Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi – thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Đói nghèo, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, thất nghiệp,… đây là những vấn đề lớn mang tầm quốc gia và quốc tế hiện nay. Việt Nam là nước nông nghiệp, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế nước ta vẫn là nước đang phát triển, phần lớn dân cư sống phụ thuộc nông nghiệp, đời sống tuy đã cải thiện hơn trước rất nhiều nhưng so với thế giới vẫn còn ở mức thấp. Và ngay trong nước, nhiều bộ phận dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, điển hình là đồng bào các dân tộc thiểu số, sinh sống tại

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các địa bàn xa xôi hẻo lánh, điều kiện kinh tế xã hội không thuận lợi: kinh tế vẫn trong tình trạng chậm phát triển, chậm chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa, tiếp cận với cơ chế thị trường còn rất lúng túng, chất lượng, sản phẩm hàng hóa thấp, tình trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn đang bức xúc ở nhiều nơi, kết cấu hạ tầng còn thiếu và còn nhiều khó khăn, dân số ngày càng tăng lên, môi trường sinh thái bị suy giảm, rừng bị phá, đất bị bạc màu, tỷ lệ đói nghèo còn ở mức cao so với bình quân chung của cả nước khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng lớn. Từ thực tế đó, Đảng và Nhà nước đã đề xuất và thực thi rất nhiều các biện pháp, chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích, giúp đỡ đồng bào dân tộc trong phát triển sản xuất, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng dần mức sống. Kết quả bước đầu đã mang lại những tín hiệu khả quan, đời sống nhân dân đã được cải thiện thấy rõ. Thậm chí Việt Nam còn được nêu gương là quốc gia có thành tích xóa đói giảm nghèo hiệu quả. Để làm rõ hơn hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo nhà nước đã và đang thực hiện em đã chọn đề tài cho bài đề án môn học là : Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi – Thực trạng và giải pháp NỘI DUNG I. Vấn đề nghèo đói: 1. Một số quan niệm về nghèo đói: Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu cấp bách, không chỉ của riêng mỗi quốc gia. Nó đang thu hút được sự nỗ lực của cả cộng đồng trong cuộc chiến chống lại đói nghèo, nâng cao mức sống của người dân và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên vấn đề gặp phải là trình độ phát triển của các quốc gia khác nhau nên mức sống người dân cũng khác nhau, khoảng cách chênh lệch ngày càng xa hơn. Do vậy việc thống nhất một khái niệm về đói nghèo là khó. Dưới đây xin trình bày một số quan niệm phổ biến: Thứ nhất: Quan điểm của trường phái phúc lợi : Quan điểm này cho rằng: đói nghèo khi một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó không có được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. Theo cách hiểu này thì nghèo đói đồng nghĩa với việc có một mức sống thấp không đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Khi đó tăng thu nhập được xem là điều kiện quan trọng nhất để nâng cao mức sống của các cá nhân. Theo cách hiểu này, các chính sách xóa đói giảm nghèo phải tập trung vào nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm …qua đó nâng cao thu nhập cho người dân để họ có thể có được mức phúc lợi kinh tế cần thiết như xã hội mong muốn. Đây là quan điểm phổ biến nhất, là cơ sở cho thước đo đói nghèo theo thu nhập sẽ được trình bày sau. Tuy nhiên, thật là thiếu sót nếu chỉ đề cập nghèo đói chỉ về khía cạnh thu nhập, vì nghèo đói không đơn thuần về thu nhập, về vật chất. Vì thế, trường phái thứ hai – trường phái nhu cầu cơ bản , coi cái mà những người nghèo thiếu là tập hợp các hàng hóa và dịch vụ đã được xác định cụ thể mà việc thỏa mãn chúng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng cuộc sống. Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm: lương thực thực phẩm, nước, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế cơ sở, giao thông công cộng, điều kiện vệ sinh. Trong số các nhu cầu cơ bản đó, nhu cầu về dinh dưỡng là quan trọng nhất. Điểm khác biệt chính của trường phái này so với trường phái phúc lợi là nó không đi vào xác định mức sống hay độ thỏa dụng cá nhân, mà là một hệ thống các hàng hóa cơ bản mà mọi cá nhân có quyền được hưởng. Trường phái này bắt nguồn từ những nghiên cứu đầu tiên của nhà kinh tế người Anh Seebohm Rowntree trong những năm 1900 và trở nên phổ biến từ thập niên 70 của thế kỉ trước. Theo trường phái này, dể xóa đói giảm nghèo cần có chính sách cụ thể đối với từng loại nhu cầu cơ bản, chú không chỉ tập trung vào mỗi việc tăng thu nhập cho cá nhân. Thí dụ, nếu giáo dục và y tế cơ sở có thể được cung cấp tốt nhất qua các cơ sở công cộng thì chính sách này cần tập trung vào việc tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ công của người nghèo. Quan niệm này về đói nghèo phản ánh rất rõ qua định nghĩa đói nghèo mà Hội nghị quốc tế về đói nghèo do ESCAP tổ chức tại Thái Lan năm 1993 đã đưa ra, theo đó đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Một khó khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo của trường phái nhu cầu cơ bản là nhu cầu cơ bản cũng thay đổi tùy theo tuổi tác, giới tính…và các đặc điểm nhân khẩu khác cũng như mức độ tham gia hoạt động của từng thành viên. Vì thế trường phái thứ ba không quan tâm đến những gì thiếu để thỏa mãn độ thỏa dụng cá nhân hay nhu cầu cơ bản của con người, mà chú trọng đến khả năng hay năng lực của con người. Do vậy trường phái thứ ba này - còn được gọi là trường phái năng lực-, mới nổi lên từ những năm 80 của thế kỉ trước, người tiên phong là kinh tế học Mỹ gốc Ấn Anartya Sen. Theo ông giá trị cuộc sống của con người không chỉ phục thuộc duy nhất vào độ thỏa dụng hay thỏa mãn cá nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà học được hưởng, để vươn tới một cuộc sống như họ mong muốn. Theo cách hiểu này điều mà các chính sách cần làm là phải tạo điều kiện để người nghèo có được năng lực thực hiện các chức năng cần thiết, đi từ những thứ rất cơ bản như đủ dinh dưỡng, có sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm… đến những nhu cầu cao hơn như được tôn trọng, có tiếng nói và quyền lực, được tham gia vào đời sống xã hội. Như vậy trường phái này khác cơ bản với các trường phái trên ở chỗ nó chú trọng đến việc tạo ra cơ hội cho người nghèo để họ có thể phát huy năng lực theo cách mà tự chọn. 2.Thước đo nghèo đói: Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố. Thứ nhất : cần lựa chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi. Thứ hai: cần lựa chọn một ngưỡng nghèo. Cuối cùng phải lựa chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư. 2.1. Xác định các chỉ số phúc lợi Những khía cạnh cơ bản của đói nghèo được nêu trên có thể tóm lại qua các chỉ số : mức chi tiêu bình quân đầu người, tính toán về giá trị sử dụng hàng năm của những hàng hóa lâu bền và nhà ở, tình trạng thiếu vốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay thiếu quyền lực… 2.2. Lựa chọn và ước tính ngưỡng nghèo: 2.2.1. Lựa chọn ngưỡng nghèo Ngưỡng nghèo (hay còn gọi là chuẩn nghèo) là ranh giới phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính bằng tiền (thí dụ, một mức tiêu dùng hay thu nhập nào đó), hay phi tiền tệ (ví dụ một trình độ học vấn nhất định). Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo: 2.2.1.1. Ngưỡng nghèo tuyệt đối: Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp chung để xác định ngưỡng nghèo này sử dụng một rổ các loại lương thực được coi là cần thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng cho con người. rổ lương thực đó sẽ tính đến cả cơ cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình đặc thù của một số nước. Theo cơ sơ đó, hai ngưỡng nghèo tuyệt đối sẽ được tính toán. Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm: là số tiền cần thiết để mua một rổ lương thực hàng ngày. Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó không tính đến chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác Ngưỡng nghèo chung: Bao gồm cả phần chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực 2.2.1.2. Ngưỡng nghèo tương đối: Được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng Do đặc thù của một nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, Việt Nam chúng ta còn đưa ra khái niệm Đói và thiếu đói, để đảm bảo tính chất ưu tiên hóa chính xác hơn trong các chính sách xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chỉ đủ khả năng đảm bảo có được mức lương cần thiết để tồn tại. Trong bộ phận này có những người đói gay gắt, là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống cách xa dưới mức tối thiểu, phải