Cho vay tiêu dùng và bao thanh toán

Tải xuống tệp đính kèm gốc CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ BAO  THANH TOÁN A/ Cho vay tiêu dùng Bên cạnh việc cho vay là các khách hàng là các doanh nghiệp, ngân hàng còn cho vay đối với các cá  nhân và hộ gia đình với tư cách là người tiêu dùng. Trong những năm gần đây ngân hàng nổi lên trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng với tư cách là một tổ chức cho vay chủ yếu. Một phần nào đó khiến các ngân hàng chiếm vị trí quan trọng như vậy trong lĩnh vực tiêu dùng là vì khách hàng cá nhân là những người

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cho vay tiêu dùng và bao thanh toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có nguồn gửi tiết kiệm quan trọng đối với ngân hàng. Thật vậy nhiều hộ gia đình sẽ cân nhắc việc gửi tiền tiết kiệm vào một ngân hàng nếu như họ không thể vay tiền từ ngân hàng đó. Ngoài ra những nghiên cứu gần đây cho thấy những món vay trong lĩnh vực này luôn nằm trong những món vay có lợi tức cao nhất mà ngân hàng có thể có được. Với những lí do như trên các ngân hàng lớn với những ưu thế về mạng lưới các chi nhánh rộng khắp của mình đã tăng nhanh thị phần huy động các nguồn vốn của mình thông qua nghiệp vụ cho vay đối với người tiêu dùng đặc biệt là thông qua thẻ tín dụng và cho vay bất động sản. I. Phân loại cho vay tiêu dùng 1. Căn cứ  vào mục đich cho vay - Cho vay tiêu dùng cư  trú: Là loại cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm xây dựng hoặc cải tạo nhà cửa của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình - Cho vay tiêu dùng chi phí cư trú: Là loại cho vay tài trợ cho việc trang trải các khoản chi phí mua sắm xe cộ,đồ dùng gia đình,chi phí học hành… 2. Căn cứ  vào phương thức hoàn trả * Cho vay trả  góp:  -    KN:Là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng nhiều lần theo kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay.Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay không đủ khả năng thanh toán hết 1 lần số nợ vay -    Khi cho vay trả góp cần quan tâm tới các vấn đề: +Số tiền phải trả trước:Khi mua tài sản ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải thanh toán trước 1 phần giá trị tài sản nhằm hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.Số tiền trả trước ít hay nhiều phụ thuộc vào loại tài sản thị trường tiêu thụ về tài sản đó ngay sau khi sử dụng +Chi phí tài trợ: Chi phí này phải được trang trải được chi phí vốn, rủi ro +Điều khoản thanh toán:Số  tiền thanh toán mối kì giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ  còn lại,kỳ hạn phải thuận lợi cho việc trả  nợ của khách hàng, thời hạn tài trợ không quá dài. +Số tiền khách hàng phải trả thanh toán cho NH phải phù hợp với khả  năng về thu nhâp,hài hòa với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng *Cho vay từng lần: Vay từng lần, hay còn gọi là vay theo món là hình thức vay, theo đó người vay sẽ phải làm hồ sơ vay vốn cho từng lần vay với lãi suất, thời hạn trả tiền và số tiền vay xác định. Ưu điểm của hình thức này là thủ tục rõ ràng,ngân hàng chủ động trong việc cho vay. Nhưng nhược điểm là thủ tục rường rà, doanh nghiệp không linh động trong việc sử dụng vốn do phải lập hồ sơ cho từng lần vay, chỉ thích hợp với doanh nghiệp có nhu cầu vốn không định kì. Nhìn chung, hình thức này rất phổ biến ở Việt Nam vì doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả,không cần vốn thường xuyên, trong khi ngân hàng với nghiệp vụ chưa cao nên cho vay theo hình thức này ít rủi ro hơn. *. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Vay hạn mức tín dụng: người vay chỉ lập hồ sơ 1 lần cho nhiều khoảng vay, ngân hàng cấp cho khách 1 hạn mức, chỉ giới hạn dư nợ, không giới hạn doanh số. ví dụ, vay hạn mức 50tr 1 tháng, bạn có thể vay tối đa 50tr, nếu trả 20tr trong tháng có thể vay tiếp 30tr, miến sao số dư cuối tháng không vượt quá 50tr. Đây là hình thức vay tiên tiến, có nhiều ưu điểm, lợi ích cho doanh nghiệp như chủ động vốn, thủ tục đơn giản...nhưng không phổ biến ở Việt nam do các doanh nghiệp không có nhu cầu vốn thường xuyên, hành lang pháp lí chưa chặt chẽ dẫn đến việc ngân hàng khó xử lí trong việc phạt nợ quá hạn... vì vậy ngân hàng ít cung cấp dịch vụ này. *. Các phương thức cho vay khác: Tùy theo tình hình thực tế, Ngân hàng còn áp dụng các phương thức cho vay sau: - Cho vay theo dự án đầu tư. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. - Cho vay hợp vốn. - Cho vay theo hạn mức thấu chi. - Các phương thức cho vay khác. 3. Căn cứ  vào nguồn gốc khoản nợ a. Cho vay tiêu dùng gián tiếp -Là hình thức cho vay trong đó NH mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng -Ưu  điểm  +Cho phép NH tăng nhanh về dư nợ cho vay tiêu dùng +Giúp NH giảm  được chi phí trong cho vay tiêu dùng +Là  nguồn gốc của việc mở rộng mối quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác của NH +Trong trường hợp có quan hệ với các công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp -Nhược điểm +NH không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu +Thiếu sự kiểm soát của NH khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa +Kỹ thuật và  nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao b.Cho vay tiêu dùng trực tiếp -Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này -Ưu điểm +NH có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng vì  quyết định của nhân viên tín dụng NH thường có  chất lượng cao hơn nhân viên tín dụng của cửa hàng bán lẻ. Ngoài ra trong hoạt động của mình nhân viên tín dụng NH có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có chất lượng cao trong khi nhân viên của công ty bán lẻ thường chỉ chú trọng đến việc bán được nhiều hàng .Bên cạnh đó tại các điểm bán hàng các quyết định tín dụng thường đưa ra rất vội vàng +Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp +Khi khách hàng có  quan hệ trực tiếp với NH có rất nhiều lợi thế  phát sinh có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lấn NH. II. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng - Các khoản cho vay tiêu dùng luôn được đánh giá là đem lại nhiều lợi nhuận  cho ngân hàng do lãi suất cho vay thường cao hơn so với lãi suất ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác nhau để thực hiện cho vay. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường không thay đổi dưới những tác động của những điều kiện từ môi trường bên ngoài trong suốt thời hạn vay như trong trường hợp cho vay đối với các doanh nghiệp. Điều này cũng có những bất lợi nếu như lãi suất huy động tăng lên đáng kể. Tuy nhiên các ngân hàng thường định giá các khoản vay tiêu dùng ở một mức cao để có thể phòng tránh rủi ro này. - Các khoản cho vay tiêu dùng có xu hướng nhạy cảm trước các tác động của chu kì kinh tế. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế người tiêu dùng thường có cái nhìn lạc quan về tương lai vì vậy họ thường chi tiêu nhiều. trong giai đoạn kinh tế suy thoái thì các cá nhân và hộ gia đình thường có cái nhìn bi quan về tương lai đặc biệt là khi họ cảm thấy nạn thất nghiệp gia tăng và ngay lập tức cắt giảm nhu cầu vay ngân hàng. - Lãi suất cho vay tiêu dùng thường ít co dãn so với nhu cầu vay. Người đi vay tiêu dùng chỉ quan tâm tới khoản thanh toán hàng tháng họ phải trả ngân hàng là bao nhiêu. - Các nhân tố trình độ học vấn và mức thu nhập đều có ảnh hưởng rõ rệt đến hạn mức vay. Những người có mức thu nhập cao hơn mức bình quân thường có xu hướng vay mức cao hơn tổng thu nhập hằng năm của họ. Những người có trình độ học vấn cao (thông thường là những người có nhiều năm đào tạo ở bậc trên phổ thông đồng thời là trụ cột gia đình) thường quyết định vay tiền trên cơ sở cân nhắc kĩ lưỡng thu nhập của mình. Đối với trường hợp này, món vay được coi như phương tiện để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một cơ sở an toàn trong những trường hợp khẩn cấp. IV. Thẩm  định cho vay tiêu dùng  Khi khách hàng nộp hồ sơ vào ngân hàng đề nghị vay, ngân hàng phải tiến hành thẩm định khách hàng để ra quyết định cho vay phù hợp. Việc đánh giá  khách hàng được thực hiện theo những nội dung sau: 1. Mục  đích vay vốn và tư  cách khách hàng Đánh giá  đúng tư cách và năng lực trả nợ của khách hàng là nhân tố quyết định trong việc phân tích khách hàng. Nhân viên tín dụng phải luôn xác  định được cơ sở chắc chắn đảm bảo khách hàng luôn có trách nhiệm trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Ngoài ra mức thu nhập và những tài sản có giá trị khác của khách hàng cũng phải được đánh giá đúng mức để đảm bảo giới hạn an toàn có thể chấp nhận được. Do đó nhân viên tín dụng phải thường xuyên cập nhật thông tin liên quan về lịch sử tín dụng của khách hàng với hệ thống ngân hàng. Ở các nước phát triển thường có trung tâm thông tin lưu trữ hồ sơ của khách hàng vay theo hình thức này ( với các nội dung về tình hình thanh toán nợ vay và hạng tín dụng) từ các tổ chức tín dụng trên toàn quốc. Mục đích vay tiền trong hồ sơ đề nghị  vay cua khách hàng cũng là một yếu tố cơ bản cần được phân tích. Trước hết mục đích vay tiền phải phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng nên cử nhân viên của mình tới thăm khách hàng để trao đổi về món vay. Chính những cuộc đối thoại giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng trong những lần thăm viếng này sẽ làm khách hàng bộc lộ những thông tin giúp ngân hàng có những đánh giá trực tiếp và sát thực về khả năng trả nợ của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng không có hồ sơ  tín dụng lưu trong  ngân hàng và những nguồn thông tin khác về khách hàng cũng rất nghèo nàn  thì  có thể cần phải có bên thứ ba đứng ra bảo lãnh việc hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên việc bảo lãnh của bên thứ ba trong trường hợp này cũng chỉ là thứ yếu, các khách hàng nên tập trung vào khả năng đích thực của khách hàng vay. 1.1. Mức thu nhập Quy mô và tính ổn định của thu nhập cá nhân của khách hàng được ngân hàng rất coi trọng. Khách hàng sẽ phải thông báo cho ngân hàng thông tin về những khoản thu nhập chính thức và thu nhập phụ thêm khác. Các ngân hàng thường liên hệ với doanh nghiệp nơi người vay tiền làm việc để kiểm tra tính chính xác của những thông tin mà khách hàng cung cấp trước đó về mức thu nhập, thời gian công tác, địa chỉ thường trú, số CMND… 1.2. Số dư tiền gửi của khách hàng Thông tin về số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là một biện pháp gián tiếp giúp ngân hàng đảm bảo an toàn cho món vay của mình trong trường hợp khoản vay có vấn đề. Việc cho phép các ngân hàng tìm hiểu những thông tin tiền gửi của khách hàng tạo cho ngân hàng khả năng phòng ngừa những rủi ro xảy ra khi khách hàng không trả nợ. Trong trường hợp đó ngân hàng sẽ trích nguồn tiền gửi này để thu hồi nợ. 1.3. Sự ổn định trong nghề nghiệp và nơi cư trú Sự  ổn định trong nghề nghiệp và nơi cư  trú cũng được thẩm định khi cho khách hàng vay. Ngân hàng không thể cho khách hàng vay một khoản tiền lớn khi người này mới làm việc ở công ty chừng vài tháng. Những khách hàng có nơi cư trú ổn định lâu dài thường được các ngân hàng đánh giá cao hơn những trường hợp thay đổi thường xuyên chỗ ở. Trường hợp như vậy thường là dấu hiệu xấu cho việc ra quyết định cho vay. 1.4. Những yếu tố khác Cho vay tiêu dùng thường không dễ thẩm định. Trước một hồ sơ đề nghị vay ngân hàng cố gắng tính toán đưa ra những chỉ tiêu thẩm đinh cho thật phù hợp. Ngoài những yếu tố trên các ngân hàng còn tính toán