Chính sách tỷ giá hối đoái của VN hiện nay và ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Thương mại (cụ thể tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI & KINH TẾ QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ QUỐC TẾ -----o0o----- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (Trường hợp: Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương) Hà Nội, tháng 04 năm 2010 MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Tỷ giá mậu dịch VND/USD qua các năm từ 1985 – 1989 5 Đồ thị 1.1: Tỷ giá USD/VND năm 1990 – 1991 6 Đồ t

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5110 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái của VN hiện nay và ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Thương mại (cụ thể tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị 1.2 : Diễn biến tỷ giá chính thức USD/VND từ 1992 - 1999 9 Đồ thị 1.3 Tỷ giá VND/USD năm 2001 – 2003 11 Đồ thị 1.4 Tỷ giá VND/EUR năm 2001 -2003 12 Đồ thị 1.5. Tỷ giá VND/NDT năm 2001 - 2003 12 Bảng 1.2: Diễn biến tỷ giá, tương quan giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực song phương. 13 Đồ thị 1.6 : Tỷ giá USD/VND 2008 - 2009 17 Đồ thị 2.1: Cơ cấu trình độ nhân sự Oceanbank 30 Đồ thị 2.2: Tăng trưởng nhân sự từ 2006 – 2009 31 Bảng 2.1: Doanh số mua bán ngoại tệ của Oceanbank 40 Đồ thị 2.3 : Tỷ trọng từng loại ngoại tệ 2009 41 Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng TMCP Đại Dương 41 Đồ thị 2.4: Biến động tỷ giá VND/USD 2008 – 2010 43 Bảng 2.3 : Trạng thái ngoại hối năm từ 2007 đến năm 2009 44 Bảng 2.4 : Thu nhập và rủi ro từ tỷ giá từ 15/3/2010 đến 31/3/2010 44 Đồ thị 3.1 Vốn điều lệ của NH Đại Dương từ 2006 – 2010* 56 Bảng 3.1 : Hạn mức giao dịch ngày đề nghị 57 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ Tiếng Anh Tiếng Việt 1 L/C Letter of Credit Thư tín dụng 2 NHNN Ngân hàng nhà nước 3 NHTM Ngân hàng thương mại 4 TGHĐ Tỷ giá hối đoái 5 TTNTLNH Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần 7 NH Ngân hàng 8 WTO World Trade Organization Tổ chức kinh tế thế giới 9 TTNH Trạng thái ngoại hối 10 KDNT Kinh doanh ngoại tệ 11 ĐVT Đơn vị tính 12 GDP Gross Domestic Product Tổng thu nhập quốc dân LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu hướng hội nhập hóa toàn cầu, nền kinh tế thị trường không chỉ bó hẹp trong nội bộ từng quốc gia nữa mà ngày càng mở rộng và vươn ra ngoài lãnh thổ của mỗi nước. Điều đó đã giúp cho nền kinh tế của các quốc gia phát triển vượt bậc nhờ vào quan hệ giao thương với nước ngoài. Mỗi một nước lại có một chế độ tiền tệ khác nhau, một loại đồng tiền lưu thông đặc thù. Bên cạnh đó, do sự khác nhau về xuất phát điểm, điều kiện tự nhiên hay do những điều kiện tác động khác đã làm cho kinh tế các nước phát triển không đồng đều, dẫn đến mỗi đồng tiền của mỗi nước cũng có độ mạnh yếu khác nhau. Vì vậy để lưu thông hàng hóa trên thế giới người ta phải quy đổi đồng tiền nước này ra đồng tiền nước khác theo một tỷ lệ mà thường gọi là tỷ giá hối đoái. Trong quá trình lưu thông hàng hóa đó, đã hình thành nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM để giúp những nhà xuất nhập khẩu chuyển đổi tiền tệ nhằm thực hiện thương mại quốc tế và hoàn thiện rủi ro tỷ giá. Như vậy có thể thấy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ giá hối đoái. Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ. Thống đốc ngân hàng Lê Đức Thúy từng phát biểu: “ Kinh doanh bao giờ cũng có rủi ro, kinh doanh ngoại tệ lại càng rủi ro bởi đánh giá được biến động của các đồng tiền trên thị trường quốc tế chỉ tính bằng phút. Chỉ cần tính sai là lỗ”. Do tỷ giá biến động thường xuyên và khó dự đoán nên rủi ro tỷ giá trở thành rủi ro đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng. Vì vậy, việc nghiên cứu chính sách tỷ giá và ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hết sức cần thiết để từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu phòng ngừa và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá hối đoái từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Xuất phát từ vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài “Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở những lý luận về tỷ giá hối đoái, đề tài tập trung phân tích diễn biến tỷ giá trong ngắn hạn và dài hạn. Bên cạnh đó tìm hiểu về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng. Nghiên cứu các tác động của tỷ giá đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ, để từ đó đưa ra một số giải pháp thích ứng của ngân hàng trước những biến động của tỷ giá nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài lấy tỷ giá hối đoái giữa VND với các ngoại tệ khác làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu là những nội dung cơ chế chính sách của Nhà nước đối với TGHĐ. Bên cạnh đó, xem xét đến tình hình hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHTMCP Đại Dương, sự ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NH. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp thống kê phân tích, phân tích tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp nghiên cứu trường hợp. Đồng thời kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phân tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, cũng như dựa trên quy luật tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình thành nên chuyên đề. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, bố cục của đề tài có 3 chương: Chương 1: Thực trạng chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay. Chương 2: Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHTM (trường hợp Ngân hàng TMCP Đại Dương) Chương 3: Giải pháp thích ứng của ngân hàng trước biến động tỷ giá hối đoái hiện nay Chương 1 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 1.1.1. Thời kỳ trước 1989 Sau khi thống nhất đất nước đến trước năm 1989, hệ thống chính sách và cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp XHCN ở miền Bắc đã được áp dụng trên phạm vi cả nước. Cơ chế này đã đem lại những thành tựu nhất định trong huy động sức người, sức của cho công cuộc giải phóng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh,… Tuy nhiên, do duy trì cơ chế này quá lâu nên đã nảy sinh những mâu thuẫn, rối loạn sâu sắc trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Dưới cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước can thiệp vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy chính sách tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ thời kỳ này là chế độ tỷ giá cố định – đa tỷ giá, do Nhà nước quy định không tính đến biến động giá trên thị trường, đã hình thành một hệ thống tỷ giá khá phức tạp được xác lập theo quan điểm kinh tế cũ. Năm 1955, khi Việt Nam bắt đầu có quan hệ ngoại thương với Trung Quốc, các nhà kinh tế đã lựa chọn phương pháp xác định tỷ giá trên cơ sở ngang giá sức mua giữa 2 đồng tiền và sau đó được quy định trong các Hiệp định thanh toán. Cụ thể, tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và đồng Nhân dân tệ (CNY) của Trung Quốc được xác định là 1CNY=1470 VND (ngày 25/11/1955). Đến năm 1956, khi Việt Nam quan hệ ngoại thương với Liên Xô thì tỷ giá giữa VND và Rúp Liên xô (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa đồng CNY với đồng SUR đã có sẵn từ trước là 1SUR=0,5 CNY, suy ra 1 SUR=735 VND. Tỷ giá thời gian này thường cố định trong thời gian dài và chúng được điều chỉnh từng đợt theo sự thay đổi về năng suất lao động giữa hai nước. Tỷ giá được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch, do Nhà nước quyết định, không xuất phát từ thực tại nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước. Tỷ giá thời kỳ này không giữ được vai trò chủ động là công cụ điều chỉnh vĩ mô thực thụ. Tỷ giá hối đoái xác định một cách duy ý chí, không tuân thủ quy luật kinh tế. Với chế độ tỷ giá này không những cản trở các quan hệ kinh tế của nước ta với khối SEV, mà còn gây nhiều khó khăn trong trao đổi thanh toán nộ bộ, trong công tác quản lý điều hành của Nhà nước, đặc biệt là thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu. Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985), đặc biệt sau khi thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Sự thay đối tỷ giá giữa VND và USD miêu tả qua bảng sau: Bảng 1.1: Tỷ giá mậu dịch VND/USD qua các năm từ 1985 – 1989 Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường Chênh lệch (%) 1985 15 115 666,6 1986 80 425 431,2 1987 368 1.270 245,1 1988 3.000 5.000 66,6 1989 3.900 4.100 5,12 Nguồn: PGS.PTS Nguyễn Công Nghiệp – Lê Hải Mơ – Tỷ giá hối đoái – Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh – NXB Tài Chính 1996 Có thể thấy viêc chỉ áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng Trung ương áp đặt tạo nên khoảng chênh lệch khá xa so với sức mua thực tế của USD và thị trường “chợ đen”, mặc dù mức chênh lệch này cũng đã giảm rõ rệt qua các năm. Tóm lại, với chính sách tỷ giá hối đoái cố định thời kỳ trước năm 1989 đã không những triệt tiêu tính năng động, không phát huy được vai trò của tỷ giá còn gây không ít khó khăn cho quản lý, điều hành trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hiệu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Vì thế, nhu cầu đổi mới chính sách tỷ giá hối đoái trở thành vấn đề cấp bách. 1.1.2. Thời kỳ từ năm 1989 đến năm 1999 Có thể nói, năm 1989 là mốc quan trọng trong sự phát triển chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta khi quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống ở Đông Âu và Liên Xô bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng Đô la Mỹ. Vì thế cơ chế tỷ giá cố định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường. Việc làm này đã chấm dứt trạng thái đồng nội tệ đánh giá cao so với đồng tiến nước khác. Tỷ giá thực được quyết định trước hết qua quan hệ cung – cầu trên thị trường. Trong năm 1990 – 1991, tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng đô la Mỹ tăng liên tục: Đồ thị 1.1: Tỷ giá USD/VND năm 1990 – 1991 Nguồn: TS Nguyễn Thị Thư – Tỷ giá hối đoái – chính sách và tác động của nó đối với ngoại thương qua thực tiễn phát triển kinh tế một số nước – NXB Chính trị Quốc gia – 2004 Những số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá VND/USD từ cuối năm 1990. Đỉnh cao của mức tăng giá trị đồng đôla Mỹ là cuối năm 1991. Giá đôla Mỹ trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60% đến 80% so với mức đầu năm. Tháng 8/1991 Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh được mở, tiếp đó là trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội vào tháng 11/1991 nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua – bán ngoại tệ với nhau theo giá thỏa thuận. Cũng trong năm 1992, Việt Nam bãi bỏ hình thức quy đinh tỷ giá nhóm hàng thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu. Thay vào đó, hình thành các phiên giao dịch ngoại tệ do NHNN công bố tỷ giá chính thức. Cùng với các biện pháp hỗ trợ khác, từ tháng 3/1992 tỷ giá hối đoái đã dịu xuống giảm chỉ còn 11.550 VND/USD, và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992. Như vậy, mặc dù giai đoạn 1989 – 1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà nước đã có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hóa. Duy trì tương đối ổn định tỷ giá này đã khiến khoảng cách giữa tỷ giá của Nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do ngày càng tăng. Cùng với đó là xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng đôla Mỹ ở cả khu vực Nhà nước và thị trường. Mức tăng giá đôla Mỹ đã kích thích tâm lý dự trữ đồng ngoại tệ này nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá, khiến cho tình trạng khan hiếm ngày càng tăng. