Lời mở đầu
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do đó việc ổn định giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn định nền kinh tế.
Ngày này việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ với việc ổn định kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế. Vì vậy mà việc đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn đề thường trực. Giải pháp cho việc đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp nhiều cần tập trung vào chính sách tiền tệ nhưng việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Được sự hướng dẫn của thầy cô em xin nhận đề tài: “Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam”.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
Chương II: Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, bản thân em là người Laos chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô trong bộ môn để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: chon đao văn na
lớp:K42-02.02
Chương I
lý luận chung về chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
I. ổn định kinh tế- một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng.
Ta biết rằng nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự động tạo ra các chu kì kinh doanh, sản lượng thực tế dao động lên xuống xung quanh trục sản lượng tiền năng, nền kinh tế luôn có xu hướng không ổn định.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu: ổn đinh, tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong đó ổn định kinh tế là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế. ổn định kinh tế vĩ mô là kiểm soát được giá cả, tỷ giá, lãi suất … Bằng việc duy trì và cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là cân đối tiền- hàng, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối giữa thu- chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư, cân đối cung cầu một số mặt hàng thiết yếu nhất để từ đó làm giảm bớt những dao động của chu kì kinh doanh, giải quyết tốt những vấn đề cấp bách: Tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều.
ổn định kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng vì:
Thứ nhất: ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện cơ bản của sự phát triển xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: ổn định kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của nhà nước trong vai trò quản lý nên kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước sẽ trực tiếp can thiệp vào việc điều hành sản xuất kinh doanh, mà làm tốt chức năng định hướng cho sự phát triển xã hội (Bao gồm cả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch) đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý tốt kinh tế nhà nước, đảm bảo việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ ba: Trong thực trạng của kinh tế vĩ mô hiện nay, bên cạnh những kết quả tích cực đã xuất hiện một số hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ.
II. Khái niệm và công cụ của chính sách tền tệ.
2.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối vơi nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu kinh tê-xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đền bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khóa của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng cần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định.
2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng, Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ, phù hợp với tình hình thực tiền của nền kinh tế, đó là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền tệ.
Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiểm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hang trung ương có thể sử dụng hàng loạt các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của mình đó là các công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
2.2.1 Các công cụ trực tiếp: Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông qua chúng,NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà không cần thông qua một công cụ khác.
- ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng kinh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ là giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này sẽ làm cho các ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó đễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.
2.2.2. Các công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó có được là nhờ cơ chế thị trường.
- Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa và dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở ngân hàng trung ương và để tại quỹ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của Ngân Hàng Thương Mại và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng thương mại từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã hội. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân Hàng Thương Mại sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền.
Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn:
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW đối với các NHTM.
Công cụ này có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của NHKD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối với nền kinh tế.
III.Tác động của chính sách tiền tệ đối với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
3.1.Dự trữ bắt buộc.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bộ số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, NHTW buộc các NHTM phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào NHTW không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các NHTM.
Khi lạm phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ dự trữ bắt buộc mang tình hành chính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kì quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hòa mức cung tiền cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát.
3.2. Tái chiết khấu:
Là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tùy theo tình hình từng giai đoạn, tùy thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách nới lỏng hay thắt chặt tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ, phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các NHTM cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm cầu về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi).
3.3. hoạt động thị trường mở.
Nếu như công cụ lãi suất chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải nhờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu.. đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp vu thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó kiểm soát lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Chương II
Chính sách tiền tệ với thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
I.Sơ lược tình hình kinh tế tiền tệ Việt Nam thời gian qua:
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21 chúng ta đã thực hiện xong kế hoạch năm năm lần thứ 6 là những năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
1.1 chính sách tài chính.
