Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

Tài liệu Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO): ... Ebook Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Về mặt lý luận Trước sự phát triển của nền kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới luôn tự thích nghi và điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật của nước mình phù hợp với pháp luật quốc tế. WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh, gồm các Hiệp định và quy tắc về kinh tế, thương mại v.v..., trong đó các quy định về tổ chức và thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế chiếm một số lượng lớn. Đặc biệt các quy tắc về nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của WTO, có thế nói rằng, nông nghiệp là một trong các trụ cột chính của WTO do tích phức tạp ảnh hưởng đến hàng tỷ nông dân và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Việc đưa ra các nghiên cứu Hiệp định nông nghiệp cũng như các đáng giá thực hiện Hiệp định này trong nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ban hành chính sách pháp luật nông nghiệp quốc gia. Để thực hiện được Hiệp định và các nguyên tắc này, nhằm đem lại hiệu quả cao cho sự phát triển của quốc gia, rất cần có một nghiên cứu về Hiệp định và nguyên tắc về nông nghiệp của WTO, nhằm: Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về nông nghiệp của Hiệp định nông nghiệp trong WTO ở một số quốc gia. Nhằm hiểu biết sâu sắc các quy định trong Hiệp định nông nghiệp; Trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn quản lý đối với nền kinh tế trong nước và các hoạt động chuyên ngành; Đưa ra các giải pháp về sửa đổi, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật. Với các mục đích trên, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)" sẽ giải quyết được một số vấn đề cơ bản như: Các kiến thức cơ bản về WTO. Đưa ra các nghiên cứu, phân tích về Hiệp định nông nghiệp của WTO. Hệ thống chính sách, pháp luật hiện tại về nông nghiệp của Việt Nam. Các đề xuất nhằm nội địa hóa Hiệp định này, thông qua việc xây dựng các chính sách, pháp luật phù hợp với sự phát triển của Việt Nam Về mặt thực tiễn Hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm sâu sắc. Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước ta đã coi hợp tác kinh tế quốc tế là nhiệm vụ hàng đầu. Nhưng mãi gần 10 năm sau, năm 1995, Nhà nước Việt Nam mới chính thức nộp đơn gia nhập WTO. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành nước thành viên của ASEAN-Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, năm 1998 trở thành thành viên của APEC (Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương), và đến nay, qua hơn 10 năm đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đang đứng trước vận hội mới trở thành quốc gia thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này. WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, với sự góp mặt của 149 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu, tiền thân của WTO là GATT - một hiệp định về thương mại và thuế quan được các quốc gia thiết lập năm 1947 nhằm thúc đầy thương mại kinh tế giữa các quốc gia sau thế chiến thế giới thứ II. Sau này, do GATT không đủ khả năng điều chỉnh sự phát triển kinh tế của các quốc gia, WTO đã được thành lập với phạm vi và mục đích rộng hơn rất nhiều. Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thông qua các hình thức đầu tư, thuế quan, tài chính, ngân hàng v.v... tạo điều kiện cho pháp luật quốc gia hội nhập vào pháp luật quốc tế. Việt Nam là một trong các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với dân số trên 80 triệu dân, trong đó hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn và hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Do đó, sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, nông nghiệp là một lĩnh vực rất nhậy cảm đối với các tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vào năm 2010, khi các rào cản thuế quan và phi quan thuế bị loại bỏ, nền nông nghiệp Việt Nam, với quy mô sản xuất nhỏ lẻ và tư liệu sản xuất lạc hậu sẽ phải đối mặt với cạnh tranh tự do gay gắt của nền kinh tế thị trường quốc tế. Một trong các hiệp định chính của WTO là Hiệp định nông nghiệp. Hiệp định nông nghiệp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các chính sách, luật pháp của các quốc gia thành viên như: Các quy định về tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước, và trợ cấp xuất khẩu. Các quy định trong Hiệp định này tương đối phức tạp và cũng rất khó trong việc thực hiện vì nó liên quan trực tiếp đến việc sửa đổi luật pháp trong nước trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì thế, các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang tiến hành nhiều nghiên cứu, và đưa ra các biện pháp, giải pháp để làm hài hoà chính sách, luật pháp trong nước phù hợp với Hiệp định này. Tuy nhiên, đây là vấn đề không đơn giản không chỉ với các quốc gia đang phát triển mà ngay cả đối với các quốc gia phát triển, làm thế nào để thực hiện được Hiệp định này cũng là điều hết sức phức tạp. Phức tạp ở chỗ phải tiến hành sửa đổi luật pháp trong nước theo hướng phù hợp với các quy định trong Hiệp định, nhưng ngược lại, việc sửa đổi này cũng nhằm bảo vệ thị trường nông sản trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong quá trình hội nhập. Cơ hội đối với ngành nông nghiệp khi tham gia WTO Minh bạch hoá chính sách pháp luật: Trước hết phải nói rằng việc tham gia vào Hiệp định Nông nghiệp buộc các nước thành viên phải tiến hành cải cách chính sách pháp luật trong nước của mình phù hợp với các quy định của Hiệp định. Các vấn đề cải cách chính sách pháp luật tập trung vào chính sách luật pháp về thuế quan, phi thuế quan, bảo hộ, cạnh tranh v.v… do đó, pháp luật về nông nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn đối với việc sửa đổi chính sách phù hợp với quốc tế và trong nước. Khả năng mở rộng thị trường: Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được các nước thành viên khác dành cho quy chế tối huệ quốc quy chế không phân biệt đối xử có mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản, mở rộng hạn ngạch thuế quan, giảm dần thuế đối với hàng nông sản chế biến và xoá bỏ các rào cản phi thuế khác sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước phát triển. Thị trường tiêu thụ được mở rộng không những trong khu vực mà cả trên thế giới. Về đầu tư: Môi trường kinh tế - xã hội ổn định, kết hợp với triển vọng hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực tới đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều nước đã đầu tư lớn vào Việt Nam như: Đài Loan, Hồng Kông, Pháp, Trung Quốc. Gia nhập WTO, hệ thống pháp lý sẽ được điều chỉnh theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tham gia đầu tư vào ngành nông nghiệp. Thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng cũng là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hơn. Về khoa học công nghệ: Hoạt động hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hy vọng được tham gia nhiều hơn các chương trình hợp tác về khoa học công nghệ cũng như tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Nông nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản hàng hoá và khả năng cạng tranh của hàng nông sản. Nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước: Gia nhập WTO, Việt Nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau, ngược lại, Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các nước thành viên khác. Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường hàng nông sản nhiều hơn, chính sách pháp luật minh bạch và bình đẳng hơn, các chính sách, pháp luật trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông nghiệp không phù hợp với WTO phải dần bị loại bỏ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước được nữa. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Áp lực này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và các doanh nghiệp. Thách thức Xuất phát điểm khi gia nhập WTO của Việt Nam nói chung và nền nông nghiệp nói riêng là quá thấp, lại thêm những quy định của WTO đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn, chắc chắn sẽ đem lại cho nông nghiệp Việt Nam những thách thức lớn, cụ thể: - Khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản nước ta còn thấp do năng suất, chất lượng thấp, thiết bị và công nghệ chế biến lạc hậu nên giá thành sản phẩm cao như mía đường, ngô, đậu tương… khi giảm thuế nhập khẩu và bỏ các rào cản phi thuế sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với hàng nông sản nhập khẩu. - Mặc dù nước ta đã đạt được khá nhiều thành tựu về nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, nhưng do quy mô sản xuất quá nhỏ bé (bình quân cả nước là 0,8 ha đất nông nghiệp/hộ gia đình) nên năng suất lao động rất thấp. Thu nhập của hộ gia đình nông dân thấp dẫn đến nông dân không có vốn tái đầu tư mở rộng và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Chất lượng nông sản hàng hoá nhìn chung còn thấp và không đồng đều cũng là một thách thức rất lớn đối với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. - Song song với quá trình đàm phán gia nhập WTO, nước ta cũng đang tham gia tích cực vào quá trình tự do hoá thương mại khu vực như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (AC-FTA) v.v… Các cam kết về mở cửa thị trường trong nước sẽ đem lại nhiều thách thức cho nông lâm sản nói chung, nhất là đối với ngành hàng có khả năng cạnh tranh yếu như ngành chăn nuôi (thịt, trứng, sữa), mía đường, ngô, bông vv… Kể cả trong những ngành hàng có khả năng cạnh tranh khá thì cũng có nhiều doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ triền miên. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với ngành nông nghiệp. Như đã đề cập ở trên, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, từ chỗ là một nước thiếu đói triền miên, Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu trong khu vực về xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp như: gạo, cà phê, chè, hồ tiêu cao su...Đứng trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành nông nghiệp cũng đang tích cực triển khai thực hiện đường lối đổi mới phù hợp với quá trình hội nhập chung của đất nước. Xuất phát từ nhu cầu trên, cần thiết phải có các nghiên cứu, đề tài về vấn đề thực hiện Hiệp định này, làm thế nào có thể hài hoà các chính sách, luật pháp trong nông nghiệp với các quy định của Hiệp định theo hướng có lợi cho Việt Nam, làm thế nào để điều tiết nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam đem lại nhiều lợi ích hơn cho nông dân, và các giải pháp đưa ra nhằm giúp cho các nhà làm chính sách luật pháp tham khảo và áp dụng, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)" về cơ bản sẽ góp phần giải quyết được vấn đề này. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài Cung cấp các khái niệm cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác động của quá trình này đối với lĩnh vực nông nghiệp. Nghiên cứu các nội dung chính của hiệp định nông nghiệp WTO và việc thực hiện hiệp định này. 3. Nghiên cứu chính sách pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định này và đưa ra một số định hướng chính sách xây dựng pháp luật nông nghiệp Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Hợp tác kinh tế quốc tế là một khái niệm rộng, do đó đề tài chỉ giải quyết các vấn đề về: Khái niệm cơ bản của quá trình hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp Áp dụng, thực hiện Hiệp định nông nghiệp. 