Chính sách tỷ giá của Việt Nam thực trạng và giải pháp

1. Khái niệm về tỷ giá và chính sách tỷ giá 1.1 Khái niệm về tỷ giá Có nhiều khái niệm về tỷ giá được đưa ra từ những trường phái khác nhau: Theo trường phái cổ điển: Tỷ giá là so sánh ngang giá vàng trong nội dung đồng tiền mỗi nước. Khái niệm này đúng trong chế độ bản vị vàng, theo chế độ bản vị vàng các quốc gia ấn định giá trị đồng tiền của mình với vàng: 1 ounce vàng đổi được bao nhiêu đồng tiền mỗi nước, từ sự ngang giá vàng đó tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác định. Như vậy bản vị vàn

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tỷ giá của Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giữa hai đồng tiền trở thành tỷ giá hối đoái. Theo trường phái tự nhiên học: Tỷ giá là quan hệ, là hệ số dùng để chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Theo trường phái này thì tỷ giá được công bố cố định bởi ngân hàng trung ương cho phép đổi lượng đơn vị tiền tệ của nước này sang tiền tệ nước khác và tỷ giá này không chịu sự tác động của bất kỳ yếu tố thị trường nào. Theo trường phái hiện đại: Tỷ giá là giá cả đồng tiền nước này được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ nước khác. Theo Kinh tế chính trị Mác-Lênin giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị đồng tiền của một quốc gia được xác định dựa vào cung cầu tiền tệ nước đó. Như vậy khái niệm mà trường phái hiện đại đưa ra, tỷ giá đã được xác định dựa trên quan hệ cung cầu trên thị trường. Tỷ giá được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu chính là tỷ giá mà các nền kinh tế đều hướng tới. Do đó có thể đưa ra định nghĩa về tỷ giá như sau: “ Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác”. Phân loại: Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tỷ giá: Thứ nhất: Căn cứ vào cơ chế quản lý tỷ giá được phân loại thành tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi và tỷ giá thả nổi có quản lý. Tỷ giá cố định: Là tỷ giá được NHTW công bố cố định trong một biên độ dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định, buộc NHTW phải thường xuyên can thiệp, do đó làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi. Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: Là tỷ giá được hình thành hoàn toàn theo cung cầu thị trường, NHTW không hề can thiệp. Tỷ giá thả nổi có quản lý: Là tỷ giá thả nổi, nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Thứ hai: Căn cứ vào mốc thời gian tỷ giá được phân loại thành tỷ giá đóng và tỷ giá mở. Tỷ giá đóng: Là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng giao dịch cuối cùng trong ngày. Thông thường các ngân hàng không công bố tỷ giá của tất cả các hợp đồng được kí kết trong ngày, mà chỉ công bố tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá đóng là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh tình hình biến động của tỷ giá trong ngày. Tỷ giá mở: Là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng giao dịch đầu tiên trong ngày. Thứ ba: Căn cứ theo nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tỷ giá được phân loại thành: Tỷ giá giao ngay: Là tỷ giá được thỏa thuận hôm nay nhưng việc thanh toán diễn ra trong vòng 2 ngay làm việc tiếp theo. Tỷ giá kỳ hạn: Là tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay nhưng việc thanh toán diễn ra sau đó từ 3 ngày làm việc trở lên. Tỷ giá hoán đổi = tỷ giá kỳ hạn - tỷ giá giao ngay. Đây là tỷ giá được áp dụng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ: là giao dịch trong đó gồm hai giao dịch: giao ngay và kỳ hạn. Tỷ giá quyền chọn: Là tỷ giá được áp dụng trong giao dịch quyền chọn. Đối với tỷ giá này ngoài yếu tố cung cầu, còn phụ thuộc vào mức phí quyền chọn là cao hay thấp, do đó tỷ giá quyền chọn có thể cao hơn hoặc thấp hơn đáng kể so với tỷ giá giao ngay, tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá hợp đồng tương lai: Là tỷ giá được áp dụng trong giao dịch hợp đồng tương lai. Thứ tư: Căn cứ theo cách thể hiện tỷ gá được phân loại thành tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do. Tỷ giá chính thức (Ở Việt Nam hiện nay là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng): Là tỷ giá do NHTW công bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá này được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. Ngoài ra ở VN tỷ giá chính thức còn là cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho phép. Tỷ giá tự do: Là tỷ giá hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường tự do quyết định. Thứ năm: Căn cứ theo bản chất tỷ giá được phân loại thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực. Tỷ giá danh nghĩa: Là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập tới tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. Tỷ giá thực: Là tỷ giá được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước ngoài, do đó nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Thứ sáu: Căn cứ theo hồ sơ, chứng từ thanh toán tỷ giá được phân loại thành: Tỷ giá điện hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Ngày nay do ngoại hối được chuyển chủ yếu bằng điện nên tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng là tỷ giá điện hối. Tỷ giá thư hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư ( không phổ biến). Tỷ giá tiền mặt: Là tỷ giá áp dụng cho ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch và thẻ tín dụng. Thông thường tỷ giá mua tiền mặt thấp hơn và tỷ giá bán tiền mặt cao hơn tỷ giá chuyển khoản. Tỷ giá chuyển khoản: Là tỷ giá áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ là các khoản tiền gửi tại ngân hàng. 1.2 Khái niệm chính sách tỷ giá. Theo nghĩa rộng: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ ( mà đại diện thường là NHTW) thông qua 1 chế độ tỷ giá nhất định và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Chế độ tỷ giá là các loại hình tỷ giá được các quốc gia lựa chọn áp dụng, bao gồm các quy tắc, cơ chế xác định, phương thức mua bán, trao đổi giữa các thể nhân và pháp nhân trên thị trường ngoại hối Các quốc gia khác nhau có thể áp dụng các chế độ tỷ giá khác nhau và trong một quốc gia ở mỗi thời kỳ có thể áp dụng các chế độ tỷ giá khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của từng thời kỳ. Căn cứ vào vai trò của chính phủ và vai trò của thị trường trong việc hình thành tỷ giá có 3 chế độ tỷ giá đặc trưng sau: Chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ gái thả nổi hoàn toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Chế độ tỷ giá cố định: Là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can thiệp để duy trì một mức tỷ giá cố định ( gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy trong chế độ này NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá hoặc duy trì sự biến động của nó trong một biên độ dao động hẹp đã định trước. Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ can thiệp nào của NHTW. Trong chế độ tỷ giá này, sự biến động của tỷ giá là không có giới hạn và luôn luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Chính phủ tham gia vào thị trường ngoại hối với tư cách là thành viên bình thường nghĩa là chính phủ có thể mua vào hoặc bán ra một đồng tiền nhất định để phục vụ cho mục đích hoạt động của chính phủ chứ không nhằm mục đích can thiệp ảnh hưởng lên tỷ giá hay để cố định tỷ giá. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Khác với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết tồn tại khi NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ giá cố định hay một biên độ dao động hẹp xung quanh tỷ giá trung tâm. Chẳng hạn NHTW không công bố và không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ phần trăm nhất định so với ngày hôm trước. Đây được xem như chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ gíá thả nổi hoàn toàn. Các công cụ can thiệp của chính phủ: Công cụ can thiệp của chính phủ gồm hai nhóm công cụ: nhóm công cụ tác động trực tiếp và nhóm công cụ tác động giá tiếp: Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá: Được thực hiện thông qua hoạt động của NHTW trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định ( trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra ( trong chế độ tỷ giá thả nổi). Để tiến hành can thiệp, buộc NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Hơn nữa các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền tệ trong lưu thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế; chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông. Do có những hạn chế nhất định, nên các NHTW của các nước phát triển đã dần dần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu. Ngoài ra trong nhóm công cụ trực tiếp phải kể đến các biện pháp can thiệp hành chính của chính phủ có thể áp dụng là: Biện pháp kết hối: Là việc chính phủ quy định đối với các thể chế và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời gian nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời, để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ. Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng ngoại tệ, số lượng mua ngoại tệ, thời điểm được mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định. Với xu thế mở cửa của nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính, thì các biện pháp can thiệp hành chính ngày càng trở nên không phù hợp. Chính vì vậy, xu thế trên thế giới là ngày càng hạn chế can thiệp hành chính và chuyển mạnh sang sử dụng các công cụ thị trường. Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá: Đầu tiên là công cụ lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu, sẽ có tác dụng làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường: lãi suất thị trường tăng háp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất tái chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược chiều. Thứ hai là thuế quan: Thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, nhập khẩu làm cho cung nội tệ giảm, kết quả làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại. Thứ ba là hạn ngạch: Hạn ngạch có tác dụng hạn chế nhập khẩu, do đó có tác dụng lên tỷ giá giống như thuế quan cao. Thứ tư là giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khi đó nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu: bù giá làm tăng nhập khẩu, kết quả là làm cho nội tệ giảm giá. Ngoài các công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kỳ chính phủ ( chủ yếu là các nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số biện pháp cá biệt khác: + Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM: Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, NHTW có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng lên; để kinh doanh có lãi buộc các NHTM phải hạ thấp lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại tệ phải bán đi lấy nội tệ, làm tăng cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. + Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ + Quy định trạng thái ngoại tệ với các NHTM ngoài mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối. II. Chính sách tỷ giá của Việt Nam qua các giai đoạn trong các giai đoạn từ năm 1955 đến nay 1. Thời kỳ 1955- 1989: Đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, Nhà nước can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, quyết định các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô theo một kế hoạch quy mô tập trung toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối do đó độc quyền trong việc ban hành và ấn định tỷ giá. Vì vậy việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định, không cần tính đến yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, Việt Nam cũng như các nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngoại giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những Hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá này là, Việt Nam cũng như các nước XHCN khác duy trì chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung trong đó có thị trường ngoại hối, là nơi gặp gỡ cung cầu ngoại tệ, từ đó hình thành nên tỷ giá thị trường. Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thị trường, làm cho hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương (lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng vẫn triệt tiêu động lực phát triển xa hơn. 2. Thời kỳ 1989-1999: Từ năm 1989 Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế mở, thực hiện đa dạng hóa: đa dạng hóa các thành phần kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu; đa dạng hóa quan hệ. Để thực hiện cơ chế kinh tế mở, Nhà nước Việt Nam đã chuyển tỷ giá hối đoái từ chế độ đa tỷ giá sang chế độ tỷ giá thống nhất được xác định theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bằng cách ấn định tỷ giá chính thức có biên độ giao dịch. Tỷ giá mua bán của các NHTM được phép dựa trên tỷ giá chính thức do NHNN công bố ± 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0.5%. Trong thời gian này, Nhà nước đã mở hai trung tâm giao dịch gồm trung tâm giao dịch ngoại tệ TP HCM và trung tâm giao dịch ngoại tệ Hà Nội để cho các doanh nghiệp và ngân hàng mua bán, trao đổi ngoại tệ theo giá thỏa thuận. Đồng thời NHNN công bố tỷ giá chính thức dựa trên cơ sở tỷ giá được hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ. Hoạt động của hai trung tâm này chính là hình thức sơ khai của thị trường ngoại hối. Hoạt động của 2 trung tâm này đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc điều hòa cung cầu ngoại tệ, tạo phương thức kinh doanh giao dịch mang tính thị trường góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế...tuy nhiên với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ đã bộc lộ những hạn chế không thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn quốc gia, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và TP HCM. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra Quyết định số 203/QĐ – NH9 ngày 20/9/1994 về việc thành lập Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng và Quyết định số 203/QĐ- NH13 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Và khi đó tỷ giá chính thức được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích luỹ những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại và cán cân thanh toán chuyển trạng thái từ thặng dư năm 1991-1992 sang trạng thái thâm hụt, bắt đầu tích luỹ sự mất cân đối bên ngoài và dần chuyển sang gây mất ổn định và mất cân đối bên trong nền kinh tế. Bởi vì, về bản chất, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế đối ngoại mà nó còn tác động đến các vấn đề kinh tế đối nội thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu – một nguồn lực được coi là khan hiếm ở Việt Nam. Điều này đã đi ngược với chiến lược phát triển kinh tế dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động. Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng. Phân tích những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển đầu đủ và mở cửa nên không bị kéo ngay vào làn sóng của cuộc khủng hoảng, nhưng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã nhận thấy tính chất nghiêm trọng của ổn định chế độ tỷ giá danh nghĩa kéo dài – một nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có những biện pháp xử lý tương đối hợp lý, ngăn chặn được những cú sốc không cần thiết đối với nền kinh tế. Vì vậy tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lãi suất VND có xu hướng giảm, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xẩy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiền gửi tăng từ mức 33% năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm 2001. Ngược lại thì các khoản vay bằng ngoại tệ/ trên tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ mức năm 1997: 31,3%, năm 1998: 25,4, năm 1999: 16,1%, năm 2000: 20,6%, năm 2001: 21%. Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động đáng kể. Điều này, có thể sẽ gây mất cân đối nguốn vốn và với sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn hoạt động của các NHTM. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999, cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy có thể thấy rằng, đó cũng chính là cái giá phải trả khi lựa chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì sự ổn định của tỷ giá danh nghĩa quá lâu. Và một khi duy trì tỷ giá cố định càng dài thì cái giá phải trả càng lớn. 3. Thời kỳ 1999 đến nay: Để tránh những hậu quả tương tự như giai đoạn trước, chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh hoạt, phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở thích của người tiêu dùng, lạm phát, lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ… để chống đỡ được các cú sốc của nền kinh tế. Do đó, từ năm 1999, ngân hàng nhà nước chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%; sau đó từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên ± 0.25%. Đây là bước cải cách có ý nghĩa lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang một cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu của thị trường, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Việc can thiệp của Nhà nước đối với tỷ giá được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành chính chủ quan trước đây. Từ đó cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến động của thị trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Tóm lại, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả. 4. Đánh giá về việc điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. 4.1. Những kết quả đạt được: Việc xử lý chính sách tỷ giá của VN trong thời gian qua là tương đối hợp lý đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài chính tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Ngoài ra sự tương đối ổn định của tỷ giá trong thời gian qua đã góp phần tích cực trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trong năm 2008, để kiểm soát tình hình lạm phát cao trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bên cạnh các giải pháp giữ ổn định các mức lãi suất (không thay đổi lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất chiết khấu), trong năm 2008, NHNN thực hiện điều chỉnh tỷ giá, không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng Việt Nam; tiếp tục mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước trên cơ sở nguồn tiền cung ứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp hút tiền về phù hợp với tình hình thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ. Trong tháng 4, tỷ giá bình quân liên ngân hàng dao động trong khoảng 15.956-15.967 đồng/USD. Các ngân hàng thương mại đã luôn bám sát trần cho phép trong giao dịch ngoại tệ. Trên thị trường tự do, tỷ giá VND/USD biến động theo xu hướng tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng và đang ở mức 16.160 – 16.190 đồng/USD. Tỷ giá VND/EUR vẫn theo sát diễn biến của đồng EUR trên thị trường quốc tế. Đến cuối tháng 4, tỷ giá trên thị trường chính thức ở mức 25.082-25.390 đồng/EUR, giảm 0,74% so với tháng trước và tăng 6,96% so với cuối năm 2007; tỷ giá trên thị trường tự do ở mức 25.250-25.350 đồng/EUR. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng là người cư trú nhằm khuyến khích cho vay ngoại tệ để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; đồng thời hạn chế cho vay đối với nhu cầu mà khách hàng không nhất thiết phải sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ. Bên cạnh việc ưu tiên xem xét mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ dương và mua ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu, NHNN cũng đã kịp thời bán ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức tín dụng. Do tạo được sự đồng thuận, trong tháng 4, lãi suất huy động ngoại tệ giảm 0,05%-0,15%/năm; lãi suất cho vay USD hầu như không thay đổi. Trên thị trường liên ngân hàng, do vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng thiếu hụt nên trong tháng 4, lãi suất phổ biến ở mức 9,64%-11,38%/năm, tăng khoảng 0,96%/năm - 3,88%/năm so với tháng trước. Tổng số dư tiền gửi ngoại tệ của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 4/2008 tăng khoảng 1,73%. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ đến cuối tháng 4 tăng 1,64%./. 4.2. Những mặt còn hạn chế: Bên cạnh những kết qủa đạt được việc điều hành chính sách tỷ giá của NHNN VN trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế: Thứ nhất: Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết ở VN hiện nay vẫn chưa có tính linh hoạt cao Thứ hai: Hiện nay VND đang được định giá cao so với tỷ giá cân bằng cung cầu điều này được thể hiện ở chỗ trên thị trường ngoại hối cung cầu ngoại tệ luôn căng thẳng, tỷ giá giao dịch luôn ở mức kịch trần Thứ ba: Trong chính sách tỷ giá, chỉ áp dụng duy nhất 1 loại ngoại tệ là đôla từ đó gây ra hiện tượng đôla hóa trong nền kinh tế. Thứ tư: NHNN chưa làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xuyên xảy ra III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tỷ giá hối đoái 1. Nâng cao năng lực các công cụ can thiệp tỷ giá Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Do lượng ngoại tệ dự trữ của VN còn quá thấp nên công cụ này chưa đủ sức để giữ vai trò chủ đạo trong điều chỉnh tỷ giá. Sau đây là một số đề xuất: + Xây dựng khung pháp lý thích hợp cho nghiệp vụ thị trường mở. + Tranh thủ tối đa khả năng tích lũy ngoại tệ, đồng thời duy trì mức dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhà nước, ngay cả ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước có được cũng phải bán ngay cho Ngân hàng Nhà nước và khi có nhu cầu thì mua lại như những đơn vị khác. + Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ. Cụ thể, khi cần tung dự trữ ngoại tệ vào thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh cho các tổng công ty nhập khẩu các mặt hàng chiến lược (như xăng dầu). Điều này giúp đảm bảo ngoại tệ dự trữ được sử dụng đúng cho hoạt động ngoại thương. + Lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi. Trong số các đồng tiền mạnh hiện nay, đáng quan tâm chỉ có ba loại: USD, EUR và JPY. Công cụ lãi suất tái chiết khấu: Bản thân lãi suất chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá vì đóng vai trò là biến ngoại sinh; tuy nhiên nó lại tác động trực tiếp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh vì gắn liền với chi phí sử dụng vốn. Do vậy, việc sử dụng công cụ này cần nhiều sự cân nhắc. Luồng vốn ra vào nền kinh tế VN chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đầu tư gián tiếp và dòng vốn ngắn hạn gần như không có do thị trường chứng khoán và tiền tệ chưa phát triển. Tình trạng này hãy còn tiếp diễn trong nhiều năm. Hơn nữa, giao dịch vốn chưa được mở cửa một phần bởi các quy định của Chính phủ, một phần do điều kiện tài chính VN chưa chín muồi và đồng VN chưa được tự do chuyển đổi. Tất cả cho thấy lãi suất chưa thể có ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá. Tác động của nó chỉ giới hạn ở chỗ làm thay đổi những dòng tiền tệ lưu thông trong thị trường nội địa, từ nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại. Vậy, giải pháp để từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ này sẽ đồng nhất với việc tự do hóa tài khoản vốn quốc gia (mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn và đầu tư gián tiếp). Đây cũng chính là con đường từng bước đưa đồng VN trở thành một đồng tiền chuyển đổi. Công cụ hành chính: Những biện pháp hành chính trong thời gian qua đã đem lại hiệu quả khá tốt, nhờ chúng mà VN đã thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Tuy đây chỉ là giải pháp tình thế nhưng việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính cũng không phải khả thi. Chúng chỉ nên được nới lỏng tương xứng với mức can thiệp của các công cụ kinh tế. Để hoàn thiện công cụ này có thể tập trung vào một số điểm sau: + Tăng cường giám sát các giao dịch ngoại hối thông qua việc kiểm soát chặt hợp đồng thanh toán ngoại tệ; đề ra mức phạt nặng đối với trường hợp kê khống giá của hợp đồng xuất nhập khẩu và đối với các hành vi gian lận khác. + Duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi quy định về chế độ quản lý ngoại hối hiện hành; cương quyết trừng phạt nặng không phân biệt thành phần kinh tế nếu xuất hiện hành vi vi phạm. + Rà soát thường xuyên các văn bản pháp quy để cải tiến kịp thời 2. Hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu: Hướng tới một tỷ giá thị trường, linh hoạt, và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối: Giá cả được hình thành theo quy luật cung cầu là một trong những nhân tố quan trọng nhất để thị trường hoạt động hiệu quả. Cũng như các thị trường khác, để thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả với doanh số giao dịch lớn, có độ thanh khoản cao và chi phí giao dịch thấp thì tỷ giá phải được hình thành một cách khách quan theo quy luật cung cầu, hay nói cách khác, tỷ giá áp dụng trong các giao dịch ngoại hối phải là tỷ giá thị trường, tức tại đó cung cầu cân bằng. Nếu tỷ giá quá cao hay quá thấp so với._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25038.doc