Có nhiều đổi mới đã góp phần củng cổ và làm lành mạnh một bước nền tài chính quốc gia, giữ ổn định và cân đối kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 14,5% so với năm 2000 và đạt 21,6% GDP, năm 2002 tăng 14,6% và đạt 22,2% GDP. ước tình 6 tháng đầu năm 2003 tăng 9,5% và đạt 22,8% GDP. Trong các khoản thu, thu từ kinh tế nhà nước năm 2001 tăng 17,6 % và năm 2002 tăng 7,6%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 tăng 13,1% trong đó thu về dầu thô tăng 11,7%, năm 2002 tăng 2,7%, riêng dầu thô giảm 2,6%. Thu ngân sách liên tục tăng qua các năm và tăng mạnh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, chủ yếu do hệ thống thuế đã từng bước được cải cách, đây là một bước tiến bộ quan trọng của quá trình đổi mới chính sách tài chính, đã dần phù hợp với nền kinh tế thị trường và yêu cầu của hội nhập nên đã từng bước giảm được phần thất thu.
Chi ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 19,1% so với năm 2000 và băng 27% GDP, năm 2002 tăng 13,3% và băng 27,4% GDP, ước tính 6 tháng năm 2003 tăng 14% và băng 13,4%. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã có những chuyển biến theo hướng tiếp tục tăng chi thường xuyên ở mức cao. Chi đầu tư phát triển tập trung chủ yếu vào cho xây dựng hạ tầng cơ sở, xong vẫn đảm bảo luôn ở mức 1/3 tổng chi ngân sách nhà nước.
Chi thường xuyên năm 2001 tăng 15,8% và bằng 14,9%GDP, năm 2002 tăng 14.9% và bằng 15,3% GDP, 6 tháng đầu năm 2003 tăng 14,3% (kể cả chi thực hiện chế độ tiền lương mới) và băng 15,2% GDP. Chi thường xuyên đã tập trung và ưu tiên cho các nhiệm vụ quan trọng như: Giáo dục-đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP bình quân hàng năm xấp xỉ 5%, ở mức an toàn và kiểm soát được.
Thu chi ngân sách nhà nước so với GDP
2003
2004
2005
Tổng thu
20,5
21,6
22,2
Thu nội địa
10,5
10,9
11,2
Thu từ kinh tế nhà nước
4,6
4,8
4,6
Thu từ kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
1,3
1,2
1,3
Thu hải quan
4,3
4,8
5,9
Thu dầu thô
5,3
5,5
4,8
Thu viện trợ không hoàn lại
0,5
0,4
0,4
Tổng chi
24,7
27,0
27,4
Chi đầu tư phát triển
6,7
8,4
8,2
Chi trả nợ, viện trợ
3,0
3,1
3,7
Chi thường xuyên
14,0
14,9
15,3
1.2 Chính sách tiền tệ.
Hoạt động ngân hàng từng bước được chấn chỉnh, đã có một số tiến bộ trong điều hành và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục tăng, đáp ứng một phần quan trọng trong tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển sản xuất. NHNN vẫn tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, nhằm mục đích ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thị trường không có những biến động lớn về giá cả, lãi suất và tỷ giá. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng vẫn chưa phát huy mạnh mẽ vai trò là công cụ quan trọng điều tiết kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ và khả năng kiểm soát giám sát nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng còn hạn chế.
II.Sơ lược về tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của Việt Nam nhằm ổn định kinh tế.
2.1 Lãi suất.
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. ở nước ta NHTW đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm tác động tích cực đến nền kinh tế trong qua trình chuyển đối có thể thấy rõ tình linh hoạt của chinh sách lãi suất qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng VN, mức lãi suất cơ bản được công bố trong những tháng đầu năm 2002 là 0,6%/tháng. NHNN cũng đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ tháng 6 năm 2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của VN trong qua trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với những diễn biến của thị trường quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất ổn định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho các tổ chức tín dụng trong các hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8và 9 năm 2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm trí 0,72%/tháng. Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua, không dừng lại ở đó các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vốn vay trên thị trường vẫn cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng vẫn tiếp tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất huy động. Thực hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp.
2.2 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Ngày 12/7/2000, NHNN Việt Nam chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường vào hoạt động đây là một sự chuyển biến quan trọng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam, từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các cộng cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Qua hơn hai năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 tổ chức tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở trong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc dân, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng nước ngoài, một công ty tổ chức và quỹ tín dụng nhân dân TW.
Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu (NHNN bơm tiền ra), chiếm tỷ lệ từ khoảng 71% lên trên 90%.
2.3 Các công cụ khác.
- lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu:
như đã biết đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng cung ứng cho nên kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vồn và lãi suất chiết khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ. Như đã nói do tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn đây là một quyết định kịp thời đã góp phần hạ nhiệt cơn sốt lãi suất trên thị trường trong mấy tháng gần đây.
-Dự trữ bắt buộc:
NHTM sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian qua, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên ở mức thấp trong hơn hai năm qua, 2% với NHNN và NH phát triển nông thôn Việt Nam, 3% với các tổ chức tín dụng đô thị khác.
2.4.Công cụ tỷ giá.
NHNN đã rất linh hoạt trong sử dụng công cụ này. Từ ngày 1/7/2002 NHNN quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các tổ chức tín dụng. Trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quy định này đã giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Ngày 13/9/2003, thống đốc ngân hàng nhà nước đã ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán. Từ tháng 10/2002 NHNN đã có các quy định mới về trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại ... cùng với việc ban hành những chính sách nói trên, NHNN vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ, liên ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa NHTM và NHNN.
III. Những đánh giá chung về thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế Việt Nam thời gian qua.
Lãi suất.
Mặc dù những thành công của NHNN là đáng ghi nhận trong thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất như: Hình thành hệ thống lãi suất điều tiết của NHTW, sử dụng phối hợp các công cụ để điều tiết lãi suất thị trường ... nhưng hiệu quả và kết quả còn nhiều hạn chế bởi nền tảng cho cơ chế kiểm soát lãi suất chưa được thiết lập. Nó thể hiện như sau:
1.1. Chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ. Do đó chưa thực vai trò hướng dẫn sự biết động của lãi suất thị trường.
Cụ thể, mức lãi suất tái cấp vốn và lãi suất trần tăng lên vào tháng 1 năm 1998 diễn ra sau khi mức lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTM đã nhích lên từ tháng 10 năm 1997 trước đó. Tượng tự, mức lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 13,2% xuống còn 12% vào tháng 2/1999 sau khi mức lãi suất ngắn hạn có xu hướng giảm vào tháng 12 năm 1998 từ 14,7% xuống 14,5% và xuống tiếp 14% vào tháng 2/1999.
Từ thời điểm tháng 2/1999 đến tháng 8/2001, mức lãi suất thị trường giảm liên tục từ 14% xuống còn 9,3% đối với lãi suất ngắn hạn, rồi từ 14,7% xuống còn 10,3% đối với lãi suất trung hạn và dài hạn trong khi diễn biến lãi suất trần và cơ bản lại tách khỏi xu hướng thị trường, sự tăng lên của lãi suất tái cấp vốn vào tháng 2/2003 tới 6,6%/năm cũng khẳng định những diễn biến của mặt bằng lãi suất thị trường đã có xu hướng tăng vào cuối năm.
1.2 Những phản ứng của lãi suất thị trường đối với lãi suất.
Thực tế cho thấy mối quan hệ giữa các mức lãi suất lỏng lẻo, không phối hợp hiệu quả và chức năng của chúng có biên giới. Từ tháng 6/2002 NHNN chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để phản ứng biến động của thị trường tiền tệ. Mặt nữa mối quan hệ nhân quả truyền thống giữa lãi suất chủ đạo và lãi suất thị trường không được thể hiện trong mối liên hệ của lãi suất tái cấp vốn và lãi suất liên ngân hàng.
Có thể chứng mình bằng con số như sau: Vào quý 4 năm 2000 và quý 3,4 năm 2001 khi thị trường lâm vào cảnh căng thẳng về nguồn vốn VNĐ, lãi suất liên ngân hàng tăng tới 60% từ 4,5% vào tháng 9/2000 tới hơn 7% vào tháng 9/2001 và tăng nhẹ vào năm 7/2001tới 5,5% vào tháng 11,12/2001 trong khi lãi suất tái cấp vốn không có biểu hiện biến động. Hầu như từ tháng 8/2001 đến tháng 8/2002 lãi suất liên ngân hàng luôn ưu thế hơn lãi suất tái suất vốn.