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của Chính phủ ít đem lại hiệu quả. Cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo, cộng với sự can thiệp, điều tiết của Ngân hàng Nhà nước đối với lượng ngoại tệ tại các phiên giao dịch đã giải tỏa tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng giá đôla trên thị trường. Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1992 đã tăng 22,9% so với năm 1991. Đồng thời, vào thời điểm này lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng tăng. Ước tính nhân dịp Tết Nguyên Đán, có khoảng 60 ngàn Việt Kiều về nước, mang theo lượng lớn ngoại tệ khoảng 300 – 400 triệu USD. Cùng với chủ trương thu hút FDI của Chính phủ cũng đã thu hút một lượng vốn lớn khoảng 2589 triệu USD. Vì vậy, tình hình cung cầu ngoại tệ bớt căng thẳng, giá Đôla Mỹ giảm nhanh. Mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân tại Hà Nội năm 1993 trung bình từ 10.300 đến 10.400 VND/USD, tại thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 9.750 VND/USD. Để hạn chế ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, NHNN phải can thiệp nhằm tăng giá USD bằng cách mua USD làm ngăn chặn xu hướng giảm giá quá mức đồng tiền này. Nhờ vậy từ tháng 3 năm 1993, USD đã tăng và duy trì ổn định. Ngày 4/8/1994, Chính phủ ban hành quyết định số 396/TTg quy định việc sử dụng ngoại tệ trên tài khoản của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp chỉ để lại một phần để chi tiêu, còn lại phải bán hết cho Ngân hàng. Quyết định này cũng quy định mọi hoạt động thanh toán, mua bán, chi trả đều phải thực hiện qua ngân hàng, công ty tài chính được phép, quy định sử dụng đồng Việt Nam, tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, hạn chế sử dụng ngoại tệ, hướng tới mục tiêu chỉ lưu hành VND trên đất Việt Nam. Ngày 20/10/1994, quy định 203/QD – NH ra đời quy định thay hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh bằng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mang tính thị trường cao hơn, linh hoạt hơn, sâu rộng và khách quan hơn Trung tâm giao dịch trước đây. Và thông qua thị trường liên ngân hàng, tỷ giá được xác dịnh phản ánh thực tế sức mua của VND và được NHNN công bố hằng ngày trên phương tiện thông tin đại chúng. Trên cơ sở tỷ giá đó, NHTM sẽ xác định tỷ giá giao dịch với Ngân hàng theo biên độ 5% so với tỷ giá công bố. Đồ thị 1.2 : Diễn biến tỷ giá chính thức USD/VND từ 1992 - 1999 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu báo cáo thường niên của NHNN Thống kê tài chính quốc tế IFS các năm) Cuối năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khởi nguồn từ Thái Lan đã lan sang Hàn Quốc, Malaixia, Indonexia, Philipine,Hồng Kông, Xingapo, khiến đồng tiền của các Quốc gia rớt giá liên tục so với USD. Tỷ giá giai đoạn này biến động khá phức tạp, có xu hướng tăng nhanh kèm theo các cơn sốt giá ngoại tệ đã tạo ra sự mất cân bằng về cung – cầu ngoại tệ trên thị trường. Trong bối cảnh đó, Ngày 27/02/1997, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 45/QĐ – NH7 mở rộng biên độ giao dịch lên ± 5%. Đồng thời, để giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho Ngân hàng thanh toán L/C trả chậm trong năm 1997, NHNN đã ban hành Quy chế mở L/C nhập hàng trả chậm kèm theo Quyết định số 207/QĐ – NH7 ngày 01/7/1997, trong đó quy định cụ thể các điều kiện đối với ngân hàng và doanh nghiệp để được mở L/C tra chậm, mức ký quỹ tối thiểu khi mở L/C, thời hạn trả không quá 1 năm,… Ngoài ra Chính phủ cũng tăng cường cung cấp thông tin nhằm hạn chế hoạt