đói ăn chịu bữa đứt theo những thời gian nhất định. 2.2.2. Ước tính ngưỡng nghèo Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB): Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh giá WB đã lựa chọn tiêu thức phúc lợi với những chỉ tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành, mặc, thuốc men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hóa lâu bền. Tuy nhiên báo cáo về những số liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần lớn người lao động tự hành nghề. WB đưa ra hai ngưỡng nghèo: + Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm + Ngưỡng nghèo chung Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều tra mức sống 1998 là lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người dưới ngưỡng đó gọi là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm. Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế ( ILO) Cơ sở để ILO xây dựng rổ hàng hóa cho người nghèo là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực thực phẩm phải phù hợp với đồ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm người nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự kết hợp thực phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người nghèo thì phải thỏa mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcal rẻ nhất. ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm 2100 kcal, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ số lương thực thực phẩm trong rổ lương thực cho người nghèo với 75% kcal từ gạo và 25% kcal có được từ các hàng hóa khác (gia vị) Theo quan điểm của Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO) GSO xác định dựa theo cách tiếp cận của WB đã nêu. Theo hướng này GSO đưa ra hai ngưỡng: + Nghèo đói lương thực thực phẩm là những người có mức thu nhập không bảo đảm cho lượng dinh dưỡng tối thiểu (bù đắp 2100kcal/người/ngày/đêm) + Nghèo đói chung: được xác định trên cơ sở ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm và coi đó là tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% còn lại là các nhu cầu cơ bản tối thiểu khác. Nghèo đói chung là những người không đảm bảo thu nhập để đáp ứng cả hai yêu cầu trên Theo cách tiếp cận này, căn cứ vào giá cả chung GSO đã đưa ra ngưỡng nghèo áp dụng từ năm 1998 ở Việt Nam: Nghèo đói lương thực thực phẩm: 107.234 đồng/người/tháng Nghèo đói chung : 149.156 đồng/người/tháng Theo quan điểm của bộ Lao động-thương binh-xã hội ( MOLISA) Cách xác định ngưỡng nghèo của MOLISA mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận khía cạnh thu nhập, dựa chủ yếu vào khả năng của những tư liệu sẵn có, cụ thể là khả năng tài chính hỗ trợ cho chương trình XĐGN, trên cơ sở đó xác định ngưỡng nghèo là mức thu nhập và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các khu vực khác nhau MOLISA đã nhiều lần điều chỉnh mức chuẩn nghèo áp dụng cho Việt Nam: Khu vực Giai đoạn Nông thôn miền núi và hải đảo (đ/tháng) Nông thôn đồng bằng (đ/tháng) Thành thị (đ/tháng) 1996 – 2000 55.000 70.000 90.000 2001-2005 80.000 100.000 150.000 2006-2010 200.000 250.000 (Nguồn: Bộ lao động thương binh xã hội) Qua bảng trên ta thấy chuẩn nghèo qua các giai đoạn đã được nâng lên một cách rõ rệt, điều này cho thấy chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. 2.3. Thước đo tỷ lệ nghèo đói: Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, chúng ta có thể tính toán một số thước đo mô tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo thông dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là :chỉ số đếm đầu ( còn gọi là tỷ lệ đói nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo. Chỉ số đếm đầu ( tỷ lệ đói nghèo) Công thức: P = M/N . Trong đó: M: số người nghèo,N:Tổng số dân Thông thường chỉ số này biểu diễn dưới dạng %, nó cho biết quy mô đói nghèo của một quốc gia Hạn chế: + Việc xác định ngưỡng nghèo giữa các quốc gia không thống nhất với nhau. Do đó người nghèo ở các nước phát triển có thu nhập hoặc chi tiêu lớn hơn người nghèo ở các nước đang phát triển rất nhiều + Chỉ số này không chú ý đến mức độ mà các cá nhân ở dưới hay trên ngưỡng nghèo mà chỉ tính đến tỷ lệ dân số nằm bên dưới giới hạn đó. Vì thế nếu chỉ dựa vào yếu tố này thì nhà nước khó có thể xác định mức độ nghèo đói của các nhóm dân cư sống dưới mức tối thiểu, chính phủ có thể sẽ chú trọng đên việc làm thế nào chuyển những người ở dưới ngưỡng nghèo lên trên ngưỡng đó để cải thiện tỷ lệ này chứ không quan tâm đến xóa bỏ nguồn gốc nghèo đói. Khoảng nghèo: M Công thức : P = 1/N .