đến các yếu tố như quyền sở hữu nhà hay quyền ử dụng đất hợp pháp. Điện thoại cũng là một yếu tố giúp ngân hàng giảm bớt chi phí giao dịch với khách hàng  hay việc khách hàng có tài khoản tiền gửi ngay tại chính ngân hàng đề nghị vay là một yếu tố rất tốt trong quá trình thẩm định. Nhân viên tín dụng luôn sử dụng nững chỉ tiêu trên để phát hiện ra những dấu hiệu thiếu trung thực của khách hàng trong hồ sơ vay cũng như phỏng vấn. 1.5. Chấm điểm tín dụng hồ sơ vay của khách hàng Để công tác thẩm định được thực hiên có hiệu quả ngân hàng thường xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng khách hàng hỗ trợ cho nhân viên tín dụng trong việc này. Một hệ  thống đánh giá chất lượng khách hàng qua điểm số  hiệu quả sẽ là một lợi thế đối với ngân hàng. Vì nó cho phép ngân hàng thẩm định nhanh chóng, với chi phí được giảm tối thiểu và  nó có thể thay thế cho nững nhân viên tín dụng có năng lực yếu kém và cho phép ngân hàng quản lý đưucọ tình trạng nợ xấu. Thang điểm tín dụng được xây dựng bằng việc sửu dụng các phương pháp suy luận logic và các mô hình toán chuyên biệt trogn việc phan tích tổng hợp các nhân tố liên quan đến khách hàng kết hợp với kinh nghiệm cho vay trong lĩnh vực này. Nếu khách hàng có điểm sau khi đánh giá thấp hơn một mức rủi ro nhất định thì hồ sơ đề nghị vay chắc chắn sẽ bị từ chối. Cơ  sở khoa học của hệ thống thang điểm còn phải  được kiểm nghiệm thông qua việc đánh giá những món vay tiêu dùng trước đó để đảm bảo rằng hệ thống đã phân loại chính xác hồ sơ vay trong quá khứ thì cũng phải thực hiện được điều đó trong tương lai với độ an toàn có thể chấp nhận được. Hệ thống điểm tín dụng phải thường xuyên được kiểm tra và xem xét lại tính hợp lý. Thông thường ngân hàng thường lấy ra từ 7 tới 12 yếu tố trong hồ sơ tín dụng và đánh giá chúng theo thang điểm từ 1-10. 2. Giải ngân và thu nợ cho vay tiêu dùng Ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận với nhau về lãi suất, kì hạn vay và các điều kiện về thanh toán. Vì đây là những yếu tố tác động tới phương thức giải ngân và dặc biệt là phương thức thu nợ của ngân hàng.Ví dụ như trong trường hợp cho vay để mua các tài sản có giá trị cao như ô tô hay căn hộ đắt tiền tại khu chung cư thì ngân hàng thường có xu hướng kéo dài thời hạn nợ để khách hàng cảm thấy khoản nợ thanh toán dần hàng tháng là có thể thực hiện được với thu nhập hàng tháng của mình. Trong trường hợp như vậy nhân viên tín dụng nên đưa ra nhiều phương án trả khác nhau cho khách hàng. Trên cơ sở  xác định được lãi suất cho vay ngân hàng mới có  thể xác định được chính xác khoản nợ  trả hàng tháng của khách hàng. Việc trả nợ  của khách hàng có thể được thực hiện theo những phương pháp sau: 3. Phương pháp lãi đơn Phương pháp thu nợ gốc đều đặn theo kì hạn, lãi vay được tính theo nợ gốc còn lại ở đầu mỗi kì hạn. Ví dụ: Khoản vay 15.000.000 lãi suất 1,15 %/tháng, thời hạn 9 tháng, nợ  gốc trả đều làm 3 lần mỗi lần 5.000.000 ta có: Kì  trả nợ Nợ  gốc  Lãi suất Tổng cộng Nợ  gốc còn lại          1 5.000.000 15.000.000*1.15%*3=51.175 5.051.175 10.000.000          2  5.000.000 10.000.000*1.15%*3=34.500 5.034.500 5.000.000          3 5.000.000 5.000.000*1.15%*3=17.250 5.017.250 0 4. Phương pháp chiết khấu  Trong phương pháp trên khách hàng trả dần cả vốn và lãi trong thời gian vay  nhưng trong phương pháp chiết khấu khách hàng trả lãi trước tiên và phần lãi trả được trừ trực tiếp vào phần tiền vay ban đầu nghĩa là khách hàng nhận số tiền vay thấp hơn mức được duyệt. Ví dụ khách hàng được duyệt vay 20.000.000 với lãi suất 12% thì phần lãi 2.400.000 được trừ ngay vào vốn vay ban đầu như  vậy khách hàng chỉ còn nhận 17.600.000. Khi đáo hạn khách hàng phải trả 20.000.000. Lãi suất thực khách hàng phải trả trong trường hợp này là: Lãi suất khoản vay       tiền lãi phải trả                   