MỞ ĐẦU
Cho vay tiêu dùng là sản phẩm tín dụng xuất hiện từ lâu đời trên thế giới và hiện nay đang phát triển rất mạnh nhất là ở các nước đang có tiềm lực về
kinh tế và cạnh tranh ngân hàng sôi động, nhưng mới phát triển 1 vài năm gần đây ở Việt Nam. Trong xu hướng hội nhập quốc tế, các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính…đang cạnh tranh mạnh mẽ các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, thu hút khách hàng cá nhân. N
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng động nhất chính là các NHTM cổ phần, liên tục đưa ra các sản phẩm tiện ích, như: cho vay siêu tốc, đăng ký vay qua mạng Internet, lãi suất cho vay hấp dẫn, kỳ hạn cho vay dài, cho vay tới 80% giá trị ngôi nhà hay xe ô tô... Đồng thời các NHTM cổ phần chủ động tiếp thị qua nhiều kênh khác nhau, thậm chí phối hợp với công đoàn, với doanh nghiệp tổ chức giới thiệu ngay tại nơi công nhân làm việc, cùng với đại lý ô tô hay chủ dự án nhà ở đi làm thủ tục thay cho khách hàng... Đối với khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài thì tập trung vào phân khúc thị trường, đó là nhắm đến những người có thu nhập khá trở lên. Đối tượng khách hàng này bao gồm: chủ doanh nghiệp, những người làm việc cho các cơ quan nước ngoài và dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các đối tượng khác có thu nhập cao, có mua bảo nhân thọ tại các công ty bảo hiểm có uy tín. Sản phẩm được khối NH này tập trung vào chủ yếu là khách hàng mua căn hộ tại các khu chung cư, mua nhà ở của các dự án, mua ô tô mới tại các địa lý chính thức, vay tiền đi du học nước ngoài…
Với số dân hơn 80 triệu người, phần đông là dân số trẻ, năng động, thu nhập không ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng đang tăng cao, nên không chỉ các NH nước ngoài, NH liên doanh, NH trong nước mà nhiều định chế tài chính cung ứng dịch vụ tiêu dùng hàng đầu thế giới vẫn đang tiếp tục vào VN.
Trong bối cảnh đó, đứng trước thị trường đầy tiềm năng sinh lợi mà các ngân hàng đổ xô vào để tìm kiếm lợi nhuận, sở giao dich 1 chi nhánh cấp 1 của Ngân hàng công thương Việt Nam, là một trong những Ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu tại Việt Nam đã có thái độ như thế nào và đã thực hiện những biện pháp gì để có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác và mở rộng hoạt động cho vay này? Trong quá trình thực tập tại phòng khách hàng cá nhân của sở giao dịch 1 em đã tìm hiểu vấn đề này xin được viết ra và mạnh dạn có 1 số giải pháp để mở rộng cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch 1 ngân hàng công thương Việt Nam
Chương 3: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch 1 ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Chương 1: Khái quát chung về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
Khái niệm, đặc điểm và phân loại cho vay tiêu dùng:
Khái niệm:
Trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì ngân hàng được coi là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Sự hoạt động hiệu quả của nó sẽ là tiền đề cho việc luân chuyển, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực tài chính cũng như kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Nhắc đến hoạt động chủ yếu của ngân hàng thì không thể không nói đến hoạt động cho vay. Đặc biệt là đối với các ngân hàng Việt Nam thì lợi nhuận đem lại từ hoạt động cho vay chiếm một phần rất lớn trong tổng lợi nhuận. Do đó có thể nói cho vay là hoạt động chủ chốt của các ngân hàng thương mại.
Theo quyết định 1927/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì hoạt động cho vay được hiểu như sau:
Cho vay là một hoạt động cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một tài khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để ngân hàng phân loại hoạt động cho vay như theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng cho vay, theo phương thức cho vay…Nếu dựa vào mục đích sử dụng vốn vay thì có cho vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng…
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa. Hình thức cho vay của các hãng là bán hàng trả góp.Cho vay tiêu dùng là nghiệp vụ trong đó các cá nhân, hộ gia đình sử dụng số tiền nhất định trên nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định, nhằm giúp cho người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ được hưởng thụ mức sống cao hơn. Cho vay tiêu dùng kích thích tiêu dùng trong xã hội, thúc đẩy chu chuyển hàng hoá và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá dịch vụ NH, phân tán rủi ro trong cho vay.