Σ(z-yi)/z, trong đó: i=1 yi: mức thu nhập( chi tiêu) của người thứ I; z: ngưỡng nghèo, N: tổng số dân, M: số người nghèo Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo, nó biểu hiện như mức trung bình của tất cả mội người trong dân cư. Khoảng nghèo được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế, nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều đúng đối tượng. Tuy nhiên trong thực tế việc chuyển giao thu nhập thường đi kèm với những khoản thất thoát và chi phí hành chính nên chi phí thực tế để xóa đói giảm nghèo bao giờ cũng lớn hơn khoảng nghèo Bình phương khoảng nghèo M CThức: P = 1/N .Σ[(z-yi)/z]2, trong đó: i=1 y:mức thu nhập(chi tiêu) của người thứ i z: ngưỡng nghèo, N: tổng số dân, M: số người nghèo Chỉ số này thể hiện mức độ nghiêm trọng ( hay cường độ ) đói nghèo, nó làm tăng trọng số cho những nhóm nghèo nhất trong xã hội. II.Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi Tổ quốc Việt Nam có 54 dân tộc anh em sinh sống quây quần, trừ người Kinh chiếm số lượng lớn nhất, còn lại là hơn 13 triệu người với quy mô dân tộc khác nhau. Chỉ có 4 dân tộc có trên 1 triệu người còn lại là 13 dân tộc có dân số chục vạn, 19 dân tộc có dân số hàng vạn, 12 dân tộc có dân số hàng nghìn và 5 dân tộc có dân số hàng trăm. Do đặc điểm địa lý, quy mô dân số, trình độ kinh tế, xã hội không đồng đều  nên việc phát triển kinh tế miền núi hiệu quả mà vẫn bảo tồn được bản sắc văn hóa truyền thống ,văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, của vùng miền, dân tộc  thực sự khó khăn và là một thách thức không nhỏ. 1. Khái niệm – mục tiêu – đối tượng – chủ thể của chính sách: 1.1. Khái niệm: Chính sách xóa đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước. 1.2.Mục tiêu : *Mục tiêu chung: đạt được hiệu quả xã hội, công bằng xã hội, ổn định xã hội, phát triển và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh *Mục tiêu chiến lược: *Mục tiêu tổng quát: Chính sách XĐGN cho đồng bào miền núi nhằm tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người dân miền núi còn nhiều khó khăn trong cuộc sống phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, giảm tỷ lệ đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống *Mục tiêu riêng: Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất (thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường dân sinh, điện, nước sinh hoạt, chợ) Hỗ trợ các dịch vụ công cộng, trợ giúp đồng bào miền núi về nhà ở, công cụ lao động và sản xuất Nâng cao dân trí cộng đồng, hướng dẫn người dân cách làm ăn khoa học, khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng các mô hình XĐGN Cho vay vốn sản xuất kinh doanh Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo có đồng bào dân tộc sinh sống Định canh định cư cho đồng bào Phấn đấu đến năm 2010 cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại quyết định số170/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của chính phủ 1.3. Chủ thể thực hiện chính sách: Chính Phủ Bộ tài chính Bộ lao động – thương binh – xã hội Bộ NNo&PTNT Bộ kế hoạch đầu tư UBND tỉnh, huyện, xã có liên quan Cán bộ thực hiện Ngân hàng Các cá nhân, tổ chức xã hội - đoàn thể và các tổ chức khác tham gia hỗ trợ, phối hợp thực hiện các dự án 1.4. Đối tượng của chính sách: Đồng bào dân tộc miền núi ở vùng sâu vùng xa, còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống và phát triển kinh tế, đời sống còn lạc hậu. 2.Quan điểm và nguyên tắc thực hiện của Đảng và Nhà nước về vấn đề XĐGN 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước: Đảng ta xác định XĐGN là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước Đảng và Nhà nước coi đây là nhiệm vụ trọng yếu trong quá trình xây dựng đất nước. Các cấp các ngành cần coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu XĐGN đã đề ra Giải pháp không chỉ quan tâm vào việc giảm tỷ lệ đói nghèo mà còn quan tâm đến việc nâng cao khả năng tham gia của người nghèo vào các dịch vụ xã hội Coi tăng trưởng kinh tế là động lực cơ bản nhất mang tính quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu XĐGN bền vững Tăng cường xã hội hóa công tác XĐGN: phát huy nội lực của người nghèo, của nội bộ nhân dân và sự hỗ trợ của Nhà nước Xác đinh XĐGN là nhiệm vụ khó khăn, cần có quá trình lâu dài 2.2. Nguyên tắc chỉ đạo: Yêu cầu phát huy tối đa sự sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của toàn thể cộng đồng và nỗ lực của chính bản thân những người nghèo Thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, tăng cường phân cấp cho cơ sở, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trực tiếp tham gia vào chương trình. 