3. Chính sách, pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong thực hiện, áp dụng Hiệp định này và các giải pháp. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện dựa trên một số tài liệu tham khảo của các Bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, Đại học Quốc gia Hà Nội…, đồng thời trong quá trình nghiên cứu, hệ thống pháp luật quốc gia về lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, về chính sách pháp luật nông nghiệp nói riêng đã được sử dụng theo phương pháp thông kê, phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những nhận xét cụ thể về từng lĩnh vực. Dựa trên những tài liệu có được từ việc thông kê, những nhận định từ việc phân tích, tổng hợp, và thực tế của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số khuyến nghị về việc xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp cho phù hợp với các quy định trong Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). 4. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về nông nghiệp trong Tổ chức thương mại thế giới WTO. Chương 2: Hiệp định nông nghiệp và việc thực thi tại một số nước. Chương 3: Thực trạng bảo hộ nông nghiệp Việt Nam, định hướng chính sách xây dựng pháp luật nông nghiệp trong khuôn khổ WTO. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÔNG NGHIỆP TRONG TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO 1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI, HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA WTO 1.1.1. WTO có nguồn gốc từ sự ra đời của GATT WTO ra đời dựa trên sự kế thừa GATT và tiếp tục phát triển ở mức cao hơn với hàng loạt các quy định mới và tiên tiến hơn [15]. Sau hơn 8 năm đàm phán, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh, các Bộ trưởng đại diện cho tất cả các bên ký hiệp định chung về thuế quan và thương mại - gọi tắt là GATT 1947, đã nhất trí ký kết văn kiện cuối cùng với 500 trang văn bản và 26.000 trang danh mục, cam kết thừa nhận kết quả của vòng đàm phán Urugoay. Đó là Hiệp định thành lập WTO. WTO chính thức hoạt động từ ngày 1/1/1995 [17]. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với nhiều tàn dư nặng nề đề lại cho nền kinh tế - thương mại của các nước trên thế giới, để khắc phục hậu quả chiến tranh, các nước đã có sáng kiến về việc tạo ra cơ chế hợp tác đa phương, nhằm kết hợp và phát huy tối đa các nguồn lực, cũng như khả năng của các nước trong những vấn đề đòi hỏi có sự hợp tác chung của các quốc gia. Ý tưởng ban đầu là các nước muốn thành lập một tổ chức thương mại quốc tế (ITO) làm cột trụ thứ ba trong hệ thống "Bretton Wood" cùng với hai thiết chế tài chính khác là Ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Hơn 50 nước tham dự hội nghị của Ủy ban kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc vào tháng 6/1946 đã đề ra Dự thảo Hiến chương ITO bao trùm không chỉ các nguyên tắc thương mại mà còn cả những lĩnh vực khác như lao động, thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Ngay trước khi Hiến chương này được phê chuẩn, 23 trong số 50 nước trên vào năm 1947 đã quyết định cùng đàm phán để cắt giảm hàng rào thuế quan, nhằm nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch và điều chỉnh lại những biện pháp bảo hộ được duy trì từ đầu những năm 1930. Kết quả của vòng đàm phán đầu tiên này là 45.000 nhượng bộ về thuế quan ảnh hưởng đến thương mại trị giá 10 tỷ USD, tức là gần 1/5 tổng thương mại trên toàn thế giới. Tổng hợp những quy định và cam kết đã thoả thuận được đưa vào một văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị ràng buộc đối với các nước. Văn kiện pháp lý đó chính là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). GATT đã được 23 nước chính thức ký vào ngày 23/10/1947 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1948, trong khi Hiến chương của ITO vẫn đang được các nước đàm phán. 23 nước ký GATT sau này đã trở thành những thành viên sáng lập của WTO, vì GATT không phải là một tổ chức mà chỉ là một Hiệp định, nên các nước lúc đó tham gia GATT được gọi là các bên ký kết (Contracting parties) [17]. Mặc dầu, ITO cuối cùng được thông qua tại Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và làm việc tại Havana tháng 3/1948, Quốc hội một số nước, đặc biệt là Quốc hội Mỹ đã không thông qua Hiến chương này, và vì vậy, tổ chức ITO đã không tồn tại. GATT, mặc dù chỉ mang tính tạm thời đã trở thành công cụ pháp lý duy nhất mang tính đa biên, điều tiết thương mại thế giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1945. Đặc điểm nổi bật của GATT: Trải qua 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán. Nội dung chủ yếu của các vòng đàm phán là vấn đề thuế. Ở 6 vòng đầu, giảm thuế là vòng đàm phán duy nhất, sở dĩ như vậy là do thuế là công cụ trực tiếp nhất để nhà nước tác động lên hoạt động trao đổi thương mại với bên ngoài, là rào cản đáng kể nhất đối với tiến trình tự do hoá và ổn định môi trường thương mại quốc tế. Nội dung của các vòng đàm phán này có thể tóm tắt được như sau [17]: Các vòng đàm phán của GATT Năm Địa điểm Số quốc gia Hạng mục giảm thuế Các kết quả khác 1947 Geneve 23 45.000 Ảnh h­ëng ®Õn 10 tØ USD hµng ho¸ bu«n b¸n, b»ng 1/5 gi¸ trÞ th­¬ng m¹i thÕ giíi 1949 Annecy 32 5.000 ThuÕ suÊt gi¶m trung b×nh 35%, sè hµng ®­îc gi¶m thuÕ chiÕm 5,6% gi¸ trÞ hµng ho¸ bu«n b¸n cña thÕ giíi 1950-1951 Torquay 38 8.700 ThuÕ suÊt gi¶m trung b×nh 26% 1956 Geneve 26 3.000 ThuÕ suÊt gi¶m trung b×nh 15%, ¶nh h­ëng tíi 2,5 tØ USD kim ng¹ch th­¬ng m¹i thÕ giíi 1960-1961 Geneve (vòng Dillon) 26 4.400 ThuÕ suÊt gi¶m trung b×nh 20%, ¶nh h­ëng tíi 4,5 tØ USD kim ng¹ch th­¬ng m¹i thÕ giíi 1964-1967 Geneve (vòng Kennedy) 62 30.300 Gi¶m trung b×nh 35%, ¶nh h­ëng tíi 40 tØ USD kim ng¹ch th­¬ng m¹i thÕ giíi 1973-1979 Geneve (vòng Tokyo) 102 33.000 ThuÕ suÊt b×nh qu©n s¶n phÈm chÕ biÕn gi¶m xuèng cßn 4,7% (so víi møc 40% khi thµnh lËp GATT) 1986-1994 Geneve (vòng Urugoay) 123 C¸c n­íc ph¸t triÓn ®­a sè h¹ng môc hµng ho¸ cam kÕt gi¶m thuÕ tõ 78% lªn 99%, c¸c n­íc ®ang ph¸t triÓn: tõ 21% lªn 73% Nguồn: Tài liệu Ban Thư ký WTO chuẩn bị cho chương trình đào tạo về WTO ở các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (4/1997). Qua bảng có thể thấy, tại 2 vòng đàm phán sau này do sự hình thành của các nước đang phát triển và cũng với mong muốn phát triển thương mại quốc tế, nhiều nước đang phát triển đã gia nhập GATT, nâng số lượng GATT lên 102 (năm 1979) và 123 nước (1994), các nước đang phát triển với tư cách là các nước tham gia GATT, cũng đã cam kết đưa hạng mục hàng hoá cam kết giảm thuế từ 21-73%. Tại Vòng đàm phán Tokyo, (1973-1979), do tình hình thương mại thế giới có nhiều thay đổi, nên một số lĩnh vực mới được bổ sung và đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán tại vòng Tokyo rồi tiếp đến là vòng Urugoay diễn ra trong bối cảnh của các cuộc khủng hoảng, khủng hoảng chu kỳ gắn liền hoặc liên tiếp xen kẽ khủng hoảng cơ cấu, đưa nền kinh tế vào suy thoái trầm trọng. Trong tình hình khó khăn như vậy, xung đột thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn trở nên gay gắt, rồi bùng nổ dưới hình thức các cuộc chiến tranh thương mại nhằm tranh dành những khoản lợi nhuận đang càng trở nên khan hiếm. Các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh và các hàng rào phi thuế được dựng lên để bảo hộ thị trường trong nước làm cho thương mại quốc tế xấu đi trông thấy. Tình hình đó đặt ra cho các thành viên của GATT yêu cầu khách quan là phải đưa những vấn đề liên quan đến phi thuế vào thương lượng để tìm ra các lợi ích dung hoà cho nhau [17]. Bởi vậy, tại vòng đàm phán thứ 7, vòng Tokyo, với nỗ lực đầu tiên nhằm cải tổ hệ thống, các nước đã đưa ra một loạt các Hiệp định mới với hệ thống quy tắc về hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp chỉ có một số ít các thành viên của GATT (chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển) tham gia vào các hiệp định này. Cho đến vòng đàm phán Urugoay, một số Hiệp định đã được điều chỉnh lại và trở thành các cam kết mang tính nhiều bên. Đó là các Hiệp định về mua sắm chính phủ, về thịt bò, về sản phẩm sữa và về máy bay dân dụng. Các hệ thống quy tắc của vòng WTO Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Điều 6, 16 và 23) Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại Các thủ tục cấp phép nhập khẩu Mua sắm chính phủ Định giá hải quan Chống phá giá Thoả thuận về sản phẩm thịt bò Thoả thuận về các sản phẩm sữa quốc tế Thoả thuận về mua bán máy bay dân dụng Nguồn: Đại học Melbourne, Luật Quốc tế - Chương 7, tr. 7. Tiếp tục phát huy các thành tựu đó, vòng đàm phán cuối cùng trong khuôn khổ hiệp định GATT, vòng Urugoay đã đem đến một bước tiến dài trong nỗ lực của các nước, nhằm cải tổ và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Phạm vi các vấn đề thuộc chương trình nghị sự này rất lớn, bao trùm tới 15 lĩnh vực khác nhau của thương mại quốc tế. Và đặc biệt hơn, chúng mang tính cả gói, theo đó các nước thoả thuận rằng, nếu việc đàm phán trong một lĩnh vực nào đó bị thất bại thì kết quả của tất cả các cuộc đàm phán khác cũng sẽ bị huỷ bỏ. Điều này thể hiện quyết tâm của các nước là muốn đi đến cùng trong việc thương lượng về những lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm như nông sản và hàng vải sợi may mặc, dù biết trước là sẽ có khó khăn. Với phạm vi chương trình Nghị sự rộng lớn như vậy, việc nảy sinh rất nhiều các mâu thuẫn giữa các bên trong quá trình đàm phán là tất yếu. Để giàn xếp những bất đồng đó, các nước tham gia GATT đã mất gần 8 năm. Trong thời gian đó, các nước đã phải lần lượt tháo gỡ những điểm khúc mắc nghiêm trọng nhất như thương mại nông sản, thương mại dịch vụ, các quy tắc chống bán phá giá và việc thành lập một tổ chức mới. Kết quả là vòng đàm phán có quy mô lớn nhất lịch sử thương mại thế giới này cũng kết thúc thắng lợi, với 28 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan đến hầu hết các khía cạnh pháp lý của lĩnh vực thương mại và đặc biệt WTO đã ra đời. Tuy nhiên ghi nhận lại kết quả của 8 vòng đàm phán đều có những khó khăn trong tự do hoá thương mại. Những kết quả của 8 vòng đàm phán cũng là những nội dung mà WTO phải điều chỉnh [17]. Chủ đề đàm phán tại vòng Urugoay Thuế quan Hàng rào phi thuế quan Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên Hàng dệt may Nông sản Sản phẩm nhiệt đới Các điều khoản của GATT Các hệ thống quy định của vòng đàm phán Tokyo Chống phá giá Trợ cấp Sở hữu trí tuệ Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Giải quyết tranh chấp Thương mại dịch vụ Thế chế hoá hệ thống hợp tác thương mại toàn cầu 1.1.2. Sự khác nhau giữa GATT và WTO Từ GATT đến WTO là một bước tiến dài của xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền thương mại thế giới do đó, WTO không phải là sự thay thế giản đơn của GATT mà là sự kế thừa và hoàn thiện ở một trình độ cao hơn, có sự biến đổi về chất. Sự khác biệt giữa hai hệ thống này có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất: Sự biến đổi về chất trong mục tiêu hoạt động của WTO. Như đã nêu ở những dòng đầu tiên của Hiệp định thành lập, WTO sẽ kế thừa tôn chỉ mục đích của GATT đó là "nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ công ăn việc làm, thúc đẩy tăng thu nhập thực tế và nhu cầu thực sự của người dân, mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tận dụng được các nguồn tài nguyên của thế giới sao cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng bền vững và cuối cùng là bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế". Hơn thế nữa, WTO còn phát triển ở mức cao hơn bằng việc đưa vào phương hướng hành động của mình những điểm rất tiến bộ mà trước đây