Cơ sở cho vay tiêu dùng:
Nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng…nhu cầu du lịch đối với lực lượng khách hàng rộng lớn.
Tiềm năng sinh lợi từ các khách hàng cá nhân là vô hạn, chừng nào còn có con người thì nhu cầu với tiêu dùng vẫn luôn tồn tại và không phải tất cả các cá nhân có thể có nguồn thu nhập thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đó.
Nhiều hãng lớn tự tài trợ chủ yêu bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu, nhiều công ty tài chính cạnh tranh với ngân hàng trong cho vay làm thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút, buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho vay sang cho vay tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá cao, thu nhập tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống , tăng khả năng được đào tạo…giúp họ có nhiều cơ hội tìm kiếm được công việc có thu nhập cao hơn.
Vai trò của cho vay tiêu dùng
Đối với các ngân hàng thương mại
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng muốn hoạt động một cách có hiệu quả, có lợi nhuận, có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có một chiến lược kinh doanh riêng, phải cạnh tranh với nhau để giành thị phần. Chính vì vậy, nếu ngân hàng nào chỉ chú trọng đến nhóm khách hàng là doanh nghiệp mà quên đi những khách hàng cá nhân thì đối tượng khách hàng sẽ rất hạn chế. Do đó hình thức cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng, quan hệ với nhiều khách hàng hơn từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
Đối với người tiêu dùng
Nhu cầu tiêu dùng là tất yếu đối với mỗi người, và không phải ai cũng có thể tự đáp ứng được nhu cầu của mình bằng chính thu nhập của mình. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ra đời giúp cho người dân có thể thỏa mãn được nhiều hơn những nhu cầu đó của mình trước khi tích lũy đủ số tiền và đặc biệt quan trọng trong những trường hợp chi tiêu cấp bách, như nhu cầu giáo dục hay y tế.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ra đời với thủ tục cho vay tương đối đơn giản và ngày càng đơn giản hơn do cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhanh gọn nên góp phần quan trọng trong đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi. Cho vay tiêu dùng là đòn bẩy quan trọng kích thích tiêu dùng, kích thích nền sản xuất phát triển và tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối tượng cho vay tiêu dùng
Tùy vào cách xác định của từng ngân hàng hoặc cách phân chia thì đối tượng cho vay tiêu dùng có rất nhiều dạng. Ta có thể chia đối tượng cho vay tiêu dùng theo mức độ tài chính của họ.
Các đối tượng có thu nhập thấp: Những người có thu nhập thấp thì thường nhu cầu vay để tiêu dùng không cao vì giới hạn bởi thu nhập hạn chế việc cho vay vốn nhằm tạo sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
Các đối tượng có thu nhập trung bình: Đối với những người này nhu cầu vay vốn có xu hướng tăng mạnh. Đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là bỏ ra khoản tiết kiệm tích lũy của mình để đáp ứng được mục đích đó.
Các đối tượng có thu nhập cao: Nhu cầu nảy sinh làm tăng thêm khả năng thanh toán và coi đó như một khoản nợ linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích lũy của họ đang được đầu tư trung và dài hạn. Hiểu theo cách khác thì khoản tiền vay tiêu dùng này được coi là nguồn ứng trước của lợi nhuận do đầu tư mang lại. Những nhóm người này là thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn. Vì vậy các ngân hàng thương mại cần phải chú ý quan tâm đến nhóm khách hàng này.
Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Về quy mô:
Do cho vay tiêu dùng là khoản cho vay cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để dùng chỉ để chi dùng cho các mục đích không kinh doanh nên nó thường là các khoản vay có giá trị không lớn thậm chí còn rất nhỏ. Giá trị này được xác định trên cơ sở giá cả hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng đang có nhu cầu tiêu dùng mà những thứ này thường không quá lớn. Hơn nữa, đa số khách hàng vay tiêu dùng đều đã có sự tích lũy từ trước, ngân hàng chỉ là người hỗ trợ cho việc mua được sản phẩm là dễ dàng hơn khi tích lũy là chưa đủ.
Tuy nhiên do số lượng khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng lớn nên tổng quy mô cho vay lớn. Đây cũng là xu thế phổ biến, khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu càng trở nên phong phú dẫn đến số lượng cho vay tiêu dùng sẽ rất lớn.
Về lãi suất
Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao,”cứng nhắc”, và nhu cầu vay kém nhạy cảm với lãi suất. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường là ấn định.
Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì.Nó tăng lên trong thời kì nền kinh tế rộng mở, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và họ gia đình cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng.Khi vay tiền người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất.
Người tiêu dùng quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất. Bên cạnh đó mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản cho vay tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhậo hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao thì việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất thực tế đối với cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Song phần lớn lãi suất được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro, có thể đưa ra công thức tính tổng quát như sau:
Lãi suất cho vay tiêu dùng= Chi phí huy động vốn + Rủi ro tổn thất d ự kiến + Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn+ Lợi nhuận cận biên
Hiện nay, mỗi ngân hàng thương mại có những phương pháp tính lãi riêng, song nhìn chung, tập trung vào những phương pháp như: Phương pháp lãi đơn, phương pháp lãi gộp, phương pháp tỷ lệ chiết khấu, phương pháp lãi suất biến đổi…
Về rủi ro : Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và có độ rủi ro cao nhất trong danh mục các khoản cho vay của ngân hàng thương mại.
Lãi suất cho vay tiêu dùng là cố định và được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng với mức lãi suất cận biên và phần bù rủi ro. Nếu lãi suất trên thị trường vốn tăng mà lãi suất của các khoản cho vay tiêu dùng là cố định và cứng nhắc sẽ khiến cho ngân hàng phải bù đắp mức lãi suất huy động vốn mà không được thay đổi lãi suất cho vay tiêu dùng. Đó là rủi ro về lãi suất.
Bên cạnh đó là rủi ro về tín dụng. Nguồn tài chính để chi trả cho khoản vay tiêu dùng không phải dựa vào lợi nhuận hay bắt nguồn từ chính khoản vay đó đem lại mà nó phụ thuộc vào một nguồn khác độc lập hoàn toàn với nguồn vay đó chính là thu nhập của người vay mang lại. Điều đó sẽ mang lại những rủi ro mang tính khách quan và chủ quan như: tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn, thiên tai, tình trạng thất nghiệp gia tăng, tình trạng sức khỏe, công việc, đạo đức của người vay.
Quản lí sau cho vay cũng là một vấn đề lớn mà ngân hàng gặp phải do quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay lại lớn nên việc kiểm soát về tình hình thu nhập và khả năng tài chính của từng khách hàng đối với tất cả các món vay là điều rất khó. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào đạo đức của khách hàng.
Về lợi nhuận:
Do cho vay tiêu dùng luôn tiềm ẩn rủi ro ở mức cao vì thế lợi nhuận kì vọng mang lại từ nguồn cho vay tiêu dùng cũng lớn.
Phân loại cho vay tiêu dùng:
Căn cứ vào mục đích vay:
Có thể phân loại tín dụng tiêu dùng thành 2 loại:
Cho vay tiêu dùng cư trú (residential morage loan) là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng không cư trú (nonresidential morage loan) đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí…
Căn cứ vào hình thức
Có thể chia cho vay tiêu dùng thành 2 loại:
Cho vay gián tiếp (indirect consumer loan) là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
( 4)
(5)
(6) (2) ( 3)
(4)
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ kí kết hợp đồng mua bán nợ
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng kí kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho các công ty bán lẻ
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng
Với hình thức cho vay này nó có những ưu điểm là:
Các ngân hàng thương mại rễ ràng mở rộng và tăng doanh số cho vay,
Các ngân hàng thương mại sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay
Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng
Nếu ngân hàng thương mại quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này có những hạn chế là
Khi cho vay, các ngân hàng thương mại không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (người vay vốn) mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ,
Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng (cả trước, trong và sau khi vay vốn) khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng,
Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức cho vay này rất phức tạp.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct consumer loan) là ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Ngân hàng
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻ
(3)
(1) (5) (2) (4)
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng kí kết hợp đồng vay vốn
(2) Người vay vốn trả trước một phần số tiền phải mua tài sản cho công ty bán lẻ
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho ngân hàng
Hình thức này có những ưu điểm sau:
Ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín dụng, do đó các khoản cho vay này thường có chất lượng cao hơn so với cho vay thông qua doanh nghiệp bán lẻ
Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thờng coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định "tín dụng" một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những khoản tín dụng cấp ra không chính đáng, ngược lại có thể từ chối đối với những khách hàng tốt của mình
Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng
Do đối tượng khách hàng rất rộng do đó việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
Cho vay tiêu dùng trả góp:
Là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn,có giá trị tương đối lớn như : mua ô tô, mua nhà…hoặc áp dụng cho những người có thu nhập trong một kỳ không đủ hoàn trả toàn bộ số dư nợ.Hình thức này đem lại nhiều thuận lợi cho người vay hơn đối với việc cho vay mà thu hồi lãi và gốc trong một lần.Thường thì các khoản cho vay trả góp chiếm tỷ trọng cao hơn trong cho vay tiêu dùng.
Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay,và rủi ro xảy ra nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút…Chính vì thế thường thì lãi suất cho vay trả góp là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng..
Cho vay tiêu dùng phi trả góp:
Là hình thức cho vay mà tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời. Cho vay tiêu dùng phi trả góp thường chỉ được cấp cho các khoản cho vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài. Phần lớn các khoản vay này được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, tiền nằm viện, mua các vật dụng gia đình hoặc sửa chữa ôtô, nhà ở.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành các loại sec thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ. Trong thời gian tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiến được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép vay và trả nợ một cách tuần hoàn. Do những khoản vay này không được đảm bảo, và chi phí để điều hành tín dụng tuần hoàn tương đối cao như dự trữ quỹ, xử lý thẻ tín dụng bao gồm kiểm tra tín dụng lừa đảo và những mất mát trong thu ngân nên lãi suất đối với tín dụng tuần hoàn là tương đối cao. Hình thức này tương đối thuận tiện cho các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, khách hàng chỉ cần làm thủ tục một lần nhưng có thể vay nhiều lần.
Căn cứ vào phương thức bảo đảm tiền vay:
Cho vay cầm đồ:
Là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay để nhằm mục đích tiêu dùng nhưng ngân hàng giữ tài sản của khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng.Danh mục các tài sản và điều kiện các tài sản được cầm cố cũng được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng.
Cho vay thế chấp lương
Thường áp dụng cho khách hàng có việc làm ổn định, thu nhập ổn định ngoài việc chi cho các khoản thường xuyên hàng tháng thì còn tích lũy đủ để trả nợ vay.Số tiền vay sẽ căn cứ vào nhu cầu, thu nhập thường xuyên của khách hàng , giới hạn cho vay của ngân hàng.
Cho vay có tài sản đảm bảo hình thành từ tiền vay:
Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng để mua các tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm và mức cho vay tối đa 60% giá trị tài sản mua sắm mà từ đó ngân hàng sẽ có mức vay thích hợp.
1.2. Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại:
Cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại càng ngày càng chứng tỏ được vai trò của mình và vì thế các ngân hàng càng ngày càng đi sâu vào lĩnh vực này để mở rộng và cho vay một cách có hiệu quả các khoản cho vay tiêu dùng.
Mở rộng cho vay tiêu dùng là sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các khoản vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại :
- Số lượng khách hàng cho vay tiêu dùng:
Số lượng khách hàng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ hoạt động cho vay tiêu dùng. Số lượng khách hàng có thể tính theo một khoảng thời gian nhất định (quý, năm), nếu số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng để vay với mục đích tiêu dùng lớn và ngày càng tăng thì chứng tỏ hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ngày càng được mở rộng, uy tín trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng được nâng cao và có thể ngân hàng tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực này.
Doanh số cho vay tiêu dùng
Doanh số cho vay tiêu dùng là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho khách hàng vay trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm. Doanh số cho vay tiêu dùng ngày càng lớn, tốc độ tăng ngày càng cao cho thấy khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số = ( - 1) x 100
Doanh số cho vay kỳ trước
Ngoài ra cần phải xem xét tỷ trọng doanh số cho vay tiêu dùng trên tổng doanh số cho vay của cả ngân hàng mới thấy được sự gia tăng tương đối của cho vay tiêu dùng so với các loại cho vay khác.
Dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng là số tiền mà khách hàng còn dư nợ ngân hàng tại một thời điểm nhất định, cho thấy lượng tiền mà ngân hàng chưa thu hồi được. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay qua các năm được xác định theo công thức:
Dư nợ cho vay TD kỳ này
Tốc độ tăng dư nợ cho vay= ( - -1) x 100
Dư nợ cho vay kỳ trước
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối = tổng dư nợ TD năm này- tổng dư nợ
TD năm trước
Các chỉ tiêu này tăng cho thấy mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng tăng.Ngoài ra để đánh giá được tốc độ tăng dư nợ cho vay tiêu dùng cũng cần xem xét nó trong mối tương quan với tổng dư nợ cho vay của cả ngân hàng tại một thời điểm nhất định.