động đầu cơ và giảm tâm lý hoang mang. Ban hành các công văn về quy định hạn mức vay ngắn hạn nước ngoài và bảo lãnh vay ngắn hạn của Ngân hàng, trách nhiệm của NHTM có liên quan,… Tuy nhiên, từ tháng 7/1997, đồng Việt Nam tăng giá khá cao so với khu vực, vì thế NHNN phải điều chỉnh biên độ lần nữa từ ± 5% đến ± 10% vào tháng 10/1997 khiến cho tỷ giá giao dịch tại các NHTM là 12.293 VND/USD trong khi thực tế là 13.567 VND/USD. Điều này tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ tăng, làm cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng, hoạt động quản lý ngoại hối gặp khó khăn. Vì vậy đến tháng 02/1998, NHNN phải nâng tỷ giá từ 11.175 VND/USD lên 11.800 VND/USD và 12.988 VND/USD vào tháng 08/1998, và thu hẹp biên độ giao dịch xuống ± 7%. Các biện pháp này đã từng bước cải thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam. Nói chung, trong giai đoạn từ 1989 đến 1999, chính sách tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo hướng thích nghi với tình hình mới, góp phần đảm bảo nền kinh tế ổn định, vượt qua cơn khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, và trên thế giới, giúp đồng Việt Nam giảm giá trị so với ngoại tệ khác, tốc độ tăng giá USD cũng giảm theo. 1.1.3 Giai đoạn từ 1999 đến nay Thời kỳ từ 1999 đến 2007 Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, Việt Nam đã lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết. Từ bỏ cơ chế tỷ giá neo mềm, theo đó tỷ giá thị trường được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do NHNN công bố và một biên độ được ấn định sẵn. Ngày 26/02/1999, NHNN đã đưa ra quyết định thay thế tỷ giá chính thức bằng tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và bán đối với đôla Mỹ không vượt quá 0,1% so với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hằng ngày. Đây là lần đầu tiên tỷ giá do NHNN công bố phản ánh mức tỷ giá do thị trường quyết định. NHNN tham gia vào thị trường liên ngân hàng bằng hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường này. Hành động này thực chất là được soi đường bởi một “tỷ giá mục tiêu”. Tỷ giá mục tiêu là mức tỷ giá mà tại đó các nguồn lực tài chính được phân bổ một cách hiệu quả nhất. Như vậy sự đổi mới này làm cho tỷ giá trên thị trường vận động một cách khách quan, phản ánh đúng các quan hệ cung – cầu về ngoại tệ trên thị trường, phù hợp với cơ chế tỷ giá trên thế giới. Tuy nhiên, do biên độ dao động so với tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng quá hẹp (0,1%) nên trong khoảng thời gian 1999 – 2001, tỷ giá VND/USD chỉ biến động một chiều, không thúc đẩy việc yết giá cạnh tranh giữa các Ngân hàng, thủ tiêu tính năng động của thị trường. Vì thế từ ngày 01/07/2002, NHNN đã ra quy định 5 kỳ hạn với biên độ nới rộng hơn trước: tăng 0,25% so với mức 0,1% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; 0,5% so với 0,4% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày, … việc điều chỉnh này đã đáp ứng được yêu cầu của tổ chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với Ngân hàng. Ngoài ra, NHNN còn có các biện pháp hỗ trợ cho chính sách tỷ giá về phương diện quản lý như: tỷ lệ kết hối giảm từ 100% xuống 80% rồi 40% và cuối cùng là 0% vào tháng 04/2003; đưa vào sử dụng nghiệp vụ bán ngoại tệ SWAP, … Đồ thị 1.3 Tỷ giá VND/USD năm 2001 – 2003 Đồ thị 1.4 Tỷ giá VND/EUR năm 2001 -2003 Đồ thị 1.5. Tỷ giá VND/NDT năm 2001 - 2003 Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF Qua các đồ thị trên có thể thấy VND đã xuống giá liên tục so với USD trong giai đoạn 2001 – 2003, mặc dù nhịp độ mất giá đã giảm vào cuối năm 2003. Trong khi đó EUR lên giá nhanh chóng so với VND. Tỷ giá VND/NDT cũng có xu hướng biến đổi giống như tỷ giá giữa USD và VND, do Trung Quốc gia tăng dự trữ ngoại tệ để giữ đồng NDT khỏi lên giá. Kể