2.400.000   ( tính theo phương =                                      =                             =0,136 Pháp chiết khấu)           số tiền vay thực nhận          17.600.000 5. Phương pháp cộng thêm Đây là phương pháp có từ lâu, theo phần lãi này sẽ được tính trước khi phương thức hoàn trả được xác định. Như trong ví dụ trên, lãi khách hàng phải trả là 20.000.000*12%=2.400.000 nếu khách hàng trả đều hàng tháng thì mỗi tháng khách hàng phải trả 22.400.000/12=1.866.667 Thực trạng hoạt  động cho vay tiêu dùng hiện nay tại các NHTM VN: việc nôn nóng để kiếm lợi nhuận nhanh từ hình thức cho vay tiêu dùng đã khiến cuộc cạnh tranh về lãi suất của các ngân hàng đang trở nên ồ ạt, vội vã và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dễ  triển khai, lãi suất cao Từ khi NHNN cho phép các NHTM được phép thực hiện LS thoả thuận trong cho vay tiêu dùng, hàng loạt NH đã nhanh chóng đưa ra các chương trình tín dụng tiêu dùng tập trung vào cho vay mua nhà/đất ở, sửa chữa nhà cửa, cho vay mua xe ôtô, mua hàng trả góp, thấu chi qua thẻ thanh toán/ghi nợ và thẻ tín dụng... Cho vay tối đa 500 triệu, 100% giá trị xe mới thời hạn tối  đa 5 năm. 70% thậm chí đến 100% giá trị nhà  với thời gian đến 15 năm, cần tiền ngay - vay 24 phút... Đọc những quảng cáo cho vay tiêu dùng, người ta có cảm tưởng như thời kỳ hoàng kim của cho vay tiêu dùng năm 2007 đang quay trở lại. Hiện nay, các NH đua nhau cho vay tiêu dùng vì cho vay sản xuất kinh doanh đang rất khó khăn, hoạt động tín dụng hướng vào DN bị hòa vốn hoặc lỗ do DN giảm sút khả năng trả nợ, vướng LS trần, thị phần hẹp. Các dịch vụ khác cũng bị hạn chế vì suy giảm tín dụng DN. Cho vay tiêu dùng còn dư  địa, món vay nhỏ nhưng khả năng thanh toán của khách hàng cá nhân khá đảm bảo. NH cần nguồn thu LS thoả thuận để bù lỗ và tìm kiếm lợi nhuận. Về yếu tố kỹ thuật: Cho vay tiêu dùng dễ thực hiện, không phải làm phương án trả nợ kỹ càng, ít bị thanh tra NHNN kiểm tra kỹ, không cần thiết kiểm tra sau khi cho vay, hiệu quả marketing lớn... Tiềm  ẩn rủi ro Cho vay tiêu dùng để  đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro, đồng thời cũng là một biện pháp kích cầu cho nền kinh tế là một hướng đi đúng. Tuy nhiên, nhìn vào tình hình cho vay tiêu dùng ồ ạt hiện nay của các NH thấy có một số vấn đề đáng suy nghĩ: Thứ nhất: Cho vay tiêu dùng đang bị một số NHTM lợi dụng để "tiêu dùng hóa" các nhu cầu vay của khách hàng, kể cả nhu cầu vay vốn bình thường, thậm chí cho SXKD. Điều này hiện đang phổ biến với các cá nhân, hộ kinh doanh. Mục đích để cho vay LS cao hơn quy định của NHNN một cách hợp pháp, để bù đắp chi phí huy động vốn với LS cao trước đây. Thứ hai: Cơ cấu cho vay tiêu dùng chứa một số bất ổn qua những biểu hiện: Cho vay mua hàng xa xỉ (ôtô, xe máy đắt tiền) mà những hàng này phần lớn có nguồn gốc từ NK. Tiêu dùng này không làm cầu hàng hóa nội địa tăng, chỉ làm tăng nhập hàng ngoại. Mặt khác, cho vay mua tài sản thì rất nhanh bị mất giá bởi sản phẩm thay thế nên nếu người vay không thể trả nợ, thì việc bán tài sản để thu nợ là rất khó. Khoản tiêu dùng cấp quá lớn (có NH cho vay đến 500 triệu đồng) so với thu nhập bình quân của người dân VN. Trong khi nền kinh tế  suy giảm, việc làm, thu nhập bị ảnh hưởng tâm lý tự nhiên xã hội cũng tự co lại về nhu cầu. Vậy việc tăng tín dụng tiêu dùng này thực chất bao nhiêu là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng? Phần lớn (có thể  nói gần như 100%) cho vay tiêu dùng được cấp tín dụng trung - dài hạn. Điều này nếu bị lạm dụng thái quá sẽ tăng thêm rủi ro kỳ hạn cho NHTM. Trong bối cảnh kinh tế năm 2009, yêu cầu quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn phù hợp để tránh rủi ro kỳ hạn. Nguồn vốn của NH chủ  yếu là kỳ hạn từ 9 tháng trở xuống, cho vay tiêu dùng lại từ 3 đến 15 năm, rủi ro kỳ hạn rất lớn. Còn nhớ quý