GATT chưa chính thức tuyên bố, đó là "nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nhất duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển của quốc gia đó. Đây là những thành tựu đặc biệt có ý nghĩa là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của các quốc gia nhỏ và yếu thuộc thế giới thứ ba trong việc xây dựng từng bước một "Trật tự kinh tế thế giới mới-New World Order" dân chủ và công bằng hơn, đảm bảo quyền lợi cho những nước đang phát triển [17]. Thứ hai: GATT chỉ là tập hợp các nguyên tắc được thực hiện bởi các bên ký kết hoặc có thể được sửa đổi để hoạt động như một tổ chức nếu tổ chức đó ra đời. Trong khi đó, WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. Với tư cách là một tổ chức quốc tế, WTO có nền tảng vững chắc bởi vì muốn gia nhập WTO, các thành viên phải thông qua cả gói Hiệp định, hàm chứa các nguyên tắc vừa có tính thể chế, vừa có tính cụ thể tạo thành một cơ chế pháp lý đặc thù của WTO và chính các cơ chế pháp lý này đã quy định phương thức vận hành, hoạt động và phát triển của tồ chức này. Thứ ba: WTO là một tổ chức chặt chẽ có các nước thành viên (members) còn GATT chỉ có các bên ký kết tham gia (contracting parties). WTO có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa WTO có các quyền, nghĩa vụ và năng lực pháp lý đầy đủ khi tham gia vào các mối quan hệ pháp lý thương mại quốc tế. Thứ tư: GATT chỉ giải quyết các vấn đề của thương mại hàng hoá, còn lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO rộng hơn nhiều, bao gồm cả thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong đầu tư. Thứ năm: cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, về mặt pháp lý mang tính chặt chẽ, tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT, do vậy mà giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Các phán quyết của WTO cũng có giá trị hiệu lực cao hơn và việc thi hành được đảm bảo hơn. Tóm lại, sự khác nhau cơ bản giữa GATT và WTO chính là tính hoàn thiện của hệ thống pháp lý hàm chứa trong WTO nhằm điều chỉnh thương mại trong phạm vi toàn cầu. GATT mang tính chất là những thoả thuận tự nguyện giữa các quốc gia, còn WTO là thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại thế giới với mục tiêu là thiết lập cơ chế pháp lý, ở quy mô toàn cầu, cho lĩnh vực thương mại quốc tế, trong đó có những ràng buộc liên quan đến trách nhiệm và cả việc xử lý vi phạm của các nước thành viên WTO. 1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ các nguyên tắc cơ bản của WTO Nhiệm vụ của WTO là từng bước xây dựng một môi trường thương mại thế giới tự do và lành mạnh, tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động thương mại phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng và thịnh vượng chung của kinh tế toàn cầu. Đồng thời phối hợp với các tổ chức quốc tế khác thúc đẩy nhanh hơn quá trình tự do hoá thương mại và hội nhập toàn diện của nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ này, WTO có 6 chức năng sau [15]: Tổ chức các cuộc đàm phán đa biên. Xây dựng mới, sửa đổi các nguyên tắc, quy tắc pháp lý quốc tế Giải quyết các tranh chấp về thương mại quốc tế. Đánh giá định kỳ về chính sách thương mại của các nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường. Giám sát việc thực hiện các Hiệp định đa phương của WTO. Phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong việc tham gia hoạch định những chính sách thương mại toàn cầu. Sáu chức năng này cũng đã được quy định rất rõ tại Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO. Các nguyên tắc cơ bản của WTO WTO hoạt động và vận hành theo 6 nguyên tắc cơ bản sau đây: Nguyên tắc không phân biệt đối xử Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO kế thừa từ GATT. Nguyên tắc này sử dụng hai công cụ pháp lý song song để điều chỉnh mối quan hệ thương mại giữa các thành viên là chế độ Đãi ngộ tối hệ quốc (MFN) và chế độ đãi ngộ quốc gia (NT). Nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành, ngay lập tức và không điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ hay nhà đầu tư của các nước thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà mỗi nước thành viên đó đã dành cho hàng hoá, dịch vụ có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước thành viên nào khác. Nói cách khác, chế độ này dẫn đến kết quả là hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên được đãi ngộ như nhau trên thị trường tất cả các thành viên khác của WTO. Chế độ MFN là chế độ pháp lý quốc tế hướng vào mục tiêu tạo sự bình đẳng giữa tất cả các nước thành viên của WTtO trong thương mại quốc tế. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT) Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành cho hàng hoá, dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, nhà đầu tư… của các nước thành viên khác sự đãi ngộ trên thị trường nội địa nước mình (tức là không có những quy định bảo hộ đối với sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu so với dịch vụ, sản phẩm của nước xuất khẩu) sau khi hàng đã được nhập khẩu, không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ đã được dành cho hàng hoá, dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, hay nhà đầu tư …của chính nước mình. Nếu như chế độ MFN hướng về sự không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của một thành viên của WTO với hàng hoá, dịch vụ …của tất cả các thành viên khác của WTO thì chế độ NT hướng về sự không phân biệt đối xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu … Nguyên tắc tự do hoá thương mại Tất cả các nước, kể cả nước nghèo nhất đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế vì mỗi nước đều có lợi thế so sánh tương đối trong việc sản xuất một số loại hàng hoá, dịch vụ. Đó chính là thuyết lợi thế so sánh do nhà kinh tế học Keynes tìm ra từ thế kỷ 19 nền tảng cơ bản của kinh tế học hiện đại. WTO phát triển tư tưởng này lên, không chỉ khuyến khích tham gia mà còn tìm cách tối đa hoá hiệu quả của việc tham gia này thông qua tự do hoá thương mại. Để tự do hoá thương mại, Chính phủ các nước có thể sử dụng thuế quan để làm công cụ bảo hộ thị trường trong nước, nhưng đòi hỏi phải cắt giảm các hàng rào thuế quan theo một khuôn khổ đã quy định tại GATT 1994 và họ cũng cần xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu, ấn định hạn ngạch hoặc các chính sách đối ngoại hỗ trợ xuất khẩu… Nguyên tắc cạnh tranh Trên thương trường, các yếu tố nội tại của hàng hoá là điều kiện quyết định khả năng và sức sống của nó. Cơ chế cạnh tranh cho phép nhà sản xuất có được đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất, với giá cạnh tranh, người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm giá thấp nhất, qua đó nâng cao đời sống nhân dân và nền sản xuất phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. WTO có định chế điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá hay đánh thuế đối kháng nhằm triệt tiêu tác dụng của việc hàng hoá bị bán phá giá hay được trợ cấp trực tiếp nhằm mục đích hoặc có tác dụng cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên để tránh những sự thực hành thương mại không lành mạnh, cá lớn nuốc cá bé qua bán phá giá và trợ cấp hoặc ngược lại lạm dụng các quy định chống bán phá giá và thuế đối kháng để gây trở ngại trá hình cho thương mại, WTO đã thoả thuận về những quy tắc chặt chẽ điều chỉnh lĩnh vực này. Nguyên tắc công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng Các nước được khuyến khích công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng. Có nghĩa là khi doanh nghiệp chứng minh được hàng hoá, dịch vụ họ đạt được những tiêu chuẩn nội địa tương đương với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu thì nước này phải chấp nhận hàng hoá, dịch vụ đó. Tuy nhiên WTO vẫn cho phép các nước được đưa ra những nguyên tắc riêng của mình với điều kiện những nguyên tắc đó phải: Dựa trên cơ sở khoa học, không được gây cản trở lớn cho hoạt động thương mại và không được phân biệt đối xử. Nguyên tắc minh bạch hoá chính sách Để thuận lợi hoá cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương mại, c._.ác nước thành viên phải thực hiện minh bạch hoá chính sách. WTO yêu cầu các nước thành viên phải thiết lập những đầu mối cung cấp thông tin ở hai cấp: Chính phủ và doanh nghiệp. Các đầu mối ở cấp chính phủ đưa ra thông tin về luật lệ, quy tắc điều chỉnh thương mại. Các đầu mối ở cấp doanh nghiệp trực tiếp liên lạc với các nhà kinh doanh, cho họ biết về những khía cạnh thương mại và kỹ thuật trong việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, tình hình thị trường, các yêu cầu về chất lượng cần có…khi thực thi các biện pháp có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại. Các chính phủ phải thông báo công khai ở trong nước và ngoài nước. Nguyên tắc khuyến khích cải cách hội nhập Mục tiêu của WTO là đem lại sự phát triển kinh tế cho các nước thành viên. Tuy nhiên nếu tất cả các nước đều tiến hành mở cửa thị trường, cho phép tự do cạnh tranh ngay thì kết quả tất yếu sẽ là sự sụp đổ của các nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy, với các nước đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển cần có sự bảo hộ hợp lý và WTO đưa ra những quy định ưu đãi đáng kể đối với những nước này. Ví dụ miễn giảm bớt nghĩa vụ trong việc thực hiện TRIMS, TRIPS và GATS, thu hẹp phạm vi thực hiện các thoả thuận về thuế quan, được phép áp dụng nguyên tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm, cho phép áp dụng dài hơn; được phép giới hạn hàng nhập khẩu; đưa ra tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu với từng nước. 1.2 LỊCH SỬ RA ĐỜI HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP TRONG WTO 1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng và gây ra nhiều tranh cãi trong vòng đàm phán Uruguay. Trong lĩnh vực tồn tại ba quan điểm của ba nhóm nước gồm nhóm các nước xuất khẩu, nhóm các nước nhập khẩu và nhóm trung gian là những nước tự túc được lương thực và tuỳ theo từng hoàn cảnh có thể trở thành nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một loại nông sản nhất định. Hàng nông sản trong phần này tập trung vào bốn nhóm chính: ngũ cốc gồm lúa mạch, mỳ, gạo, hạt thô (ngô); hạt có dầu và sản phẩm từ hạt có dầu; sữa và các sản phẩm của sữa; thịt và các sản phẩm thịt; và đường. Đây cũng là những mặt hàng nông sản có khối lượng thương mại lớn trên thế giới. Hầu hết các nước đang phát triển đều thuộc nhóm nước nhập khẩu nông sản hoặc thuộc nhóm thứ ba là những nước tự túc được lương thực và tham gia xuất khẩu một vài mặt hàng nông sản nhất định. Có rất ít các nước đang phát triển là nước xuất khẩu chính tất cả 4 nhóm hàng nông sản trên. Mặc dù ít nước đang phát triển có thể là những nước xuất khẩu chính về tất cả bốn nhóm hàng nông sản nói trên, những mặt hàng nông sản có thế mạnh của từng nước đang phát triển được xuất khẩu đều là những mặt hàng có tính sống còn với họ [8]. Những nhân tố chính thúc đẩy đàm phán Hiệp định nông nghiệp Gánh nặng tài chính ngày càng gia tăng đối với các chính sách hỗ trợ nông nghiệp ở các nước phát triển khiến nước này muốn thúc đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện Hiệp định nông nghiệp. Cung vượt quá cầu trong nông nghiệp đã làm cho giá cả nông sản trên thế giới sụt giảm, gây sức ép ngày càng lớn với việc tăng cường sự hỗ trợ trong nước cho nông dân các nước phát triển [2]. Về cầu: Có bốn yếu tố chính cần phải tính đến gồm: tốc độ tăng dân số, mức độ mà các nước có thể tự túc sản xuất được lương thực, mức sống của người dân thể hiện qua thu nhập và điều kiện khí hậu tự nhiên. Tốc độ tăng dân số cao, thu nhập đầu người thấp cộng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt sẽ khiến một quốc gia không thể tự túc được lương thực và buộc phải nhập khẩu và ngược lại. Đối với thị trường nhập khẩu của các nước phát triển, nếu xét theo trên cả bốn yếu tố trên sẽ thấy thị trường nhập khẩu nông sản của những nước này có xu hướng giảm. Theo lý thuyết của các nước phát triển, yếu tố thu nhập có ảnh hưởng nhiều hơn tới mức cầu trong nước, hay còn gọi là quy luật biến đổi theo thu nhập. Những biến động trước mắt về thu nhập sẽ khiến cầu biến động theo một cách tương đối. Tuy nhiên, trong lâu dài thì quy luật này không có tác dụng. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là đối với các nông sản như lương thực, đồ uống và đặc biệt nông sản thô thì dù thu nhập của dân chúng có tăng lên đáng kể thì mức cầu cũng không tăng nhanh và thâm chí còn chậm hơn thu nhập. Thêm vào đó, nhờ các yếu tố kỹ thuật tiên tiến, các nước phát triển có thể có những sản phẩm thay thế làm giảm thêm nữa lượng cầu về nông sản thô từ các nước đang phát triển. Do đó, nhìn chung nhu cầu nhập khẩu của các nước đang phát triển về nông sản có xu hướng tăng chậm nếu xét theo các yếu tố trên. Ngược lại, đối với thị trường nhập khẩu của các nước đang phát triển, nếu xét trên bốn yếu tố này sẽ thấy trong thời gian tới họ vẫn sẽ là nước nhập khẩu nông sản chính, đặc biệt nếu xét theo góc độ tăng trưởng dân số. Với tốc độ tăng trưởng dân số nhanh hơn tốc độ sản xuất thì ngay cả các nước đang phát triển xuất khẩu lương thực hiện nay như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và thậm chí là Việt Nam trong mười năm tới sẽ biến thành các nước nhập khẩu lương thực [2]. Về cung: Hai yếu tố chính ảnh hưởng tới cung trong nông nghiệp là chính sách nông nghiệp và khoa học kỹ thuật. Cả hai yếu tố này đều quan trọng như nhau và các nước phát triển đều có đủ hai yếu tố này. Nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, cộng với chính sách hỗ trợ nội địa và trợ cấp xuất khẩu, các nước phát triển từ chỗ là các nước nhập khẩu lương thực đã nhanh chóng trở thành các nước xuất khẩu lương thực. Tuy nhiên, do lượng cầu trong nước không lớn nhưng lại có lượng cung lớn nên buộc các nước phát triển phải xuất khẩu nông sản và một phần được xuất khẩu theo hình thức viện trợ lương thực sang các nước đang phát triển. Lượng cung trên thế giới lại càng lớn khi số lượng các nước đang phát triển tham gia xuất khẩu nông nghiệp ngày càng tăng dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong lĩnh vực nông nghiệp và giá nông sản nhìn chung sụt giảm nhanh chóng. Để đáp ứng với sự sụt giá nông sản, các nước phát triển ngày càng phải tăng sự hỗ trợ cho nông dân trong nước và đến lúc sự hỗ trợ này trở thành gánh nặng đối với họ. Hơn nữa, về thực chất, gánh nặng tài chính này phần lớn lại đổ lên vai người tiêu dùng của chính các nước phát triển do phải trả giá tiêu thụ cao hơn nhiều so với giá thế giới. Vì vậy, làn sóng phản đối chính sách bảo hộ nông nghiệp cũng gia tăng ở các nước phát triển [2]. Một yếu tố khác thúc đẩy quá trình đàm phán Hiệp định về nông nghiệp cũng cần phải nhắc đến là sự gia tăng của các nước đang phát triển trong suất khẩu nông sản. Sự phát triển này, cộng thêm với sự bất mãn vốn có của các nước đang phát triển về sự bất lực của GATT trong lĩnh vực nông nghiệp đã tạo ra sức ép mạnh mẽ buộc các nước phát triển phải mở cửa lĩnh vực nông nghiệp. Những vấn đề trong vòng đàm phán Uruguay Xuất phát từ thực tế là quy luật cung cầu trong thương mại nông nghiệp đã bị bóp méo trong suốt thời gian tồn tại của GATT, những vấn đề chính đặt ra đối với lĩnh vực nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay gồm: - Sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp cộng với sự chênh lệch lớn về giá cả giữa thị trường thế giới và trong nước. - Chủ nghĩa bảo hộ thông qua các chính sách hỗ trợ nội địa và trợ cấp xuất khẩu và những tác động tiêu cực của nó đối với các nước đang phát triển. - Sự thiếu hiệu quả của GATT và phản ứng của các nước đối với việc mở của thị trường nông nghiệp. - Gánh nặng tài chính ngày càng tăng đối với các nước phát triển trong các chính sách hỗ trợ nông nghiệp khiến các nước này muốn thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán nông nghiệp. Quan điểm của các nhóm nước trong vòng đàm phán Uruguay EU phản ứng tiêu cực với việc tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp và cho rằng nguyên nhân của các vấn đề trên chính là sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật chứ không phải do chính sách hỗ trợ của chính phủ. Sự gia tăng nhanh chóng của sản lượng nông sản khiến cung vượt quá cầu đi đôi với sự phát triển vượt bậc của sinh học trong việc tạo ra những giống vật nuôi và cây trồng mới và đã tăng cường khả năng tự cung, tự cấp của các quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, thương mại trong nông nghiệp không những sẽ bị hạn chế như hiện nay mà còn tiếp tục bị hạn chế trong tương lai do lượng cung tiếp tục tăng. Thậm chí không có sự hỗ trợ của nhà nước, khoa học kỹ thuật sẽ tiếp tục làm cho sản lượng nông nghiệp tăng vọt trong tương lai. EU đề nghị quá trình tự do hoá trong nông nghiệp phải được tiến hàng theo giai đoạn và tuỳ theo thị trường của từng loại nông sản khác nhau. Tại hội nghị bộ trưởng Brussel tháng 12/1990. EU nhận ra rằng nếu không có sự nhân nhượng với những nước đòi tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp thì khó có thể đi đến một Hiệp định cụ thể. Tuy nhiên, nếu EU nhân nhượng trước khi cải tổ chương trình nông nghiệp chung (CAP) của mình thì sẽ vấp phải sự phản kháng trong nội bộ. Do đó, EU quyết định sẽ cải tổ phần nào CAP từ năm 1991 trước khi đi đến nhân nhượng cụ thể [24]. Mỹ và nhóm Cairns: ủng hộ đẩy mạnh tự do hoá trong nông nghiệp và cho rằng các chính sách như hỗ trợ nội địa, trợ cấp xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những nguyên nhân chính bóp méo thương mại, gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu trong nông nghiệp. Mỹ đề nghị xoá toàn bộ trợ cấp nông nghiệp và các chính sách nhập khẩu trong vòng 10 năm, đồng thời hoà hợp các tiêu chuẩn sức khoẻ và vệ sinh dịch tễ [24]. Các nước đang phát triển nhập khẩu nông sản cho rằng cung vượt quá cầu chỉ xảy ra đối với một số nông sản ở một số nước phát triển. Xét trên toàn cầu, cung vẫn thấp hơn cầu. Trong một vài trường hợp, do các chính sách trong nước, đặc biệt ở các nước phát triển đã khiến những nước này nhanh chóng biến thành các nước xuất khẩu nông sản lớn. Tuy nhiên, vấn đề chính trên thế giới đối với thương mại trong nông nghiệp là sức mua không đủ và sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ trên phạm vi toàn cầu. Những nước này khuyến nghị việc tự do hoá thương mại nông nghiệp phải tính đến lợi ích phát triển của những nước nghèo như tăng thu nhập, việc làm, bảo đảm an toàn lương thực không để xẩy ra các hậu quả chính trị, xã hội. Trong quá trình tự do hoá cần có sự hỗ trợ thêm từ các nước phát triển đối với các nước đang phát triển, ví dụ phải có những ưu đãi nhất định trong thực hiện các cam kết, bảo lưu các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ nội địa vì đối với một số nước đang phát triển nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của đất nước. Do những quan điểm mâu thuẫn nhau, nên vòng đàm phán Uruguay về nông nghiệp tiến triển chậm chạp. Đặc biệt cuộc cải tổ CAP của EU không đạt được nhiều kết quả khả quan để tạo động lực thúc đẩy quá trình đàm phán tiếp theo. Trước tình hình đó, giám đốc của GATT đã dự thảo một Hiệp định về nông nghiệp, bao hàm những điều khoản nhân nhượng của các bên. Theo dự thảo, quá trình tự do hoá trong nông nghiệp được thúc đẩy mạnh hơn với nhiều ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển trong nhiều lĩnh vực. Mỹ và nhóm Cairns tuyên bố chấp nhận dự thảo này trong khi EU phản đối mạnh mẽ, đặc biệt là Pháp, và cho rằng nó sẽ đe doạ phá hoại lợi ích của EU. Ngày 20-11-1992, một dự thảo khác được soạn thảo được gọi là dự thảo Blair house, Dự thảo này có phần thiên về các đòi hỏi của EU và được EU chấp nhận trong khi Mỹ và nhóm Cainrs không hài lòng lắm. Hiệp định nông nghiệp được thông qua với phần lớn nội dung lấy từ dự thảo Blair house. 1.2.2. Các yêu cầu của WTO liên quan đến nông nghiệp Các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp Hiệp định nông nghiệp. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật. Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Nông nghiệp là lĩnh vực rất nhạy cảm trong quan hệ thương mại thế giới. Sau 8 năm đàm phán tại vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định Nông nghiệp đã được ký kết (1994). Hiệp định nông nghiệp đã tăng cường các luật lệ và các quy định điều chỉnh chính sách nông nghiệp theo ba nội dung chính như sau: Mở cửa thị trường: Thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế và cam kết thuế, coi thuế là biện pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước [4]. Trợ cấp trong nước: Tất cả các thành viên kê khai mức độ trợ cấp của chính phủ đối với sản xuất nông nghiệp. Các chính sách thuộc diện đầu tư phát triển, không mang tính bóp méo thương mại (nghiên cứu khoa học, đào tạo, khuyến nông, cơ sở hạ tầng…) được khuyến khích áp dụng. Các hình thức trợ cấp làm bóp méo thương mại phải cam kết cắt giảm nếu vượt quá mức cho phép (mỗi mặt hàng không được vượt quá 5% đối với nước phát triển và 10% đối với các nước đang phát triển giá trị của mặt hàng đó) [4]. Trợ cấp xuất khẩu: Hiệp định quy định các nước không trợ cấp xuất khẩu. Đối với hiện đang trợ cấp xuất khẩu lớn sẽ phải cam kết cắt giảm cả về khối lượng và giá trị trợ cấp (36% về giá trị và 21% về khối lượng các mặt hàng được nhận trợ cấp xuất khẩu) [4]. Đối với các đang đàm phán WTO như Việt Nam, phải thực hiện đàm phán với các nước thành viên cả ba lĩnh vực trên để đổi lại được hưởng quy chế ưu đãi của họ, các nước thành viên WTO thường yêu cầu nước muốn gia nhập phải cam kết các điều kiện ngặt nghèo hơn nhiều so với các nước đã là thành viên của WTO. Bên cạnh Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam cũng phải cam kết thực hiện hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định về các biện pháp kỹ thuật trong thương mại [4]. Nội dung Hiệp định kiểm dịch động thực vật bao gồm: Luật, pháp lệnh, điều lệ, quy định về công tác thú y và bảo vệ thực vật, các thủ tục, quy trình kiểm nghiệm, kiểm tra, đánh giá dịch hại, chứng nhận phê chuẩn, các biện pháp cách ly, xử lý và các quy định về phương pháp thống kê, bao bì, đánh dấu... Vì vậy, việc áp dụng SPS là một qúa trình xây dựng một hệ thống văn bản pháp lý, chuẩn bị đội ngũ cán bộ được đào tạo với một cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của công tác kiểm dịch động thực vật từ trung ương đến địa phương. Các nước đang phát triển chung và Việt Nam nói riêng đều gặp các khó khăn trong việc tuân thủ các biện pháp kiểm dịch động thực vật như quy định tại Hiệp định này, nhất là khâu đánh giá tình hình dịch bệnh trong cả nước để đề ra các tiêu chuẩn SPS phù hợp và khoa học. Vì vậy, Việt Nam đang phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kiểm dịch trong nước cũng như tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế để tạo thuận lợi cho thương mại hàng nông sản. 1.2.3. Vai trò của Hiệp định nông nghiệp Như đã đề cập, Hiệp định nông nghiệp của tổ chức thương mại thế giới WTO được các quốc gia đàm phán trong vòng đàm phán Uruguay từ năm 1986-1994 và đây là bước quan trọng tiến tới sự cạnh tranh lành mạnh hơn cũng như ít bóp méo hơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Hiệp định bao gồm cam kết từ phía các nước thành viên WTO nhằm cải thiện việc tiếp cận thị trường và cắt giảm những hình thức trợ cấp bóp méo thương mại nông sản. Những quy định trong Hiệp định được thực hiện bắt đầu từ năm 1995. Hiệp định nông nghiệp có một số vai trò sau: - Điều chỉnh một trong những vấn đề quan trọng nhất của kinh tế thế giới, đó là lĩnh vực nông nghiệp: Tại rất nhiều quốc gia, gồm cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, thương mại nông sản là một trong những thành phần quan trọng trong nền kinh tế và có vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp quốc gia cũng như việc làm. - Hiệp định nông nghiệp loại bỏ những quy định bóp méo thương mại cũng như những thiệt hại gây ra bởi cơ chế theo hướng phi thị trường, là nguyên nhân dẫn tới việc sử dụng không hiệu quả nguồn lực. - Có vai trò giảm đói nghèo: Ngân hàng thế giới đã tính toán rằng: việc loại bỏ những bóp méo thương mại nông sản trong trợ cấp và thuế quan có thể giúp tăng cường thương mại thế giới ít nhất là 0,5 nghìn tỷ USD và giúp khoảng 159 triệu người thoát khỏi đói nghèo vào năm 2015. - Giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh lương thực: hệ thống thương mại cũng có những vai trò quan trọng trong an ninh lương thực toàn cầu. Hiệp định đưa ra các cơ chế bảo đảm đáp ứng được sự thiếu hụt về lương thực tại bất cứ quốc gia, khu vực bị ảnh hưởng thiên tai. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, các điều khoản trong Hiệp định đưa ra những cơ hội nhằm cải thiện tốc độ tăng trưởng thông qua thương mại hàng hoá, nơi mà các quốc gia này có những lợi thế cạnh tranh hơn nếu như những điều kiện thương mại ít bị bóp méo. Bên cạnh đó, sẽ loại bỏ được việc trồng những loại cây gây nghiện. Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế mở đã thực sự trở thành những xu hướng có tính khách quan. Nền kinh tế của mỗi nước trở thành một bộ phận cùa nền kinh tế toàn cầu và chịu ảnh hưởng trực tiếp của những động thái kinh tế tòan cầu. Nhận thức rõ bối cảnh đó, Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ "Phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững". 1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP Một số khái niệm trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO được hiểu như sau [20]: 1. "Lượng trợ cấp tính gộp-AMS" có nghĩa là mức trợ cấp hàng năm tính bằng tiền cho một nông sản dành cho các nhà sản xuất một loại nông sản cơ bản nào đó, hoặc là mức trợ cấp không nhằm vào các mặt hàng cụ thể nào dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp nói chung, khác với trợ cấp theo các chương trình có đủ tiêu chuẩn được miễn trừ cắt giảm tại Phụ lục 2 của Hiệp định nông nghiệp. 2. "Giai đoạn thực hiện" có nghĩa là giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995 đối với các quốc gia phát triển. Ngoài ra, thời hạn này được áp dụng dài hơn đối với các thành viên là các quốc gia đang phát triển (9 năm). 3. "Chi tiêu ngân sách" hoặc "chi tiêu" bao gồm cả phần thu ngân sách bị bỏ qua. 4. "Diện sản phẩm" là các sản phẩm nông sản được đưa ra tại Phụ lục 1 của Hiệp định nông nghiệp. 5. "Tiếp cận thị trường" là khả năng một quốc gia cho phép các nước thành viên khác trong tổ chức thương mại thế giới WTO tiếp cận với thị trường nước mình, thông qua các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Nếu hàng rào thuế quan/phi thuế quan cao - khả năng tiếp cận thấp; ngược lại, nếu các thành viên hạ mức thuế quan/ phi thuế quan thấp thì cơ hội tiếp cận thị trường cao hơn. 6. "Trợ cấp xuất khẩu" là những trợ cấp dựa trên kết quả thực hiện xuất khẩu, kể cả các loại trợ cấp xuất khẩu trong danh mục tại Điều 9 của Hiệp định. Là những trợ cấp từ phía nhà nước tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. 7. "Hỗ trợ trong nước" là những chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới sản xuất nông nghiệp trong nước. Các chính sách này theo hướng dẫn của ban thư ký WTO được chia làm ba loại chính: "gồm các chính sách cho phép áp dụng tự do-Green box", "các chính sách áp dụng hạn chế theo chương trình áp dụng-Blue box" và "các chính sách không được phép áp dụng-Amber box". Trong toàn bộ nội dung phân tích Hiệp định dưới đây chúng tôi sẽ phân tích Hiệp định theo ba nội dung chính gồm: Tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Chương 2 HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP VÀ VIỆC THỰC THI TẠI MỘT SỐ NƯỚC 2.1. CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP 2.1.1. Mục tiêu của hiệp định nông nghiệp Mục tiêu đầu tiên của Hiệp định nông nghiệp là nhằm cải cách những nguyên tắc, quy định của chính sách nông nghiệp cũng như nhằm giảm bớt các bóp méo thương mại hàng nông sản gây ra bởi chủ nghĩa bảo hộ nông nghiệp và hỗ trợ trong nước. Xu hướng này đã trở nên rất mạnh mẽ trong những năm gần đây. Đặc biệt là tại các nước phát triển đã cố gắng tìm kiếm các biện pháp, công cụ nhằm bảo vệ ngành nông nghiệp trong nước trong việc mở cửa thị trường. Do đó, mục đích của Hiệp định nông nghiệp là kiềm chế những chính sách, trên khía cạnh toàn cầu, tạo ra những bóp méo trong sản xuất và thương mại hàng nông sản. Những chính sách này được chia làm các danh mục như: hạn chế tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Mỗi một loại danh mục chính sách luật pháp được điều chỉnh bởi các điều khoản và phụ lục khác nhau trong khuôn khổ hiệp định gồm: Tiếp cận thị trường (Market access-Điều 4); Cam kết hỗ trợ thị trường (Domestic support-Điều 6); Cam kết trợ cấp xuất khẩu (Export-Subsidy-Điều 9). Các điều khoản này và các quy định, phụ lục liên quan xác định những chính sách, quy định nào của hệ thống pháp luật trong nước nằm trong danh mục nào của Hiệp định, đồng thời đưa ra các nguyên tắc liên quan đến việc xây dựng pháp luật trong danh mục đó. Cần nhấn mạnh rằng: Hiệp định nông nghiệp là một văn bản pháp luật, và nó có tính rằng buộc pháp lý cao với sự đồng thuận của các thành viên tham gia trong quá trình đàm phán. Tại lời nói đầu của Hiệp định nông nghiệp đã chỉ ra mục tiêu là: Thiết lập một hệ thống thương mại nông sản công bằng và theo định hướng thị trường". Đây là mục tiêu quan trọng nhất của Hiệp định nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, phải được thực hiện thông qua đàm phán cam kết về trợ cấp và bảo hộ, thông qua việc thiết lập những luật lệ và quy tắc chặt chẽ và có hiệu quả hơn [20]. 2.1.2. Các nội dung chính của Hiệp định Hiện nay, Hiệp định nông nghiệp mới chỉ điều chỉnh việc sử dụng một số biện pháp bảo hộ nhất định. Theo phân tích Hiệp định, cũng như các hướng dẫn của ban thư ký WTO, Hiệp định này nông nghiệp gồm có 13 phần, 21 điều và 5 phụ lục. Có thể tóm tắt nội dung như sau: Phần 1: Gồm Điều 1,2: quy định về định nghĩa các thuật ngữ và diện sản phẩm áp dụng tại Hiệp định. Phần 2: Gồm Điều 3: quy định việc xây dựng những nhượng bộ và cam kết-đưa ra các cam kết của các nước thành viên trong việc đàm phán thực hiện Hiệp định nông nghiệp. Phần 3: Gồm Điều 4, 5: Tiếp cận thị trường và Tự vệ đặc biệt. Phần này được ban thư ký WTO hướng dẫn tương đối chi tiết đối với các quốc gia đang gia nhập WTO như Việt Nam. Vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn ở các phần sau. Phần 4: Gồm Điều 6, 7: Cam kết hỗ trợ trong nước, Quy tắc chung về hỗ trợ trong nước: phần này chủ yếu liệt kê các biện pháp hỗ trợ trong nước. Theo hướng dẫn của Ban Thư ký WTO cam kết hỗ trợ trong nước được quy định tương đối rõ ràng theo các chính sách như: Chính sách được phép áp dụng, chính sách được áp dụng hạn chế theo các chương trình và chính sách không được phép áp dụng. Vấn đề này cũng sẽ được đề cập chi tiết hơn ở các phần sau. Phần 5: Gồm Điều 8, 9, 10, 11, 12: quy định về các cam kết trợ cấp xuất khẩu; theo đó Hiệp định liệt kê các các hình thức trợ cấp xuất khẩu phải được các quốc gia thành viên cam kết cắt giảm. Vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn ở các phần sau. Các phần 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13: Gồm các điều 13-21 quy định về các quy tắc hạn chế và cấm xuất khẩu (Điều 12), kềm chế cần thiết (điều 13), các biện pháp kiểm dịch động thực vật (Điều 14), đối xử đặc biệt và khác biệt (Điều 15), các nước chậm phát triển nhất và các nước đang phát triển nhập siêu lương thực (Điều 16), Ủy ban nông nghiệp (Điều 17), rà soát thực hiện cam kết (Điều 18), tham vấn và giải quyết tranh chấp (Điều 19), tiếp tục quá trình cải cách (Điều 20) và điều khoản cuối cùng (Điều 21) là các phần cam kết chung của các quốc gia thành viên, do đó không ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp của Việt Nam. Theo hướng dẫn của Ban Thư ký WTO về thực hiện Hiệp định nông nghiệp, các nước đang tiếp cận với WTO sẽ phải cam kết thực hiện Hiệp định theo ba nội dung: đưa ra ba lĩnh vực cam kết chính đó là: Tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Trên cơ sở thực tiễn thực hiện Hiệp định nông nghiệp của các quốc gia thành viên WTO, hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp và thực trạng chính sách pháp luật nông nghiệp của đang được xây dựng nhằm thực hiện Hiệp định nông nghiệp, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tồ chức thương mại thế giới (WTO)" sẽ tập trung vào các nội dung này. Hiệp định nông nghiệp quy định các nước thành viên phải dỡ bỏ ngay lập tức các hàng rào phi thuế trong lĩnh vực nông nghiệp và chuyển thành các biện pháp thuế quan. Tuy nhiên, có ba ngoại lệ đối với việc chuyển đổi này, đó là: Các biện pháp được áp dụng nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán. Các biện pháp được tiến hành theo các điều khoản chung của GATT 1994 (ví dụ như các biện pháp tự vệ, các biện pháp thuộc ngoại lệ chung (Điều XX-GATT 1994); Các nước lựa chọn không áp dụng biện pháp thuế hoá đối với một số mặt hàng và dành cho một lượng nhập khẩu nhất định mặt hàng này cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt. Mức tương đương thuế quan của các NTM được tính dựa theo số liệu của năm 1986-1988. Mức tương đương thuế quan này cộng với mức thuế quan sẵn có tạo thành tổng mức thuế quan. Lịch trình và tổng mức thuế quan được quy định theo bảng dưới đây: Nước Giai đoạn thực hiện Tỷ lệ cắt giảm Phát triển 1995-2000 Cắt giảm trung bình 36% (giảm tối thiểu 15% với mỗi dòng thuế) Đang phát triển 1995-2004 Cắt giảm trung bình 24% (giảm tối thiểu 10% với mỗi dòng thuế) 2.1.2.1. Cơ hội tiếp cận thị trường Tiếp cận thị trường theo cách hiểu của các nước thành viên trong WTO là việc hàng hoá, dịch vụ của một quốc gia xâm nhập vào thị trường nước khác. Điều 4 - Tiếp cận thị trường của Hiệp định nông nghiệp gồm các nội dung sau: Nhân nhượng tiếp cận thị trường có trong các danh mục là các cam kết ràng buộc và cắt giảm thuế quan, và các cam kết tiếp cận thị trường khác được nêu tại đó... Các thành viên sẽ không duy trì, viện đến, hoặc áp dụng lại bất kỳ các biện pháp phi thuế thuộc loại đã được yêu cầu chuyển sang thuế quan thông thường", ngoại trừ có quy định khác tại Điều 5 và Phụ lục 5 [20]. Theo hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp, thấy rằng: Để khắc phục tình trạng mức thuế nhập khẩu thực tế rất cao sau khi thuế hoá, trong Hiệp định nông nghiệp có 03 khái niệm cụ thể quy định các nước phải dành cho hàng nông sản nhập khẩu các cơ hội tiếp cận thị trường-theo đó phần giá trị nhập khẩu nằm trong giới hạn này sẽ được hưởng mức thuế thấp. Cơ hội tiếp cận hiện tại: ít nhất là bằng với mức trung bình của 03 năm giai đoạn cơ sở 1986-1988. Cơ hội tiếp cận tối thiểu: cơ hội tiếp cận thị trường tối thiểu trong năm 