từ năm 2004, tỷ giá VND/USD đã dần hồi phục khi mức lạm phát của Việt Nam tăng cao đột biến hơn so với nhiều năm trước đó (9,5%).Vào thời kỳ này việc điều hành chính sách tỷ giá ngày càng trở nên linh hoạt hơn qua nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất (tháng 5/2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11/2004). Các NHTM tiến hành thí điểm quyền chọn đôla Mỹ và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6/2005). Bỏ biên độ giao dịch đôla Mỹ tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7/2006). Bảng 1.2: Diễn biến tỷ giá, tương quan giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực song phương. Năm Tỷ giá chính thức % lên giá của VND Tỷ gía thực song phương USD/VND 2001 15070 -5.2 1.103 2002 15368 -3.9 1.100 2003 15608 -3.8 1.105 2004 15736 +7.1 1.051 2005 15859 +17.3 1.012 2006 15950 +26.4 0.983 (Nguồn : Tổng hợp số liệu NHNN, Tổng cục thống kê và IFS các năm) Theo bảng số liệu trên có thể thấy từ năm 2004, VND đã lên giá đáng kể so với USD do nguồn vốn nước ngoài chảy vào ngày càng nhiều. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, VND có phá giá nhẹ song vẫn lên giá so với hầu hết các đồng tiền khác. Từ cuối năm 2007 thì VND đã lên giá khá nhanh và mạnh (có thời điểm lên tới 25% so với 2006). Thời kỳ từ 2008 đến nay Trong năm 2008, thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt kể từ tháng 01 đến tháng 8/2008. Nhưng từ tháng 9/2008 cho đến hết năm 2008 đến nay, NHNN chuyển dần sang điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, nhằm góp phần phòng chống sự suy giảm kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Bên cạnh đó, NHNN cũng thực hiện nhiều giải pháp tăng cường quản lý ngoại hối và tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng hội nhập quốc tế, tăng quyền tự chủ hơn cho các NHTM. Đồng thời để cho tỷ giá diễn biến linh hoạt hơn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, hướng tới khuyến khích xuất khẩu. Bởi vậy cơ chế quản lý ngoại hối và điều tỷ giá của NHNN trong năm 2008 đã tạo nhiều thuận lợi hơn cho NHTM. Có thể điểm qua các quyết định cụ thể trong chính sách quản lý tỷ giá trong năm 2008 như sau: Từ ngày 24/12/2006, NHNN điều chỉnh biên độ giao dịch ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng từ ± 0,5% lên ± 0,75% so với tỷ giá do NHNN công bố. Từ ngày 10/03/2008, NHNN điều chỉnh biên độ giao dịch trong mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng từ mức 0,75% tăng lên ± 1,0% Ngày 26/6/2008, Thống đốc NHNN có quyết định sô 1436/QĐ – NHNN nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá từ mức ± 1,0% tăng lên ± 2%so với tỷ giá liên ngân hàng do NHNN công bố, thực hiện kể từ ngày 27/6/2008. Quyết định số 2635/QĐ – NHNN của Thống đốc NHNN điều chỉnh biên độ mua bán ngoại tệ giao ngay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng từ ± 2% lên ± 3% thực hiện từ 7/11/2008. Kể từ ngày 25/12/2008, NHNN điều chỉnh mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua là 3% đối với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Với biên độ này, tỷ giá mua bán của các NHTM nhìn chung cũng điều chỉnh tăng lên trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng của NHNN. Theo đó mặt bằng tỷ giá mới sẽ góp phần kích thích xuất khẩu, kiềm soát nhập khẩu và đảm bảo bền vững cán cân thanh toán quốc tế. Như vậy, năm 2008 NHNN đã đưa ra khá nhiều quyết định về tỷ giá nhằm kiểm soát lạm phát và những ảnh hưởng do khủng hoảng tài chính gây ra. Những quyết định này đã tác động đến tỷ giá trong năm 2008. Trên thị trường ngoại tệ diễn ra 2 nghịch lý tại hai thời điểm khác nhau, đó là đầu tháng 3/2008, tỷ giá xuống quá thấp, cung ngoại tệ tăng mạnh, NHTM hạn chế mua vào. Nhưng từ cuối tháng 5/2008 đến đầu tháng 6/2008, xảy ra cơn sốt ngoại tệ trên