I&II/2008, các NH bị thiếu thanh khoản là những NH có tỉ lệ cho vay trung và dài hạn, đặc biệt là cho vay lĩnh vực BĐS ở mức cao so cơ cấu tài sản có hợp lý. Đến thời điểm hiện tại, tỉ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng/tổng dư nợ của các NH còn khá thấp. Tỉ trọng này ở nhóm NHTM nhà nước vào khoảng trên - dưới 4%, ở các NHTM cổ phần từ 6%-10%. Có thể vì vậy mà NHNN chưa có động thái kiểm tra, giám sát cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên, hậu quả  gây ra cho hệ thống NH và cả nền kinh tế do tăng trưởng tín dụng quá mức năm 2007, đặc biệt cho vay kinh doanh CK và cho vay BĐS (trong đó có cho vay tiêu dùng mua BĐS) vẫn còn nguyên tính thời sự. Không thể khẳng định một phần vốn vay tiêu dùng có thể đổ vào các kênh đầu tư trên khi cơ hội đến. Vừa qua, NHNN mới yêu cầu các TCTD báo cáo dư nợ và mức LS cho vay thoả thuận. Trước tình trạng cho vay tiêu dùng ồ  ạt như hiện nay, rất cần kiểm tra tình hình, đánh giá thực trạng tín dụng tiêu dùng của các NH để  đưa ra các cảnh báo và quy định điều chỉnh (nếu cần thiết) nhằm đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của hệ thống NH cũng như lợi ích của cá nhân vay vốn tín dụng tiêu dùng 2.Thực trạng cho vay tiêu dùng của các NHTM 3. Đánh giá thời cơ và thách thức  a.Thời cơ  * Nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ Tốc  độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam khá cao và GDP bình quân đầu người đang tăng lên    Năm   2002    2003    2004    2005    2006    2007    2008    2009 Tốc  độ tăng trưởng(%)   7,04    7,34    7,69    8,4    7,8    8,48    6,23    5,32 GDP bình quân đầu người(USD)   439    481    514    638    754    835    960 Dân số Việt Nam hiện nay là 85,8 triệu người, với cơ cấu dân số trẻ: lực lượng lao động chiếm khoảng 2/3 dân số. Theo dự báo của Bộ Thương mại: chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người trên tháng tại Việt Nam 2006-2010 tăng khoảng 10,57%/năm, đến năm 2010 thì chỉ tiêu này đối với cả nước là 657800 đ/người/tháng, với khu vực thành thị là 1054700đ/người/tháng  * Mặt khác ,tuy có nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng nhưng khách hàng không có đủ khả năng tài chính . Theo đánh giá của Techcombank, nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm gia dụng như TV, tủ lạnh, máy giặt, xe máy… là rất lớn do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và tốc độ cải thiện mức sống. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể có khả năng tài chính để đáp ứng ngay các nhu cầu này. Đối với dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, họ không thể đợi cho đến già mới tiết kiệm đủ tiền để mua nhà, mua ôtô và các đồ dùng gia đình khác. Tín dụng tiêu dùng giúp họ có được một cuộc sống ổn định ngay từ khi còn trẻ, bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động lực to lớn để làm việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái  Các lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển sáng sủa:  + Ô tô: ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ  xe ô tô mới đạt 8 xe/1000 dân trong khi đó tại Trung Quốc là 24 xe/1000 dân, Thái Lan là 152 xe/1000 dân. Với đà tăng trưởng kinh tế và  lộ trình giảm thuế khi gia nhập WTO thì chắc chắn nhu cầu mua ô tô sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. +Nhà  đất: theo quy hoạch tổng thể định hướng phát triển  đô thị đến năm 2020 dân số đô thị sẽ  chiếm 45% dân số cả nước, dẫn đến nhu cầu nhà ở nhất là ở các thành phố  trung tâm sẽ tăng cao. +Lĩnh vực du học: cùng với sự nâng cao mức sống và  dân trí, nhu cầu nhập khẩu dịch vụ du học càng tăng cao, nhu cầu vay vốn để du học theo đó cũng sẽ tăng  * Cơ chế  chính sách đang có những thay đổi có tác động tích cực đến việc phát triển cho vay tiêu dùng:  Từ  giữa năm 2008, khi lạm phát tăng cao và lãi suất biến  động mạnh, các ngân hàng thương mại thắt chặt cho vay tiêu dùng. Sau nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, ngày 23/1/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn  Đồng Tiến đã ký ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Văn bản trên chính thức tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại nối lại và thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng, một hoạt động đã bị siết chặt trong hơn nửa năm trước đó.  