1995 phải ở mức không ít hơn 3% mức tiêu dùng hàng năm trong giai đoạn 1986-1988. Tỷ lệ này sẽ được tăng lên 5% vào cuối năm 2000 đối với các nước phát triển và vào cuối năm 2004 đối với các nước đang phát triển. Cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt (áp dụng đối với các mặt hàng không tiến hành thuế hoá): đối với các nước phát triển, cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt là 4% mức tiêu dùng trung bình trong giai đoạn 1986-1988 và tăng dần 0,8% mỗi năm cho đến cuối năm 2000. Với các nước đang phát triển, tỷ lệ quy định tương ứng là 1% mức tiêu dùng hàng năm, 2% vào năm 1999 và lên đến 4% vào năm 2004. Sở dĩ lấy giai đoạn cơ sở là 1986-1988 vì đây là khoảng thời gian 3 năm đầu của vòng đàm phán Urugoay kéo dài 9 năm từ năm 1986-1994. Giai đoạn cơ sở này có thể thay đổi với các nước đàm phán gia nhập sau. Tuy nhiên, nếu như hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia thành viên WTO bị đe doạ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, Điều 5 - Các điều khoản tự vệ đặc biệt đã quy định như sau: Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước thành viên áp dụung biện pháp đặc biệt mà không cần bất kỳ biểu hiện nào của việc gây ra (hoặc đe doạ gây ra) ảnh hưởng đối với sản xuất trong nước, miễn là nông sản đó đã được thuế hoá và trong biểu cam kết của thành viên có ký hiệu SSG ở bên cạnh sản phẩm đó. Biện pháp tự vệ trong nông nghiệp sẽ được áp dụng khi: Giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá lẫy và hoặc Lượng nhập khẩu vượt trên lượng nhập khẩu lẫy. Mức giá lẫy là giá CIF nhập khẩu trung bình sản phẩm đó trong giai đoạn 1986-1988 sẽ được các nước thành viên trình lên Uỷ ban nông nghiệp và công bố công khai. Lượng nhập khẩu lẫy sẽ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ khối lượng nhập khẩu trên tổng tiêu dùng trong nước của mặt hàng đó. Tỷ lệ nhập khẩu/tổng tiêu dùng trong nước Lượng nhập khẩu lẫy < 10% 125% lượng nhập khẩu trung bình trong giai đoạn cơ sở <10%<30% 110% lượng nhập khẩu trung bình trong giai đoạn cơ sở >30% 105% lượng nhập khẩu trung bình trong giai đoạn cơ sở 2.1.2.2. Hỗ trợ trong nước Hỗ trợ trong nước được hiểu là các chính sách, biện pháp được một quốc gia ban hành ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp phát triển, tăng tính cạnh tranh cho ngành/sản phẩm đó. Tại Điều 6, Điều 7, Phụ lục 2, Phụ lục 3, Phụ lục 4: Cam kết về hỗ trợ trong nước, quy tắc chung về hỗ trợ trong nước được hiểu như sau: Theo hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp, Hiệp định nông nghiệp chia các chính sách, quy định có tác dụng hỗ hỗ trợ trong nước thành ba nhóm lớn: dạng chính sách hỗ trợ hổ phách không được áp dụng (Amber box hay còn gọi là hộp hổ phách), chính sách được hỗ trợ hộp xanh da trờiáp dụng theo các chương trình hạn chế (Blue box-còn gọi là hộp xanh lơ) và chính sách được phép hỗ trợ xanh lá câyáp dụng tự do (Green box- còn gọi là hộp xanh lá cây) căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của các biện pháp này đối với thương mại trong nông nghiệp. Trong toàn bộ phân tích Hiệp định nông nghiệp tới đây sẽ phân tích việc thực hiện Hiệp định trên cơ sở các chính sách Amber box, Blue box và Green box trong nhóm chính sách "Hỗ trợ trong nước". Hỗ trợ hộp mầu hổ phách(Amber box) Đây là các chính sách, quy định, biện pháp không được miễn trừ và phải bị cắt giảm. Theo đó, các biện pháp hỗ trợ này được lượng hoá trong tổng AMS. Tổng AMS sẽ tính cả phần chi tiêu ngân sách Chính phủ bỏ ra và phần ngân sách đáng lẽ phải thu được nhưng bỏ qua không thu. Các nước thành viên cam kết tổng AMS cho từng năm, tỷ lệ cắt giảm và mức cam kết trần cuối cùng trong giai đoạn thực hiện. Nước Giai đoạn thực hiện Tỷ lệ giảm Phát triển 1995-2000 Giảm 20% tổng AMS Đang phát triển 1995-2004 Giảm 13.3% tổng AMS Mức hỗ trợ cho phép (de minimis): Các nước được duy trì mức độ hỗ trợ dạng hộp hổ phách nhất định nếu tổng giá trị hỗ trợ này chiếm một tỷ lệ nhỏ (5% đối với các nước phát triển và 10% đối với các nước phát triển) trong giá trị sản xuất các sản phẩm cụ thể hoặc trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây (Gree._.ào thưởng xuất khẩu cho các mặt hàng gặp khó khăn về thị trường, giá cả xuống quá thấp, ảnh hưởng lớn đến đời sống nông dân. Năm 2001, thưởng xuất khẩu cho 4 mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, thịt lợn và rau quả hộp. Năm 2002, mở rộng cho 10 nhóm sản phẩm, mức thưởng cho từng mặt hàng, theo từng năm như sau: Mức thưởng xuất khẩu năm 2001 - 2002 Đơn vị: VNĐ/ USD Mặt hàng Mức thưởng Năm 2001 Năm 2002 1 - Gạo 180 180 2 - Cà phê 220 220 3 - Thịt Trong đó: - Lợn sữa 280 280 - Lợn mảnh 900 900 - Thịt khác - 100 4 - Rau quả Trong đó: - Rau hộp 400 400 - Quả hộp 500 500 - Rau quả khác - 100 5 - Chè - 400 6 - Lạc nhân - 120 7 - Hạt tiêu - 100 8 - Hạt điều - 100 10 - Mây tre lá - 100 Giai đoạn 2003 - 2004: Tình hình thị trường nông sản thế giới dần được cải thiện, việc xuất khẩu đã giảm bớt khó khăn. Mặt khác, cũng cần hạn chế tới mức thấp nhất tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, biện pháp thưởng xuất khẩu đã được thay thế theo hướng khuyến khích thi đua là chính. Quyết định 1116/2003/QĐ-BTM ngày 9/9/ 2003 về quy chế thưởng xuất khẩu đối với phần kim ngạch xuất khẩu năm 2003 vượt so với năm 2002. Trong số 12 mặt hàng thuộc diện thưởng thì nông sản chiếm tới 8 mặt hàng. Quy định như sau: Kim ngạch năm 2003 phải cao hơn năm 2002. Riêng với các mặt hàng gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến), chỉ áp dụng cho các trường hợp kim ngạch xuất khẩu của các nhóm này năm 2002 phải đạt mức như sau: Gạo: 1 triệu USD trở lên. Cà phê: 0,5 triệu USD Hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến): 0,1 triệu USD. Mức thưởng năm 2003 cho phần kim ngạch vượt STT Mặt hàng Mức thưởng (Đ/ USD) 1 Thịt các loại 1000 2 Rau quả các loại 1000 3 Chè các loại 1000 4 Gạo 300 5 Cà phê 300 6 Lạc nhân 300 7 Hạt tiêu 300 8 Hạt điều (chế biến) 300 10 Mây tre lá 300 Hỗ trợ xuất khẩu năm 2003 giảm đáng kể so với năm 2002 do chỉ thưởng phần kim ngạch vượt. Việc tính toán lượng hỗ trợ thực tế là rất khó. Vì ngoài yếu tố chính sách trên ra, còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: Các doanh nghiệp có làm đầy đủ thủ tục hay không; Buôn bán tiểu ngạch không thông qua tài khoản ngân hàng, các hoạt động xuất khẩu gạo theo Hiệp định Chính phủ, xuất khẩu trả nợ của Chính phủ vv…không được thưởng; Việc xét duyệt và cấp phát cũng kéo dài từ năm trước sang năm sau. (3) Về thưởng theo thành tích xuất khẩu, mỗi năm chi vào khoảng 11 - 15 tỷ đồng để khuyến khích tăng trưởng kim ngạch, mặt hàng mới, thị trường mới. Thực chất chính sách thưởng này chỉ mang tính động viên thi đua là chính, có thể không coi đây là hình thức trợ cấp xuất khẩu. Ngoài hình thức thưởng xuất khẩu theo chương trình như trên, còn có một số quyết định cá biệt cho một số mặt hàng cụ thể như sau: + Đối với mặt hàng gạo: Bãi bỏ đầu mối xuất khẩu gạo (từ năm 2001), không bù lỗ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Duy nhất trong giai đoạn này Chính phủ hỗ trợ bán gạo trả chậm cho Cu Ba năm 2005 tại Quyết định số 1125/QĐ-TTg ngày 22/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu cấp bù lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo cho Cuba. + Đối với mặt hàng thịt lợn: Không bù lỗ xuất khẩu thịt lợn. + Đối với cà phê: Không hỗ trợ các doanh nghiệp mua cà phê tạm trữ để xuất khẩu. + Đối với rau quả: Bãi bỏ trợ giá xuất khẩu dứa hộp sang thị trường Mỹ. Không hỗ trợ xuất khẩu rau quả chế biến sang Nga. Trên thực tế, Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước đang phát triển như áp dụng hai hình thức trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp để giảm chi phí tiếp thị xuât khẩu cho nông sản (trừ các dịch vụ tư vấn và xúc tiến xuất khẩu thông thường), trong đó gồm chi phí xử lý, nâng cấp và các chi phí chế biến khác và trợ cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu. Nhưng Việt Nam lại chưa áp dụng hình thức hỗ trợ này. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu năm 2004-2005. Theo Quyết định 266/2003/QĐ-TTg ngày 17/12/2003, để tăng tính cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu, các chính sách khác nhau về tài chính, tín dụng, đầu tư, phí và lệ phí đã được sửa đổi hoặc mở rộng, với sự tập trung vào khoản tín dụng đầu tư dài hạn nhằm tăng cường năng lực sản xuất, đặc biệt cho những ngành công nghiệp chế biến nguyên liệu thô để sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, bảo lãnh tín dụng thương mại cũng được mở rộng với việc tập trung vào các dự án đầu tư công nghệ mới cho hàng xuất khẩu, và vào những hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả cao. Tín dụng cũng sẽ dần được cấp cho các đối tượng thường xuyên nhập một khối lượng lớn hàng hoá của Việt Nam cho thị trường khu vực. Theo Quyết định số 226, số các mặt hàng được hưởng ưu đãi xuất khẩu sẽ bị giảm, cũng theo đó các khoản thưởng sẽ tập trung vào những hàng hoá chủ chốt có tính cạnh tranh cao và những mặt hàng sử dụng nguyên liệu thô, địa phương có mức cung lớn. Hỗ trợ tài chính trực tiếp cũng bị hạn chế và thay vào đó là hỗ trợ cho các nhà cung cấp nguyên liệu thô, những giải pháp về khoa học, kỹ thuật và công nghệ để cải thiện tình hình sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh các hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Nhà nước cũng đang xem xét sớm hoàn chỉnh quy chế hoạt động của Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu nông sản còn nhận được sự hỗ trợ từ Quỹ hỗ trợ phát triển dưới hình thức cho vay đầu tư với lãi suất ưu đãi đối với các dự án sản xuất, chế biến kinh doanh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành nghề được ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước có tỷ trọng hàng xuất khẩu từ 30% trở lên (Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính sách hỗ trợ đầu tư từ quỹ hỗ trợ phát triển). 3.2.3.3. Nhóm chính sách xúc tiến thương mại Bộ Tài chính ban hành Thông tư 86/ 2002/TT-BTC ngày 27/ 9/ 2002 về việc hướng dẫn chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đẩy mạnh xuất khẩu theo chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Bộ Thương mại ban hành Quyết định số 104/ 2003/ QĐ-BTM ngày 24/1/2003 về quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến thương mại trong điểm quốc gia. Nội dung hỗ trợ cho các hoạt động: thông tin thương mại, tuyên truyền, quảng bá xây dựng cơ sở dữ liệu; tư vấn xuất khẩu; đào tạo nâng cao năng lực, kỹ năng kinh doanh xuất khẩu, hội chợ, triển lãm; khảo sát, tìm kiếm thị trường; quảng bá thương hiệu, sản phẩm; chi phí ban đầu cho việc xây dựng kho ngoại quan, trung tâm xúc tiến thương mại, trung tâm giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước; nghiên cứu ứng dụng thương mại điện tử phục vụ xuất khẩu. Mức hỗ trợ từ 50 – 70% tuỳ loại. Các Hiệp hội ngành hàng, các tổng công ty lớn là cơ quan đầu mối tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại của ngành mình. Các ngành hàng nông sản được phê duyệt trong chương trình này là gạo; chè; cà phê; hạt tiêu; rau quả; sản phẩm gỗ; thịt lợn, thực phẩm chế biến; Năm 2003, là năm đầu tiên thực hiện chính sách này, một số tổng công ty, Hiệp hội ngành hàng trong ngành nông nghiệp được phê duyệt chương trình này như gạo, chè, cà phê, rau quả, hồ tiêu. Các hoạt động chủ yếu vào khảo sát thị trường, hỗ trợ thông tin, hội chợ triển lãm v.v… Do việc triển khai chậm (cuối năm mới có kế hoạch), thủ tục giải ngân phức tạp nên các doanh nghiệp chỉ gải ngân được khoảng 10 – 15% kế hoạch được giao. Năm 2004, có 15 Hiệp hội và tổng công ty trong ngành nông nghiệp được phê duyệt chương trình này với tổng số king phí toàn chương trình là 86 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách hỗ trợ là 56 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo của các đơn vị, tỷ lệ giải ngân rất chậm do các thủ tục tài chính rất chặt chẽ nên có khả năng chỉ thực hiện được từ 30 – 50% số kinh phí được duyệt. 