- Nợ quá hạn cho vay tiêu dùng
Nợ quá hạn là khoản nợ đến thời điểm hoàn trả của khách hàng mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được.
Tỷ lệ nợ quá hạn = dư nợ quá hạn x 100
Tổng dư nợ
Nếu tỉ lệ nợ quá hạn vượt quá giới hạn cho phép thì nó phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng còn yếu kém, chứa đựng nhiều rủi ro và ngược lại. Nguyên nhân của các khoản nợ trong cho vay tiêu dùng có thể là do khách hàng không đảm bảo được nguồn thu nhập để trả
nợ cho ngân hàng, do sự thay đổi chính sách của Nhà nước,…Gây nên tình trạng thất thoát vốn của ngân hàng, giảm hiệu quả hoạt động, có thể mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Thu nhập từ hoạt động cho vay tiêu dùng:
Lợi nhuận cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tổng hợp nhất phản ánh sự mở rộng cho vay tiêu dùng. Khi dư nợ cho vay tiêu dùng càng cao thì càng chứng tỏ sự mở rộng về cả số lượng và chất lượng của hoạt động này. Chúng ta có thể sử dụng các chi tiêu như:
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí
Thu nhập từ hoạt động CVTD
Tỷ trọng TN từ CVTD= x 100
Tổng doanh thu của ngân hàng
Ngoài ra để đánh giá một cách chính xác mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng cần đánh giá tỷ trọng đóng góp từ hoạt động cho vay tiêu dùng vào lợi nhuận của cả ngân hàng. Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ được vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng với toàn ngân hàng và có các biện pháp để mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay tiêu dùng:
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan:
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng mà bản thân ngân hàng không thể kiểm soát được.
- Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế như : tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ ổn định của sự phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, … ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì mức sống của người dân sẽ được nâng cao, họ kỳ vọng các khoản thu nhập trong tương lai nên đi vay tiêu dùng nhiều hơn để phục vụ cho các nhu cầu của mình về mặt vật chất, tinh thần…từ đó cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại sẽ được mở rộng. Ngược lại khi nền kinh tế bị khủng hoảng, trì trệ, thu nhập trong tương lai của người dân có thể bị giảm sút và vì thế các nhu cầu chi tiêu chỉ dừng lại ở mức vừa đủ dẫn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng hạn chế hơn.
- Môi trường văn hóa - xã hội
Các nhân tố văn hóa như tập quán sinh hoạt ăn uống chi tiêu khác nhau, trình độ dân trí, thói quen, lối sống của từng vùng tác động đến nhu cầu người tiêu dùng và vì thế ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Ngoài ra các yếu tố như thói quen sử dụng các sản phẩm của ngân hàng, thói quen thanh toán tiền mặt trong dân cư cũng ảnh hưởng không ít tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
- Môi trường pháp lý:
Kinh doanh trong ngân hàng là một lĩnh vực chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng như Ngân hàng nhà nước. Khi hoạt động của ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của pháp luật thì tính trật tự, ổn định được đảm bảo, hoạt động cho vay tiêu dùng có điều kiện diễn ra thông suốt, hạn chế những thiệt hại của các bên tham gia quan hệ tín dụng…Một môi trường pháp lý lành mạnh, văn bản pháp luật rõ ràng không chồng chéo, thủ tục đơn giản… sẽ tạo điều kiện môi trường tốt để phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên nếu luật quy định về hoạt động ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng không rõ ràng, thiếu đồng bộ, còn nhiều khe hở, hay quá ngặt nghèo sẽ gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng, không có cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề phát sinh hoặc làm cho người đi vay không đáp ứng điều kiện để được ngân hàng cấp tín dụng dẫn đến ngân hàng bị hạn chế trong việc cho vay.
- Các chính sách của nhà nước
Các chính sách mang tầm vĩ mô cũng tác động lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Những chính sách này thường đề ra các nhiệm vụ của từng năm hay thời kỳ và mục đích là làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, nếu thực hiện được đời sống của người dân sẽ tăng lên, kèm theo nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên và hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng có cơ hội mở rộng.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
- Quy mô vốn và uy tín của ngân hàng:
Quy mô của một ngân hàng là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục cho vay của ngân hàng. Đặc biệt là vốn tự có, vốn tự có lớn là biểu hiện của một ngân hàng bền vững, nó quyết định mức cho vay tối đa trên một khách hàng. Vốn tự có lớn thì ngân hàng càng có điều kiện hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Ngoài ra khách hàng cũng thường tìm đến những ngân hàng có uy tín với chất lượng dịch vụ, những tiện ích và sự an toàn mà những ngân hàng này mang lại.