1.3 Các thị trường do ngân hàng nhà nước tổ chức mà thông qua đó tác động vào lãi suất huy động vốn và cho vay của tổ chức tín dụng ngày càng lớn, quy mô tăng, doanh số cao nhưng diễn biến lại bất thường.
Trong lúc nhiều ngân hàng thương mại thiếu vốn chung, dài hạn phải huy động với lãi suất trên 8%/năm thì phải đầu tư hàng trăm tỷ đồng vào tín phiếu kho bạc nhà nước, chịu lỗ để giải quyết vần đề thanh khoản và vốn khả dụng. Ngược lại, trong khi nhiều phiên dao dịch nghiệp vụ thị trường mở lại không có thành viên. Điều đó chứng tỏ khả năng điều hành vốn khả dụng của NHTM, của NHNN chưa thông suốt. Bên cạnh đó các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn ngoài cuộc, đặc biệt là các công ty bảo hiểu lại vắng bóng trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc.
2. Công cụ thị trường mở.
Bên cạnh những kết quả khả quan nghiệp vụ thị trường mở vân bộc lộ một số hạn chế:
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là một hoạt động hoàn toàn mớ lên một số tổ chức vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia. Nghiệp vụ thì trường mở ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ỏ trình độ phát triển thấp, chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, nền kinh tế thế giới lại không ngừng biến động, môi trường hoạt động của các tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro.
-Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, mỗi phiên giao dịch chỉ có từ 1-4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các TCTD. Các thành viên tham gia là các NHTM quốc doanh do lượng hàng hóa trên thị trường chủ yếu tập trung tại các ngân hàng này, còn việc tham gia các TCTD khác trên thị trường còn nhiều mở nhạt.
- hàng hóa còn nghèo nàn, không đa dạng về chủng loại và thời hạn. Luật NHNH quy định chỉ có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được giao dịch trên thị trường mở, do vậy đã giới hạn và thu hẹp phạm vi hoạt động của thị trường mở.
3.Hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng và không tương xứng vơi tốc độ tăng nguồn vốn huy dộng của các loại vốn này. Trong vòng quay của kinh tế thị trường, nhu cầu vốn là rất cao, thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đầu tư còn rất hạn hẹp, vốn tự có của các doanh nghiệp rất nhỏ, do vậy các doanh nghiệp khi cần vốn cho sản xuất kinh doanh đều trông chờ vào nguồn vốn trung và dài hạn của hệ thông ngân hàng. Trong khi đó nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là nguồn vốn ngắn hạn nên NHTM không đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn. Tình trạng này chưa có giải pháp tối ưu, mới chỉ có giải pháp tình thế là ngành ngân hàng cho phép. Sở dĩ tình trạng trên tồn tại vì :
- Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn và ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ở giai đoạn sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần túy. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động, tiếp theo là những hạn chế của chính ngành ngân hàng trong mọi hoạt động chu chuyển nguồn vốn của các doanh nghiệp.
4. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung cấp.
Thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính NHNN đã sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn như là công cụ để điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp tổng khối lượng tiền hay tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Từ tổng khối lượng tiền cung ứng được phép tăng lên hàng năm NHNN kiểm soát chặt chẽ khối lượng tín dụng cho các NHTM qua nghiệp vụ tái cấp vốn. Tuy nhiên do trong nền kinh tế chưa lưu thông hối phiếu và thương phiếu nên NHNN chưa có điều kiện thực hiện tái cấp vốn qua tái chiết khấu các kỳ phiếu thương mại cũng như chưa tái cấp vốn qua các thế chấp bằng những chứng từ có giá. Trên tầm vĩ mô NHNN vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ các kênh tín dụng nằm ngoài ngân hàng, như khối lượng của tổng cục đầu tư và hệ thống kho bạc. Đây là 1 mảng của tổng phương tiện thanh toán cần nằm trong sự kiểm soát của NHNN>
5. Dự trữ bắt buộc:
Từ năm 1991, dự trữ bắt buộc được áp dụng như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tài chính theo pháp lệnh ngân hàng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ở mức 10-35% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các NHTM Việt Nam quyết định dự trữ bắt buộc ở mức 10%. Tỷ lệ này từ năm 1991 tới nay nhưng kỷ luật chấp hành của các NHTM chưa nghiêm túc nên tác dụng của công cụ này kém hiệu quả.