Hiện Bộ Công Thương đang soạn thảo đề án  “Hỗ trợ mua sắm, kích cầu tiêu dùng hàng hóa sản xuất trong nước”. Theo dự thảo này, một đối tượng chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội là nông dân sẽ được Chính phủ cho vay với lãi suất ưu đãi để mua hàng trả góp, trả chậm không tính lãi. Chương trình này đề nghị cho phép sử dụng hình thức tín chấp cho người dân nông thôn vay ưu đãi hoặc thế chấp bằng tài sản được mua.  * Cơ sở  vật chất kĩ thuật, trình độ chuyên môn của hệ  thống ngân hàng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện hơn giúp cho ngân hàng có thể đánh giá khách hàng , kiểm soát các khoản vay tốt hơn. b.Thách thức  Hiện nay dư nợ cho vay tiêu dùng bình quân khoảng 900.000 đồng/người, so với thu nhập quốc dân bình quân đầu người khoảng 17 triệu đồng là rất thấp. Tương tự, tỷ lệ cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 6,54%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là quá thấp, hoặc tỷ lệ 4 người trưởng thành mới có 1 tài khoản ở NH. Điều này cho thấy phần lớn người VN không có quan hệ với NH, nó cũng chứng tỏ hệ thống thanh toán món nhỏ, lẻ còn rất sơ khai và chi trả tiền mặt của dân cư là rất lớn kể cả tiền điện, nước, điện thoại, học hành, chữa bệnh. Việc phát triển mở rộng dịch vụ cho vay tiêu dùng của các NHTM còn gặp phải nhiều khó khăn thách thức:  * Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng còn chưa rộng khắp, chủ  yếu tập trung ở Hà Nội, TP HCM. Ở nhiều nước châu Âu và các thành phố lớn châu Á, bình quân từ 1.000 đến 1.500 dân có một chi nhánh NHTM là để phát triển hệ thống NH bán lẻ (tín dụng tiêu dùng) trong khi ngay cả TP.HCM và Hà Nội hiện nay bình quân từ 8.800 đến 10.000 dân mới có một chi nhánh hoặc điểm giao dịch NH. * Mặc dù nhu cầu vay tiêu dùng không nhỏ nhưng số lượng người tiêu dùng đáp ứng được các yêu cầu vay vốn còn ít. Nguyên nhân là do người tiêu dùng không có hộ khẩu hoặc không chứng minh được nguồn thu. Lãi suất cho vay tiêu dùng hiện ở mức khá là cao: phổ biến ở mức 16 - 21% và điều kiện cho vay ngặt nghèo. Một số công ty tài chính có “cửa" vay thông thoáng hơn thì lãi suất lên tới… trên 30%, và không phải khách hàng nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vốn. * Hệ thống quản lý thông tin cá nhân còn kém phát triển, và  còn bởi một phần tâm lý e ngại tiết lộ thông tin của người dân dẫn đến việc ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cá nhân của khách hàng. * Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện: một số quy định pháp luật và cơ chế quản lý trong nhiều lĩnh vực ví dụ như thủ tục cấp sổ đỏ, cấp đăng kí xe ô tô…còn khó khăn, phức tạp, gây tâm lý e ngại cho người tiêu dùng và khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định tài sản đảm bảo. * Môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển ổn định: giá cả hàng hóa, nhà đất, ô tô thay đổi biến động liên tục. Lãi suất cũng lên xuống thất thường, trong khi các khoản vay tiêu dùng chủ yếu là trung dài hạn. * Môi trường VH-XH: + Tâm lý của người dân vẫn e ngại vay nợ ngân hàng, thường vay anh em họ hàng hoặc ngoài chợ  đen. +Thói quen dùng tiền mặt mà chưa quen thanh toán bằng thẻ, qua Internet. Ít doanh nghiệp trả lương qua tài khoản (trong khi đây là điều kiện bắt buộc với một số hình thức cho vay) B. Bao thanh toán 1. Khái niệm Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua việc mua lại các akhoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thoả thuận trong  hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.     Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.  2.lợi ích của bao thanh toán ** Về phía người bán  - Người bán có thể thu tiền ngay thay vì phải đợi tới kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng.  - Tăng lợi thế cạnh tranh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của mình.  - Được sử dụng khoản phải thu đảm bảo cho tiền ứng trước, do đó tăng được (một cách gián tiếp) nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.  - Chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính vì dự đoán được dòng tiền vào.  - Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi thu hồi các khoản trả chậm này.   - Tiện ích của dịch vụ BTT rất quan trọng đối với nhà sản xuất, bởi hiện nay các nhà nhập khẩu qui mô, ưu thế chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các DN VN dễ mất đơn hàng xuất khẩu nếu không có khả năng về vốn. Còn nếu chấp nhận hình thức trả sau, DN sẽ khó khăn trong việc quay vòng vốn, nhất là những đơn vị xuất khẩu các mặt hàng luôn biến động giá như cà phê, gạo, tiêu . . . Trong khi đó, NH cũng không dễ cho DN kéo dài thời gian thanh toán nếu thanh toán theo phương thức trả sau. Vì thế, dịch vụ BTT xuất khẩu ra đời sẽ giúp DN giải quyết được những khó khăn này.  - Đa phần các DN vừa và nhỏ rất thích dịch vụ BTT, bởi thông thường những DN này có tổng tài sản không lớn nên rất khó để NH xem xét các hạn mức tín dụng. Với BTT họ dễ dàng được cấp hạn mức tín dụng hơn.  - Các DN khi đã biết về dịch vụ bao thanh toán thường rất thích sử dụng vì BTT có nhiều hình thức khác nhau, rất đa dạng để phục vụ cho các DN. Các DN có thể sử dụng các hình thức như : BTT chiết khấu hóa đơn, BTT trung gian, BTT đến hạn, BTT thu hộ, BTT truy đòi, BTT miễn truy đòi.  - Phạm vị hoạt động BTT cũng rất đa dạng : Về địa lý thì có BTT trong nước và BTT quốc tế; Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì có BTT xuất khẩu và BTT nhập khẩu; Có BTT số lượng hóa đơn của người bán hoặc BTT toàn bộ hay BTT một phần; Có BTT kín và BTT công khai... Khách hàng có thể sử dụng BTT trực tiếp và BTT hệ hai đại lý, hay khách hàng cũng có thể sử dụng liên kết của các hợp đồng BTT với BTT giáp lưng. Phương thức BTT từng lần hoặc BTT theo hạn mức.  ** Về phía NH  - Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng   - So với việc cấp hạn mức tín dụng,NH thích làm dịch vụ BTT hơn. Vì nếu cấp vốn lưu động cho DN, NH phải giám sát rất vất vả, trong khi với BTT các khoản phải thu rất rõ, việc sử dụng cũng đã rõ, các DN đã chứng minh với NH về uy tín trên thị trường khi đã bán được hàng.   Có thể nói , bao thanh toán là loại dịch vụ cả hai bên cùng có lợi. Nhưng DN có lợi hơn NH. Khi cung cấp dịch vụ này NH phải gánh chịu về mình những rủi ro khi người mua mất khả năng thanh toán. Do vậy, NH phục vụ người bán, nhà xuất khẩu, nếu không chắc chắn về khả năng tài chính của người mua thường hay tư vấn cho khách hàng của mình tới NH phục vụ người mua, nhà nhập khẩu yêu cầu dịch vụ bao thanh toán. Những NH thực hiện dịch vụ BTT cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm 3.Phân loại bao thanh toán * Bao thanh toán truy đòi và bao thanh toán không có quyền truy đòi: - Bao thanh toán truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.    - Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng.   Bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất – nhập khẩu.Hiện nay, bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu được các ngân hàng áp dụng phổ biến. * Bao thanh toán trong nước: 1.Bên bán hàng và ngân hàng ký k._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25961.doc