3. Những chính sách của nhà nước ưu tiên phát triển đời sống cho đồng bào miền núi: 3.1. Chương trình định canh định cư: Từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận vấn đề định canh định cư có vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ tập tục du canh du cư lạc hậu của dân tộc miền núi. Nó tác động sâu sắc tới tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ hình thành nếp sống mới, từng bước ổn định đời sống, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước. Chương trình này bắt đầu thực hiện từ năm 1998, nó đã trở thành một chương trình rất đắc lực trong việc giảm nghèo đói. Mục tiêu của nó nhằm biến người du canh du cư thành định cư, mang lại cho họ tập tục sống ổn định, có nơi ở ổn định thì mới nghĩ đến việc phát triển kinh tế. Mục tiêu chung Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư có nơi ở ổn định, có đủ điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ vững an ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội tại các địa phương Chủ thể liên quan: Ủy ban dân tộc, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ NNo & PTNT, UBND các tỉnh thành phố, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc diện của chính sách quy định. Mục tiêu cụ thể: Căn cứ vào Chính sách định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 – 2010 đã được Chính phủ phê duyệt thì theo đó: Trong thời gian từ năm  2007 -2010: hoàn thành cơ bản việc định canh định cư cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư trên phạm vi cả nước; 70 % số điểm định canh, định cư tập trung có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện, thủy lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư được tổ chức định canh định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt... theo quy định; trên 70% số hộ được sử dụng điện, nước sinh hoạt hợp vệ sinh; tại các điểm định canh, định cư không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2 - 3 % số hộ nghèo. Mới đây nhất Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu sổ giai đoạn 2007 – 2010;Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách di dân thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư giai đoạn 2003 – 2010; Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn . . .cùng nhiều văn bản pháp quy khác 3.2. Chương trình phát triển giao thông thủy lợi nông thôn: Giao thông nông thôn (GTNT) là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Chất lượng mạng lưới đường sá quyết định sự lưu thông hàng hóa và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực, các vùng sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm.. GTNT bao gồm các tuyến đường thuộc tỉnh huyện, xã nối liền tới các thị trường, các khu vực kinh tế phi nông nghiệp và các dịch vụ xã hội khác. Đối với vùng núi, vùng sâu, vùng xa GTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu cơ sở hạ tầng giao thông không tốt sẽ là trở ngại chính đối với sự phát triển kinh tế. Mặt khác GTNT còn là giải pháp tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn (cả nông nghiệp và phi nông nghiệp) sang sản xuất hàng hoá. Mục tiêu của chính sách: khôi phục và phát triển cơ cấu hạ tầng nông thôn: Đường giao thông nông thôn, điện, trường học, hệ thống kênh mương cấp II, III, hệ thống cấp nước nông thôn, hệ thống vệ sinh môi trường nông thôn. Hỗ trợ phát triển nông thôn toàn diện, thúc đẩy sản xuất, gắn hoạt động nông nghiệp với thị trường, xóa đói, giảm nghèo. Việc phát triển giao thông và thủy lợi là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế, tạo đà thúc đẩy kinh tế miền núi phát triển. 