Đầu năm 1994, NHTW đã có quy định bổ xung: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đơn vị loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là 7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng công cụ này, nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo thị trường tài chính luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông hạn chế bởi số tín dụng của các NHTM như chức năng vốn có của công cụ này.
chương III
một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nước ta đang theo đuổi một chính sách phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường với định hướng XHCN và hội nhập dần với khu vực. Những ảnh hưởng chu kì do tác động của lực lượng thị trường trong và ngoài nước là hiện tượng tất yếu trong cơ chế này. Chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ phải đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt và nhạy bén nhằm giảm thiểu các biến động chu kì trong ngắn hạn và tạo sự ổn định về dài hạn. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập hơn, cơ chế thị trường vẫn đang trong quá trình thiết lập, quản lý nhà nước vẫn còn kém hiệu lực, hoạt động của các khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đạt hiệu quả cao... Trong những năm tới các cân đối kinh tế vĩ mô có nhiều khó khăn hơn đặc biệt là cân đối ngân sách, cán cân thanh toán quốc tế, lạm phát, áp lực về lao động và việc làm lớn, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực còn ảnh hưởng nhiều thêm vào đó là ảnh hưởng của thiên tai và chúng ta vẫn chưa khắc phục hết. Tuy nhiên, những thuận lợi có thể nhìn thấy được là sự ổn định về chính trị-xã hội, sự lớn mạnh về thế và lực nền kinh tế Việt Nam qua nhiều năm đổi mới, quan hệ kinh tế đối ngoại còn nhiều cơ hội để tăng thêm tiềm lực kinh tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư, góp phần hỗ trợ cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đồng thời các chính sách đã triển khai trong những năm trước sẽ phát huy tác dụng tốt. Như vây, giai đoạn tới nền kinh tế Việt Nam còn phải đối đầu với rất nhiều những khó khăn và việc giữ vững mức tăng trưởng, phát triển và ổn định là rất khó, đòi hỏi sự hoàn thiện dần của tất cả các chính sách kinh tế trong đó chính sách tiền tệ một công cụ hữu hiệu tạo lên một phần những thành công trong giai đoạn qua và sẽ là công cụ đắc lực trong giai đoạn tới.
1.Điều hành cung ứng tiền tệ.
NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong đó kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, vừa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phương tiện thanh toán của nền kinh tế theo tín hiệu thị trường, vừa kịp thời có những biện pháp để thu hút tiền mặt về, giảm bớt sức ép lạm phát. Khối lượng tiền tệ tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu có tính định hướng NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, sự biến đổi giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho việc tăng, giảm khối lượng tiền không ảnh hưởng tới giá cả thị trường và làm tắc nghẽn lưu thông. Việc điều chỉnh này phải thực hiện thông qua các nhu cầu đối ứng tạo ra trong lĩnh vực tạo tiền bằng các chính sách tín dụng về ngoại hối. Trong qua trình điều hành, căn cứ vào tín hiệu của thị trường NHNN cần điều hòa khối lượng tiền cung ứng vào các mục tiêu cho thích hợp và phương thức cung ứng tiền thông qua các kênh:
Mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ.
Cấp tín dụng cho NHTM thông qua chương trình tín dụng của nhà nước, vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo.
Cho vay tái cấp vốn và tái chiết khấu.
Cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước.
Tăng vốn điều lệ cho NHTM quốc doanh.
Nghiệp vụ thị trường mở.
Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỉ giá:
2.1 Chính sách quản lý ngoại hối.
Chính sách quản lý ngoại hối phải hướng tới mục tiêu chủ yếu là bảo vệ đồng tiền Việt Nam, tạo tiền đề cho tương lai có một đồng tiền Việt Nam chuyển đổi. Chính sách quản lý ngoại hối cần được kết hợp chặt chẽ với chính sách ngoại thương để có ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0528.doc