3.3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP 3.3.1. Quan điểm về bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ nông nghiệp Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững". Một trong những đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế là phải từng bước xoá bỏ các rào cản trong thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, thực hiện tự do hoá thương mại. Một số biện pháp bảo hộ và hỗ trợ sản xuất trong nước, trong đó có ngành nông nghiệp vẫn được duy trì, nhưng phải theo các quy tắc nhất định. Việt Nam là nước đang phát triển, việc bảo hộ và hỗ trợ cho sản xuất và mậu dịch hàng nông sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc là cần thiết, tuy nhiên, vấn đề hỗ trợ và bảo hộ cho sản xuất và mậu dịch là vấn đề hết sức nhậy cảm trong chính sách thương mại. Trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã khẳng định không lấy chính sách bảo hộ làm nền tảng và xu hướng cho chính sách thương mại của mình. Mặc dù hiểu rõ vai trò của hội nhập đối với quá trình tăng trưởng kinh tế, đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó có vai trò to lớn của các luồng sản phẩm tham gia cấu thành vào đầu vào của sản xuất, du nhập công nghệ và khoa học thương mại, nhưng trong điều kiện nền nông nghiệp trong nước không thể không đặt ra sự cần thiết phải bảo hộ trong từng sản phẩm, từng thời kỳ nhằm tạo ra môi trường thương mại lành mạnh và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước ngay tại thị trường nội địa. Cần lưu ý là chính sách bảo hộ nói chung và bảo hộ nông nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế phải có tác dụng hỗ trợ cho sản phẩm trong nước vươn lên trong cạnh tranh; đồng thời cũng không vì bảo hộ sản xuất mà quên mất lợi ích của người tiêu dùng. Ở đây, sự bảo hộ sản xuất nội địa được quan niệm là sự bảo hộ tích cực trong xu thế tự do hoá thương mại. Nó khác hẳn sự bảo hộ trong điều kiện nền kinh tế khép kín, sản xuất thay thế nhập khẩu. Bảo hộ phải tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế: Sản xuất hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả là chiến lược mà Việt Nam theo đuổi trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu. Thực hiện chiến lược này đòi hỏi nước ta phải thực thi một hệ thống chính sách thương mại tự do là chính, là xu hướng chủ yếu, bảo hộ chỉ là chính sách mang tính thời gian và phải hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh bao gồm năng lực cạnh tranh quốc gia, của doanh nghiệp và của sản phẩm trên thị trường. Thị trường ngày nay hơn lúc nào hết mang tính toàn cầu, do vậy, cạnh tranh mang tính toàn cầu là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện nay. Nhìn lại quá trình toàn cầu hoá hiện nay ta có thể thấy rằng sự xuất hiện của quá nhiều thị trường và công ty toàn cầu, trước kia quy mô của công ty là rất quan trọng, thì ngày nay quan trọng lại là quy mô của sự tập hợp, tức mạng lưới và cơ sở hạ tầng. Mô hình toàn cầu hoá ngày nay, ngày càng đặt lên hàng đầu sự chuyên môn hoá làm ra các sản phẩm cụ thể tại các địa điểm cụ thể khác nhau trên thế giới. Do đó, xuất hiện mô hình mới về cạnh tranh. Đó là mô hình dựa trên cơ sở chuyên môn hoá nghĩa là các nước sẽ phát đạt ở những lĩnh vực mà họ đạt được sự chuyên môn hoá đặc thù. Về phía các nhà sản xuất cần xây dựng chiến lược cạnh tranh thích nghi với mô hình mới về cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá. Phải tạo ra môi trường để bản thân mình mong đợi xu hướng thay đổi tiến bộ, chứ không phải chống lại nó. Một môi trường trong đó các nhà sản xuất chủ động thủ tiêu sản phẩm của mình thay vì các đối thủ cạnh tranh làm việc đó, một môi trường các nhà sản xuất tự xác định quy mô thích hợp hơn là để người khác làm việc đó. Các chính sách, quy định bảo hộ phải được thực hiện một cách có chọn lọc: Nước ta có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và nguồn nhân lực để sản xuất đa dạng các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các nông sản nhiệt đới. Việc tìm kiếm mặt hàng nông sản có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình nông nghiệp nước ta tham gia vào phân công lao động quốc tế. Trong quá trình này, cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước không nên và không thể bảo hộ tràn lan, phải lựa chọn cẩn thận các ngành hàng được bảo hộ. Nguyên tắc ở đây là chỉ bảo hộ cho những sản phẩm mà sản xuất trong nước đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển, thu hút được nhiều lao động và ưu tiên cho ngành hàng định hướng xuất khẩu. Việc bảo hộ được áp dụng cho từng sản phẩm (hoặc từng ngành hàng) có thời hạn, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ sản phẩm nào. Điều này có nghĩa là việc bảo hộ phải giảm dần để các nhà sản xuất sản phẩm được bảo hộ không ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Việc áp dụng chính sách bảo hộ sản xuất hàng nông sản phải được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế: Việc bảo hộ sản xuất ngành nông sản được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, bất kể đó là doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này, có nghĩa là đối tượng được bảo hộ là ngành hàng hay sản phẩm chứ không phải một doanh nghiệp, một nhà sản xuất cụ thể nào. Bảo hộ theo hướng này sẽ nâng cao sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường trong nước và thế giới có lợi cho nền kinh tế. Các biện pháp bảo hộ phải tuân thủ các quy định quốc tế, đặc biệt là của WTO được Chính phủ Việt Nam cam kết Vì lý do kinh tế, chính trị hay xã hội nên chúng ta phải bảo hộ một số nông sản trong nước. Biện pháp bảo hộ cho một sản phẩm nào đó như thuế quan, phi thuế quan phải tuân thủ những cam kết mà Việt Nam đã đặt ra. Một nguyên tắc quan trọng của WTO là chỉ chấp nhận bảo hộ trong nước bằng thuế quan. Bởi vì, thuế quan là biện pháp bảo hộ rõ ràng, dễ dự đoán và thuận lợi khi đàm phán mở cửa thị trường. Tuy nhiên, các nhà đàm phán về việc thực hiện những biện pháp bảo hộ cho nông sản Việt Nam phải xuất phát từ khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm để có được những thoả thuận mang tính khả thi cho nhà sản xuất và xuất khẩu. Bởi vì cuối cùng việc thực hiện những cam kết này là các nhà sản xuất chứ không phải các nhà hoạch định chính sách. Cũng phải thừa nhận thêm rằng các quy định quốc tế và đặc biệt của WTO về vấn đề bảo hộ trong Hiệp định nông nghiệp rất phức tạp và đôi khi khó hiểu. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, Hiệp định nông nghiệp có những miễn trừ. Vì vậy, đàm phán để thực hiện các quy định này phù hợp với các nhà sản xuất và xuất khẩu là đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, các phương thức bảo hộ nông nghiệp đã và đang được áp dụng tuy có tạo ra rào cản nhất định, tạo thuận lợi cho một số ngành phát triển nhưng lại trái với các quy định của WTO. Vì vậy, việc tìm kiếm các biện pháp bảo hộ phi thuế quan mới là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu bảo hộ sản xuất nông sản đặt ra. Thực tế hiện nay, các nước đã và đang tìm ra các biện pháp bảo hộ mới, tránh được những thoả thuận mà họ cam kết. Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan mới cần phải: không trái với các cam kết quốc tế, không mang tính chất phân biệt đối xử và gây ra các hiệu quả xấu, dựa trên các tiêu chí rõ ràng, nhất quán. 3.3.2. Định hướng, đề xuất chính sách 3.3.2.1. Chính sách thuế nhập khẩu Trên cơ sở các điều khoản và lịch trình nước ta cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế (AFTA, APEC, IMF…), hai mốc thời gian về tự do hoá thương mại hàng nông sản đã được xác định, đó là 2006 với AFTA và 2020 với APEC. Với sự tương đồng về sản phẩm giữa các nước ASEAN, thời điểm 2006 sẽ là thách thức lớn nhất, gần cận nhất đối với hàng nông sản nước ta. Chủ trương của nhà nước là bảo hộ chọn lọc và có thời hạn đối với các ngành hàng. Dựa vào sự phân loại khả năng cạnh tranh của các ngành hàng để xây dựng cấp độ bảo hộ, ngành nông nghiệp cũng đã xác định cấp độ bảo hộ cho từng nhóm hàng theo 03 mức: Bảo hộ thấp: chủ yếu là các sản phẩm thô hiện nay đang được xuất khẩu hoặc là đầu vào cho công nghiệp chế biến như hồ tiêu, cao su, lạc, ngô, đậu tương. Bảo hộ trung bình: gồm những ngành hàng trong nước đang sản xuất, nhu cầu nhập khẩu ít như rau quả tươi, thịt tươi. Bảo hộ cao: các sản phẩm chế biến. Chính sách thuế nhập khẩu trong tương lai sẽ giảm dần cả về tỷ lệ phần trăm mức thuế lẫn giảm từ nhiều mức thuế xuống còn vài mức để tạo sự bình đẳng giữa các sản phẩm, khuyến khích phát triển các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. 3.3.2.2. Các biện pháp phi thuế Sử dụng các biện pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất nông nghiệp là một thực tế thường thấy ở tất cả các quốc gia trên thế giới kể các nước có nền kinh tế phát triển. Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, Việt Nam càng cần có một chiến lược bảo hộ đúng đắn, có chọn lọc và có điều kiện với một lộ trình hợp lý để vừa thoả mãn nhu cầu hội nhập, vừa bảo vệ và phát triển các ngành sản xuất trong nước. Trong tương lai, khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam rất khó duy trì và biện minh cho các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu. Vì vậy, định hướng các biện pháp phi thuế áp dụng trong tương lai đối với lĩnh vực nông nghiệp cần vận dụng linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ các quy định của WTO. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật: Do đặc thù của hàng nông sản so với các mặt hàng khác, các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch thực vật nếu sử dụng khéo léo và linh hoạt sẽ gây cản trở đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài một cách hợp pháp.WTO cho phép các nước sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch cần thiết và thích hợp nhằm bảo vệ sức khoẻ con người, quyền lợi người tiêu dùng, miễn là các quy định này không hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế. Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà các biện pháp này còn được sử dụng chưa phổ biến ở các nước đang phát triển. Sự thiếu đồng bộ về quy định khung pháp lý, sự non kém về xây dựng các tiêu chuẩn và các hạn chế về trình độ trong việc đặt ra và vận dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật, các biện pháp kiểm tra kỹ thuật đã làm ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp này tại Việt Nam. Vì vậy, ta cần xây dựng từng bước một chính sách đồng bộ, ban hành luật về kiểm dịch động thực vật, các quy tắc kiểm tra kỹ thuật với danh sách chi tiết các mặt hàng, quy trình, thông số kiểm tra và so sánh nhằm tạo ra một rào cản hợp pháp đối với nhập khẩu nông sản, sản xuất nông nghiệp và bảo vệ sức khoẻ con người, môi trường. Các biện pháp chống bán phá giá: Việt Nam cần ban hành luật về chống bán phá giá dựa trên các quy định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO để ngăn chặn việc hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường nội địa, bóp nghẹt sản xuất trong nước gây ảnh xấu đến thị trường nông sản nói chung. Tự vệ và tự vệ đặc biệt: Việt Nam cần ban hành văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý để áp dụng biện pháp tự vệ, một biện pháp được WTO cho phép sử dụng trong trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hoặc có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng trước sự nhập khẩu ồ ạt từ bên ngoài. Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng pháp luật về quyền tự vệ nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, riêng với nông sản Hiệp định nông nghiệp còn dành cho các nước quyền áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với một số mặt hàng mà các nước thành viên đã tiến hành thuế hoá và bảo lưu quyền tự vệ đặc biệt trong lịch trình cam kết của mình. Điều kiện áp dụng các quyền này thấp hơn rất nhiều so với điều kiện áp dụng quyền tự vệ vì không cần chứng tỏ ngành sản xuất nội địa bị tổn thương hoặc có nguy cơ bị tổn thương. Trợ cấp và các biện pháp đối kháng: WTO cho phép các nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Ngoài ra, các nước đang phát triển có thể được hưởng những ưu đãi từ các biện pháp đối sử đặc biệt và khác biệt nhằm đảm bảo các nguyên tắc của thương mại bình đẳng và tạo ra một sân chơi chung cho tất cả các nước thành viên WTO.WTO cũng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các nước thành viên đang phát triển. Theo Điều 9 của Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển vẫn có thể tiếp tục sử dụng một cách linh hoạt các trợ cấp cho xuất khẩu nông sản. Ngoài ra, một số hình thức trợ cấp liên quan đến tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu cho đến nay vẫn chưa được điều chỉnh cụ thể bởi bất kỳ nguyên tắc thống nhất nào, do đó vẫn đang được nhiều nước vận dụng nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Như vậy, xét về khía cạnh thực tế, Việt Nam có thể sử dụng hiệu quả các biện pháp trợ cấp này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước cải thiện hoặc tăng khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn có thể mở rộng việc áp dụng các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây như hỗ trợ nghiên cứu phát triển, nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu về môi trường, hỗ trợ hạ tầng nông nghiệp...được WTO cho phép áp dụng vì có thể có tác dụng gián tiếp hỗ trợ sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh. Hạn ngạch thuế quan: Hạn ngạch thuế quan là cơ chế cho phép duy trì mức thuế suất thấp đối với hàng nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch nhập khẩu và mức thuế xuất cao hơn đối với hàng nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Chênh lệch giữa mức thuế suất trong hạn ngạch và thuế suất ngoài hạn ngạch đôi khi lên tới vài trăm phần trăm. Hạn ngạch thuế quan là một đặc trưng của thương mại nông sản, vì thế, Việt Nam nên có định hướng xây dựng biểu thuế theo hạn ngạch rõ ràng đối với sản phẩm thực sự cần phải bảo hộ. Các biện pháp liên quan đến môi trường: Hiện tại, xu hướng dùng các chính sách môi trường như một bình phong cho các vấn đề thương mại đang là một su hướng mới trên thế giới. Việt Nam nên nghiên cứu để khai thác sử dụng các biện pháp liên quan đến môi trường như một biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời có thể có căn cứ xác đáng để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp nhất định viện lý do bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu hàng của Việt Nam. 3.3.2.3. Hỗ trợ trong nước Nhóm Hộp xanh da trời (Green box): Tăng cường đầu tư của nhà nước và nông nghiệp thông qua nhóm chính sách này, đầu tư cơ sở hạ tầng, chương trình giống, khoa học công nghệ, đào tạo, khuyến nông, trợ giúp vùng khó khăn, môi trường. Các nhóm chính sách về bảo hiểm thu nhập, hỗ trợ người sản xuất nông nghiệp được miễn trừ cam kết cần được nghiên cứu đưa vào áp dụng. Nhóm Hộp xanh lơ (Blue box): Mở rộng hơn nữa diện đối tượng được hưởng sự ưu đãi, mức độ ưu đãi về đầu tư, nhất là đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến và bảo quản nông sản. Đây là khâu then chốt để tăng thêm giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp (quy định về lãi suất và thời gian ân hạn cho loại tín dụng đầu tư phù hợp cho các doanh nghiệp vay đầu tư trồng cây lâu năm, xây dựng nhà máy chế biến, bảo quản) Đối với hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo: kinh nghiệm một số nước ASEAN là áp dụng chính sách cho không giống, vật tư cho người nghèo, vùng khó khăn. Đối với nước ta, cần mở rộng hơn nữa việc hỗ trợ cho các đối tượng được hưởng ưu đãi, kèm theo việc cho vay tiền cần kết hợp tốt hơn việc hướng dẫn cho người nghèo biết cách làm ăn, quản lý đồng tiền. Chính phủ đã dành một phần kinh phí để giúp nhân dân trong vùng trồng thuốc phiện chuyển đổi sang cây con khác. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ chưa đủ để nhân dân có cuộc sống khá hơn khiến một số vùng vẫn còn muốn quay lại với cây thuốc phiện. Trong thời gian tới, đề nghị tăng thêm ngân sách hỗ trợ các vùng này. Nhóm AMS Cần xây dựng chính sách hỗ trợ theo từng chương trình hay dự án cụ thể cho từng ngành hàng, từng vùng để triển khai có hiệu quả. Chính sách hỗ trợ công khai, ổn định trong một thời gian nhất địnhvà mọi đối tượng đều được hưởng lợi từ chính sách. Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 3.3.2.4. Trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là rất cần thiết cho ngành nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, cần hỗ trợ xuất khẩu theo các hình thức sau: Chuyển quỹ hỗ trợ xuất khẩu sang quỹ phát triển ngành hàng cho những ngành hàng lớn (lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè, lâm sản…) theo tinh thần Nghị quyết 09 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở thu khi được giá và hỗ trợ khi giá xuống thấp trong nội bộ một ngành hàng, Quỹ phát triển ngành hàng sẽ phù hợp với quy định của WTO. Hỗ trợ xuất khẩu dưới 02 hình thức trợ cấp mà các nước đang phát triển được phép áp dụng: trợ cước phí vận tải trong nước và quốc tế, chi phí tiếp thị bao gồm tái chế, bao gói… Chuyển từ hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp sang hỗ trợ để nâng cao khả năng cạnh tranh và người sản xuất được hưởng (đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, giảm thuế nhập khẩu vật tư, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, tăng hỗ trợ áp dụng giống mới…). Tóm lại, nước ta có mức hỗ trợ và trợ cấp nông nghiệp thấp, nhưng nhu cầu hỗ trợ nông nghiệp tăng tỷ lệ thuận với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để tận dụng được các cơ hội thuận lợi, đồng thời giảm thiểu những tác động xấu trong quá trình hội nhập cho ngành nông nghiệp, các công việc sau đây cần phải làm đồng bộ song song với nhau: Chủ động điều chỉnh các chính sách trong nước cho phù hợp với WTO trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của từng mặt hàng, nhóm mặt hàng và của doanh nghiệp. - Đàm phán để đạt mức cao nhất về thuế, phi thuế và các chính sách hỗ trợ nông nghiệp. KẾT LUẬN Nền nông nghiệp Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những nhiệm vụ chính của ngành đề ra là nâng cao khả năng nội lực của ngành, đảm bảo khả năng cung cấp đầy đủ lương thực trong nước cũng như khả năng thâm nhập thị trường ngoài nước. Tham gia vào WTO, ngành nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Để giải quyết các khó khăn này trước mắt phải có những chính sách pháp lý đúng đắn đảm bảo các điều kiện phù hợp với tình hình trong nước, đồng thời không vi phạm các quy định về nông nghiệp trong WTO. Như đã đề cập ở trên, nền tảng xây dựng pháp luật về nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO chủ yếu dựa trên Hiệp định Nông nghiệp, để có một cách nhìn đầy đủ và toàn diện các quy định pháp lý của hiệp định này trong một đề tài là rất khó, do đó, cần phải có các nghiên cứu sâu sắc từ phía các cơ quan liên quan. Đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của tổ chức thương mại thế giới (WTO)" chỉ giải quyết một số vấn đề cốt lõi như: đưa ra các khái niệm cơ bản về WTO, giới thiệu sơ bộ các quy định của Hiệp định nông nghiệp WTO, thực trạng áp dụng các quy định này trong pháp luật Việt Nam. Còn rất nhiều các vấn đề khác như việc áp dụng các quy định SPS, các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ, thương mại nhà nước…chưa được đề cập đến do đề tài chỉ tập trung vào Hiệp định nông nghiệp của WTO. Việc nghiên cứu các quy định của hiệp định nông nghiệp, vận dụng với tình hình áp dụng thực tiễn đã được các nhà làm luật và chính sách nông nghiệp Việt Nam vận dụng tương đối linh hoạt, các chính sách đề xuất trong đề tài này được dựa trên thực tiễn, cũng như các nghiên cứu chính sách liên quan. Tóm lại, nông nghiệp Việt Nam muốn hội nhập được với thế giới cần phải có những bước đi thích ứng, phù hợp. Hi vọng rằng, với những phân tích chính sách luật pháp trên đây, đề tài này sẽ là một cơ sở quan trọng cho các nhà xây dựng chính sách nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn nhằm đưa chính sách pháp luật nông nghiệp Việt Nam hội nhập chủ động và tích cực với nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2005), Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề - giải pháp, Hà Nội Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Thông báo về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Sổ tay cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Bộ Tài chính (2002), Thông tư 86/2002/TT-BTC ngày 27/9 về việc hướng dẫn chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đẩy mạnh xuất khẩu theo chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, Hà Nội. Bộ Tài chính (2005), Thông tư 48/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 196/2004/NĐ-CP ngày 02/12/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, Hà Nội. Bộ Thương mại (2003), Quyết định 1116/2003/QĐ-BTM ngày 9/9 về quy chế thưởng xuất khẩu đối với phần kim ngạch xuất khẩu năm 2003 vượt so với năm 2002, Hà Nội. Bộ Thương mại (2005), Kết quả vòng đàm phán Urugoay về hệ thống thương mại đa biên, Hà Nội. Chính phủ (2001), Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, Hà Nội. Chính phủ (2002), Quyết định số 110/2002/QĐ-TTg ngày 21/8 của Thủ tướng Chính phủ về việc lập, sử dụng và quản lý Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng, Hà Nội. Chính phủ (2002), Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9 của Thủ tướng Chính phủ về việc lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Hà Nội. Chính phủ (2004), Nghị định số 196/2004/NĐ-CP ngày 02/12 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh dự trữ quốc gia, Hà Nội. Chính phủ (2005), Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 26/4 về khuyến nông - khuyến ngư, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết 07-NQ/TM ngày 27/11 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. Trần Thanh Hải (2002) Hỏi đáp về WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Xuân Lưu (Chủ biên) (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. MUTRAP (2004), Những vấn đề cơ bản về pháp luật thương mại quốc tế và quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội Tổ chức thương mại thế giới (1994), Hiệp định nông nghiệp. Tổng cục thuế (2003), Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, Hà Nội. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia - Ngân hàng thế giới (2005), Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO, Kỷ yếu diễn đàn Hà Nội tổ chức ngày 3 - 4/6. Ủy ban Quốc gia hợp tác kinh tế quốc tế, Tìm hiều tổ chức thương mại thế giới (WTO). trang web www.wto.org. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2491.doc
Tài liệu liên quan