3.3. Chương trình giáo dục, y tế: *Chương trình giáo dục: Có thể gói gọn chương trình giáo dục trong khuôn khổ đóng góp hoặc tác động vào việc xóa đói giảm nghèo, gồm: -Chương trình nâng cao chất lượng phổ thông các cấp. -Chương trình củng cố và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục tiểu học. -Chương trình tăng cường đẩy mạnh giáo dục phi chính thức. -Chương trình cải tiến hệ thống dạy nghề. -Chương trình của bộ giáo dục và đào tạo về hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú. *Chương trình y tế: Chương trình y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung vốn có thâm niên từ trước so với chương trình xóa đói giảm nghèo. Trong đó có chương trình bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đây là hai đối tượng dễ bị rủi ro trong cuộc sống xã hội và gia đình.Những chương trình hoạt động chính trong khuôn khổ XĐGN bao gồm: chương trình phòng chống bướu cổ, phòng chống bệnh sốt rét, nước sạch cho sinh hoạt nông thôn, tiêm chủng mở rộng, xóa xã trắng về y tế. Những chương trình này nhằm cải thiện hệ thống y tế cộng đồng ở miền núi, phục vụ công tác phòng ngừa và chữa trị bệnh tật cho nhân dân vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. 3.4. Chương trình tín dụng, cho nhân dân vay vốn làm ăn Chủ trương chính sách lớn của Nhà nước về tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn được hoàn thiện tại Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với NHCSXH nhiệm vụ này đã được Chính phủ quy định tại điểm 5 điều 2 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 “Về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác”. Để triển khai thực hiện  nhiệm vụ tín dụng đối với vùng khó khăn. Sau bẩy năm hoạt động, ngày 4-10-2002, Chính phủ đã ban hành nghị định 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác, trong đó ghi rõ thành lập ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện tín dụng ưu dãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng người nghèo, đưa ngân hàng người nghèo trở thành một ngân hàng hoàn chỉnh, thực hiện hiệu quả chức năng của mình. NHCSXH đã ban hành văn bản số 317/NHCS-KH ngày 02/05/2003 về “Hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình 135” Ngày 05/3/2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 32/2007/QĐ-TTg về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. 3.5. Chương trình tư vấn chuyển giao khoa học công nghệ Đây là một chương trình đặc biệt có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế miền núi theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng mới và sản xuất hàng hóa tập trung. Nó gồm nhiều công việc, dự án triển khai trên diện rộng, chủ yếu tập trung vào các khâu khuyến nông, khuyến lâm, khoa học kỹ thuật, vật tư cho sản xuất. 3.6.Chương trình hỗ trợ XĐGN cho các dân tộc đặc biệt khó khăn Chương trình này bắt đầu từ năm 1992, mục tiêu hỗ trợ các dân tộc thiểu số khó khăn và có dân số ít. Đa số những dân tộc này nằm ở vùng sâu vùng xa khó khăn về mọi mặt: kinh tế, giáo dục, giao thông, y tế, văn hóa… Chính phủ có chương trình 135 (hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn) theo quyết đinh 135/QĐ-TTg gày 31/7/1998, chương trình này kéo dài đến năm 2010, giai đoạn 1 đã kết thúc năm 2005 Ngoài ra Chính phủ còn có chương trình 143 : XĐGN cho các tỉnh miền núi phía Bắc dành cho 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn. 3.7. Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (Chương trình 327) Thực hiện theo quyết định 327/QĐ ngày 15/9/1992 của HĐBT về một số chủ trương sử dụng đất trống đồi trọc III.Thực trạng nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số và chính sách XĐGN của Nhà nước với đối tượng này: 1.Thực trạng và nguyên nhân tình trạng đói nghèo của các dân tộc miền núi 1.1 Thực trạng đói nghèo đang diễn ra: Theo số liệu của Tổng cục thống kê qua các cuộc khảo sát về mức sống của dân cư Việt Nam thì tỷ lệ nghèo của cả nước từ 58% năm 1993 giảm xuống còn 14,87% năm 2007 ( khoảng 13 triệu người). Cùng với kết quả đó vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tỷ lệ nghèo như sau: Vùng Tây Bắc: 49% Vùng Bắc Trung Bộ 29,1% Vùng Tây Nguyên 28,6% Vùng Đông Bắc 25% Vùng Nam Trung Bộ 12.6% Cả nước hiện còn 58 huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% và 3006 xã tỷ lệ nghèo trên 25% , nơi đây tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số ít người. Đồng bào dân tộc thiếu số nước ta chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước nhưng lại chiếm gần 44% tổng số người nghèo, nghĩa là cứ 100 người