Point-viết tắt là SAP). (N-1) entity cung cấp dịch vụ cho một (N) entity thông qua việc gọi các hàm nguyên thuỷ( primitive). Hàm nguyên thuỷ chỉ rỏ các chức năng thực hiện và được dùng để chuyển dữ liệu và thông tin điều khiển. Lời gọi trình con chính là một dạng cài đặt cụ thể của một hàm nguyên thuỷ. Bốn hàm nguyên thuỷ được dùng để định nghĩa tương tác giữa các tầng kề nhau, đó là: Request(yêu cầu): Là hàm nguyên thuỷ mà Service User( người sử dụng dịch vụ) dùng để gọi một chức năng. Indication(chỉ báo): là hàm nguyên thuỷ mà Service Provider( người cung cấp dịch vụ) dùng để: Gọi một chức năng hoặc chỉ bảo một chức năng đã được gọi ở một điểm truy cập dịch vụ(SAP) Respone( trả lời): Là hàm nguyên thủy mà Service User dùng để hoàn tất một chức năng đã được gọi từ trước bởi một hàm nguyên thủy Indication ở SAP đó. Confirm(xác nhận): Là hàm nguyên thủy mà Service Provider dùng để hoàn tất một chức năng đã được gọi từ trước bởi một hàm nguyên thủy Request tại SAP đó. Mô hình tham chiếu OSI 7 tầng: Tầng vật lý. Theo định nghĩa của ISO, tầng vật lý cung cấp các phương tiện điện, cơ,chức năng thủ tục để kích hoạt, duy trì và đình chỉ liên kết vật lý giữa các hệ thống. Ở đây thuộc tính điện liên quan đến sự biểu diễn các bit và tốc độ truyền các bit, thuộc tính cơ liên quan đến các tính chất vật lý của giao diện với một đường truyền( kích thước, cấu hình). Thuộc tính chức năng chỉ ra các chức năng được thực hiện bởi các phần tử của giao diện vật lý, giữa một hệ thống và đường truyền và thuộc tính thủ tục liên quan đến giao thức điều khiển việc truyền các xâu bit qua đường truyền vật lý. Khác với các tầng khác, tầng vật lý là tầng thấp nhất giao diện với đường truyền không có PDU cho tầng vật lý, không có phần header chứa thông tin điều khiển(PCI), dữ liệu được truyền đi theo dòng bit. bởi giao thức cho tầng vật lý không xuất hiện với ý nghĩa giống như đối với các tầng khác. Tầng liên kết dữ liệu. Tầng liên kết dữ liệu cung cấp các phương tiện để truyền thông qua liên kết vật lý đảm bảo tin cậy thông qua liên kết vật lý đảm bảo tin cậy thông qua các cơ chế đồng bộ hoá, kiểm soát lỗi và kiểm soát luồng dữ liệu. Tầng mạng. Cấu trúc tầng mạng được nhiều chuyên gia đánh giá là phức tạp nhất trong các tầng của mô hình OSI. Tầng mạng cung cấp các phương tiện để truyền các đơn vị dữ liệu qua mạng, thậm chí qua một mạng của các mạng. Bởi vậy nó cần phải đáp ứng nhiều kiểu mạng và nhiều kiểu dịch vụ cung cấp bởi các mạng khác nhau. Các dịch vụ và giao thức cho tầng mạng là phải phản ánh được tính phức tạp đó. Hai chức năng chính của tầng mạng là chọn đường và chuyển tiếp. Tầng giao vận. Trong mô hình OSI người ta phân biệt 4 tầng thấp và ba tầng cao. Các tầng thấp quan tâm đến việc truyền dữ liệu giữa các hệ thống cuối qua phương tiện truyền thông, còn các tầng cao tập trung đáp ứng các yêu cầu và các ứng dụng của người sử dụng. Tầng giao vận là tầng cao nhất của nhóm các tầng thấp , mục đích của nó là cung cấp các dịch vụ truyền dữ liệu sao cho các chi tiết cụ thể của phương tiện truyền thông được sử dụng ở bên dưới trở nên trong suốt đối với các tầng cao. Nói cách khác, có thể hình dung tầng giao vận như là một “bức màn” che phủ toàn bộ các hoạt động ở các tầng thấp bên dưới nó. Từ đó, nhiệm vụ của tầng giao vận rất phức tạp. Nó phải được tính đến khả năng một phạm vi rất rộng các đặc trưng của mạng . Chẳng hạn, một mạng có thể là có liên kết hoặc không liên kết, có thể là tin cậy hoặc chưa đẳm bảo tin cậy,… Nó phải biết được yêu cầu về chất lượng dịch vụ của người sử dụng đồng thời cũng phải biết được khả năng cung cấp các dịch vụ của mạng bên dưới. Chất lượng của các dịch vụ mạng tuỳ thuộc vào loại mạng khả dụng cho tầng giao vận và cho người sử dụng cuối. Tầng phiên. Tầng phiên là tầng thấp nhất trong nhóm các tầng cao và nằm ở ranh giới giữa hai nhóm tầng nói trên. Mục tiêu của nó là cung cấp cho người sử dụng cuối các chức năng cần thiết để quản trị các phiên ứng dụng của họ, cụ thể là: Điều phối việc trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng bằng cách thiết lập và giải phóng một cách logic các phiên hay còn gọi là các hội thoại. Cung cấp các điểm đồng bộ hoá để kiểm soát việc trao đổi dữ liệu. Áp đặt các quy tắc cho các tương tác giữa các ứng dụng của người sử dụng. Cung cấp cơ chế “lấy lượt” trong quá trình trao đổi dữ liệu. Việc trao đổi dữ liệu có thể thực hiện theo một trong 3 phương thức: Hai chiều đồng thời. Hai chiều luân phiên. Một chiều. Với phương thức hai chiều đồng thời, cả hai bên đều có thể đồng thời gửi dữ liệu đi. Một khi phương thức này đã được thỏa thuận thì không đòi hỏi phải có nhiệm vụ quản trị tương tác đặc biệt nào đó. Có lẽ đây là phương thức hội thoại phổ biến nhất. Trong trường hợp hai chiều luân phiên thì nảy sinh vấn đề: hai người sử dụng phiên” lấy lượt” để truyền dữ liệu. Một ví dụ điển hình của phương thức này là dùng cho các ứng dụng hỏi /đáp. Thực thể tầng phiên duy trì tương tác luân phiên bằng cách báo cho người sử dụng khi đến lượ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA2065.doc
Tài liệu liên quan