thị trường tự do và tác động lên thị trường chính thức. Đến cuối tháng 10/2008 xẩy ra cơn sốt tỷ giá lần thứ 2 trong năm nhưng mức độ không lớn bằng đợt đầu tháng 6/2008. Giá đôla Mỹ trên thị trường tự do được đánh giá là “ sụt giảm nghiêm trọng” ở thời điểm đầu tháng 3 đến ngày 14, 19/3/2008, giá mua vào đôla Mỹ là 15.470 – 15.480 VND/USD, bán ra 15.550 VND/USD, giảm mạnh so với mức giá ngày 07/03/2008. Mức giá kể từ ngày 11/03/2008 là mức tỷ giá thấp nhất kể từ giữa năm 2003 đến thời điểm đó và giảm tới 600 đồng/USD trong hơn 3 năm qua. Trên thị trường mua bán ngoại tệ của các NHTM đối với doanh nghiệp và khách hàng, tỷ giá bán ra của các NHTM chỉ còn 15.860 VND/USD ngày 14/03/2008 nhưng vẫn còn có khoảng cách khá xa so với tỷ giá trên thị trường tự do. Trên thị trường tự do, nếu như đầu năm 2008, tỷ giá còn dao động quanh mức 16.000 VND/USD – 16.200 VND/USD, thì đến giữa tháng 3/2008 tỷ giám giảm xuống còn 15.400 VND/USD. Nhưng từ cuối tháng 5 đã có thời điểm tăng lên 19.000 – 19.200 VND/USD, ngày 19/6/2008 còn lên tới đỉnh điểm là 19.800 VND/USD. Tính ra chỉ trong thời gian khoảng 1 tháng, tỷ giá đã tăng lên 14%, đây là mức tăng hiếm gặp trong nhiều năm qua và biến động bất thường, tăng tới gân 20% trong khoảng 3 tháng. Khoảng từ cuối năm 2008, tỷ giá lại tăng nhẹ, tỷ giá mua bán của NHTM với doanh nghiệp xoay quanh mức 16.900 – 16.980 VND/USD, tỷ giá trên thị trường tự do cũng có thời điểm tăng lên tới 17.400 VND/USD. Sự biến động này có thể giải thích rằng, nếu như trong quý 1/2008, tỷ giá giảm là do lượng kiều hối dồn về nhiều từ cuối năm 2007 đến tháng 02/2008 khi việt kiều về nước, áp lực từ việc nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu Chính phủ khoảng 1,4 tỷ USD, doanh nghiệp xuất khẩu vay USD chuyển đổi ra VND sản xuất kinh doanh, các NHTM bán USD để trạng thái đoản, thì đến quý 2, tỷ giá tăng là hệ quả của nhiều yếu tố khác. Trước hết, thâm hụt cán cân thương mại lớn (7,22 tỷ USD trong 3 tháng từ  tháng 4 - 6); nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả doanh nghiệp xuất và nhập khẩu đến hạn cao; tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong  nước và quốc tế. Tiếp theo, nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc  bán trái phiếu Chính phủ ròng chuyển ngoại tệ về nước. Thống kê của Tổ nghiên cứu của BIDV cho thấy, chỉ trong tháng 9 và 11/2008, khối đầu tư nước ngoài đã bán ròng 0,7 tỷ USD trái phiếu Chính phủ và 100 triệu USD cổ phiếu các loại. Bên cạnh đó, nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài vẫn cao, ước khoảng 40 triệu USD/ngày. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả doanh nghiệp và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, một lý do khiến cung ngoại tệ thấp là Ngân hàng Nhà nước ban hành QĐ 09/2008/QĐ, không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu và vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu, giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ bán lại trên thị trường. Thêm vào đó, thâm hụt thương mại có dấu hiệu tăng trở lại. Chỉ trong 2 tháng 10 và 11/2008, thâm hụt thương mại lên tới 1,17 tỷ USD. Ngoài ra, một áp lực nữa làm cho cầu USD tăng là do Nhà nước không cho phép nhập khẩu vàng, khiến vàng nhập lậu ngay lập tức tăng lên, làm tăng cầu USD do USD là đồng tiền chính để thanh toán giao dịch vàng. Năm 2008 khép lại là một năm có khá nhiều biến động về tỷ giá hối đoái do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Sang năm 2009 được coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá chính thức giữa USD và VND tăng mạnh. Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã phải trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3(± 2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là tháng 11 (± 3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của NHNN. Đồ thị 1.6 : Tỷ giá USD/VND 2008 - 2009 Nguồn: Global Financial Data, Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của Trường Fulbright. Qua đồ trên có thể thấy tình hình tỷ giá bắt đầu diễn biến tăng liên tục từ đầu năm 2009, thị trường ngoại hối luôn trong tình trạng căng thẳng. Dường như chính sách tỷ giá của NHNN chỉ nhằm rút ngắn khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do, thu hút lượng ngọai hối về ngân hàng để phục vụ mục tiêu điều hành của Chính phủ. Nguyên nhân của tình trạng căng thẳng tỷ giá này là do VND đã chịu sức ép giảm giá so với USD trong một thời gian dài. So với đầu năm 2007, VND đã tăng giá khoảng 20% so với USD tính theo tỷ giá thực, trong đó nguyên nhân lạm phát (đo bằng CPI) ở Việt Nam trong hai năm 2007 và 2008 là rất cao, lần lượt là 12,7% và 20%. Đáng lưu ý là trong năm 2009, mặc dù CPI ở mức thấp (6,52%) nhưng sức ép giảm giá VND vẫn được duy trì, lần này là do thâm hụt cán cân thanh toán. Thực tế lạm phát của Việt Nam từ năm 2007 – 2009 là trên 40%, trong khi lạm phát ở Mỹ cùng thời kỳ là 20%. Nhưng vào khoảng thời gian đó, tỷ giá chính thức USD/VND thay đổi không đáng kể, khiến VND bị định giá cao ngay trong tương quan tỷ giá với USD. Vì vậy, sự điều chỉnh tỷ giá vừa qua là cần thiết, bất chấp động thái này có vẻ như ngược lại với xu hướng mất giá chung của USD trên thị trường thế giới. Linh hoạt tỷ giá, ngày càng trở thành phương châm hành xử phổ biến trong chính sách tỷ giá của hơn ¾ số nước trên thế giới hiện nay. Việc tiếp tục nới lỏng tỷ giá VND/USD lần thứ hai cho thấy kỳ vọng của người cầm tiền đã đúng, củng cố tâm lý tiếp tục găm giữ ngọai tệ và thị trường lại khan hiếm dòng vốn ngọai tệ luân chuyển, ngân hàng tiếp tục nâng tỷ giá và .... “khép kín một vòng tròn luẩn quẩn”. Dù thế nào thì việc tỷ giá niêm yết biến động mạnh với tần suất cao, không có tín hiệu cho trước  để "đuổi theo" tỷ giá tự do cũng sẽ là một trong những hệ quả xấu của chính sách. Mặt khác, quyết định hành chính này cũng đẩy mạnh kỳ vọng của người cầm tiền USD vào những biến động trong tương lai của tỷ giá. Những thay đổi chính sách tỷ giá vừa qua, có thể đem lại những tác dụng tức thời nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, nhưng sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường bằng quyết định hành chính sẽ để lại cho xã hội tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ. Những người làm chính sách cần phải có xem xét toàn diện hơn khi triển khai những quyết định thay đổi tỷ giá bất ngờ, không thể ra quyết định chỉ phục vụ giải quyết tình huống mà quên đi những tác động có tính dài hạn hơn. 1.2 ĐÁNH GIÁ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI DOÁI CỦA VIỆT NAM 1.2.1 Thời kỳ trước năm 1989 Đây là thời kỳ nền KT mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, Nhà nước can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, quyết định các chính sách KT vi mô và vĩ mô theo một kế hoạch quy mô tập trung toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng các quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển KT hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối, do đó độc quyền trong việc ban hành và ấn định tỷ giá. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở KT như vậy, VN cũng như các nước XHCN khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngoại giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những Hiệp định thanh toán đựơc ký kết giữa các nước XHCN với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá này là các nước XHCN duy trì chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung, trong đó có thị trường ngoại hối, là nơi gặp gỡ cung cầu ngoại tệ, từ đó hình thành nên tỷ giá thị trường. Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25955.doc