- Chính sách tín dụng
Các yếu tố của chính sách tín dụng như : hạn mức tín dụng, lãi suất, kỳ hạn, mức phí, phương thức cho vay, tài sản đảm bảo, hướng giải quyết nợ khó đòi,… đều tác động trực tiếp đến việc thực hiện các hoạt động của ngân hàng. Với chính sách hợp lý, đúng đắn, linh hoạt, đa dạng… sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến xin vay. Và ngược lại với chính sách tín dụng cứng nhắc, kém linh hoạt, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ hạn chế việc đi vay và giảm tính cạnh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng.
- Thẩm định khách hàng
Thẩm định là giai đoạn khởi đầu và có ý nghĩa quan trọng trong đảm
bảo an toàn vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân, đánh giá tình hình tài chính, giá trị tài sản đảm bảo của người vay. Trên cơ sở thẩm định đầy đủ các yếu tố ngân hàng sẽ quyết định có cho vay hay không, nếu cho vay thì mức cho vay là bao nhiêu, điều này phụ thuộc vào vốn của ngân hàng có tại thời điểm vay và giá trị tài sản đảm bảo. Quá trình thẩm định phải chặt chẽ mới giúp ngân hàng đảm bảo an toàn cho khoản vay, tuy nhiên nếu nó quá nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà sẽ làm cho người vay mất quá nhiều thời gian và công sức và họ sẽ thấy nản lòng. Để hạn chế điều này việc thẩm định phải dựa trên các thủ tục cơ sở khoa học hợp lý và song song với nó thì việc thực hiện phải nghiêm chỉnh, nó là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và chất lượng khoản tín dụng.
- Chất lượng cán bộ tín dụng
Chất lượng cán bộ là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng. Chất lượng cán bộ được thể hiện ở: trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, khả năng giao tiếp, nắm bắt tâm lý khách hàng…Chất lượng cán bộ có cao thì mới đáp ứng được yêu cầu công việc, mới thực hiện được tốt việc thẩm định, giảm thiểu được rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác, cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp tốt nếu không sẽ đưa lại những tổn hại cho ngân hàng. Sự thân thiện và cởi mở của cán bộ tín dụng sẽ làm cho ngân hàng hài lòng và tin tưởng hơn vào ngân hàng và từ đó dễ trở thành khách hàng quen thuộc của ngân hàng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc trang bị đầy đủ các công nghệ, thiết bị hiện đại phù hợp với nhu cầu xã hội, phục vụ kịp thời nhu cầu của khách hàng là yếu tố để giúp ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Với thiết bị hiện đại hoạt động của ngân hàng sẽ diễn ra suôn sẻ, khả năng nắm bắt diễn biến thị trường sẽ nhanh hơn, giúp nhân hàng đưa ra được những chiến lược kinh doanh phù hợp với nhu cầu của khách hàng nói chung và khách hàng vay tiêu dùng nói riêng.
Chương 2: THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI SỞ GIAO DỊCH 1 NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
2.1. Khái quát về sở GD1 ngân hàng Công Thương :
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Sở giao dịch 1 ngân hàng công thương Việt Nam là một đơn vị thành viên của NHCT VN nằm trên địa bàn Hà Nội. Tiền thân ban đầu là chi nhánh ngân hàng Công Thương thành phố Hà Nội.Chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội được thành lập theo quyết định số 198/NH – TCCB ngày 29/6/1988 của tổng giám đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.Đến ngày 24/3/1993 tổng giám đốc NHCT ra quyết định số 93/NHCT_TCCB chuyển các hoạt động tại hội sở chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thành hội sở chính NHCT Việt Nam. Trụ sở chính đóng tại số 10 Lê Lai, quận Hoàn Kiếm,thành phố Hà Nội. Kể từ ngày 1/4/1993 SGD NHCT Việt Nam đi vào hoạt động, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội. Ngày 30/12/1998, chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ký quyết định số 134/ QĐ-HĐQT-NHCT về việc sắp xếp tổ chức hoạt động SGD 1 NHCT Việt Nam theo điều lệ tổ chức hoạt động của NHCT Việt Nam. SGD1 được mang tên từ ngày 1/1/1999. Quá trình hình thành và phát triển của SGD1 gắn liền với sự đổi mới của hệ thống ngân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7664.doc