nghèo thì có gần 44 người là đồng bào dân tộc thiểu số. Tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số chậm hơn người Kinh và người Hoa, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 86,4% ( năm 1993) xuống còn 52,3% ( năm 2006), trong khi đó tỷ lệ nghèo của người Kinh và Hoa là 53,9% vào năm 1993 xuống còn 10,36% vào năm 2006. Tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giữa các vùng khó khăn nhất cũng có sự khác nhau: tỷ lệ của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc từ gần 90% năm 1993 giảm xuống còn dưới 60% năm 2006, trong khi đó tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên giảm ừ trên 90% xuống còn 70% trong cùng thời gian trên. Tỷ lệ nghèo giữa các nhóm dân tộc thiểu số cũng khác nhau.Nhóm dân tộc Tày, Thái, Mường, Nùng tỷ lệ nghèo năm 1993 là 82% xuống còn khoảng 42% năm 2006. Các nhóm dân tộc thiểu số khác từ 84% ( năm 1995) xuống còn 50% ( năm 1993). Trong khi đó người Kinh từ 52% ( 1993) xuống còn 10% (2006) và người Hoa từ 15% (1995) xuống còn 7% ( năm 2006) Nhìn chung nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo cao gấp nhiều lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước, nhất là nhóm dân tộc thiểu số ít người tập trung ở vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Đông Bắc, miền Tây Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ. Về giáo dục: năm 2006: tỷ lệ người chưa hoàn thành bậc học nào của người Kinh và người Hoa là 20%, trong khi các dân tộc thiểu số là trên 45% Tiếp cận với dịch vụ y tế (tính theo tỷ lệ % dân số) thì nhóm dân tộc thiểu số tỏ ra tốt hơn người Kinh và người Hoa. Năm 1993 chỉ có 8% đồng bào dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), đến năm 2006 là 78% có thẻ BHYT và thẻ khám chữa bệnh miễn phí.Tỷ lệ này ở người Kinh và người Hoa là 30% và 49% vào các năm tương ứng. 1.2 Nguyên nhân của tình trạng đói nghèo 1.2.1.Nhóm nguyên nhân mang tính khách quan thuộc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 1.2.1.1. Vị trí địa lý Đây là nguyên nhân bao trùm dẫn đến tình trạng nghèo đói đối với các hộ dân tộc thiểu số. Đồng bào miền núi sống chủ yếu ở những khu vực đồi núi, địa hình hiểm trở, xa trung tâm, nhiều nơi không có đường giao thông, có nơi muốn đến chỉ có cách đi bộ mới vào được. Họ thường sống cách xa khu dân cư, sống riêng lẻ nhà nào biết nhà đó, một bản chỉ khoảng vài chục nóc nhà. Do địa hình phức tạp, đi lại khó khăn nên việc xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống và sản xuất như giao thông, thủy lợi rất khó khăn.Giao thông không phát triển là cản trở lớn trong quá trình xóa đói giảm nghèo, nó làm mất đi cơ hội giao thương, chi phí vận chuyển tăng, nông sản hàng hóa làm ra khó tiêu thụ. Tình trạng thủy lợi kém là một yếu tố góp phần hạn chế sự phát triển kinh tế, thiếu nước canh tác là khá phổ biến. Đồng thời với nó là tình trạng hệ thống thủy lợi xây dựng không đồng bộ. 1.2.1.2.Điều kiện tự nhiên Dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở những vùng đồi núi, vùng sâu vùng xa, phải chiu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết. Ví dụ vùng miền núi phía Bắc, mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình 18 -22 0C, thường gặp mưa phùn gió bấc, thời tiết lạnh, nhiều nơi xuất hiện sương muối, băng giá, gây ảnh hưởng lớn đến trồng trọt chăn nuôi. Thiên tai thường xuyên xảy ra, năm nào cũng xảy ra lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh. Đồng bào dân tộc lại chịu thiệt thòi vì không có phương tiện phòng chống, đối phó khắc phục. Mặt khác, xảy ra thiên tai thì công tác cứu trợ cũng gặp nhiều khó khăn trong khâu vận chuyển, đi lại. Môi trường kinh tế không thuận lợi: Sản phẩm làm ra phải có nơi tiêu thụ, cần có thị trường giao thương mới phát triển.. Ở địa bàn các dân tộc ít người sinh sống gặp phải vấn đề là không có hoặc có ở mức độ thấp thị trường mua bán hàng hóa. Thị trường nhỏ hẹp, sức luân chuyển hàng hóa thấp, sức mua kém, cơ cấu hàng hóa đơn điệu, chưa có các trung tâm thương mại. Đường giao thông đi lại rất khó khăn. Hàng hóa phần nhiều do người Kinh mang từ dưới xuôi lên bán, đồng bào dân tộc ít người đi chợ rất ít. Cả tháng đi xuống chợ vài lần,mỗi lần đi chợ sẽ mất nhiều giờ đi bộ, có khi là cả ngày đường. Hàng hóa họ m._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6226.doc