Tài liệu Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng năm 1986 của Việt Nam cho đến nay đã thu được nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Con đường đổi mới đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng đói nghèo, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa – hiện đại hoá, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Điều này được thể hiện đặc biệt đậm nét trong những năm đ... Ebook Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006
111 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu của thế kỷ 21 vừa qua và cho thấy Việt Nam đang vững bước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù vậy, song song với những thành tựu đó, nhiều mối quan tâm cũng đã nảy sinh trước các vấn đề kinh tế của đất nước và nổi bật chính là hoạt động điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát tình hình lạm phát.
Trong giai đoạn 2001-2006 vừa qua, đây chính là hai vấn đề thường xuyên thu hút được sự quan tâm chú ý của dư luận cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế và chắc chắn sẽ để lại cho các nhà quản lý nhiều bài học quý giá trong công tác điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Trước thực tế như vậy và với việc vận dụng nền tảng lý thuyết trong các môn học Tài chính tiền tệ, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế chính trị, Kinh tế phát triển,… khoá luận tốt nghiệp này sẽ tập trung nghiên cứu và phân tích đề tài: “Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006”.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp,… khoá luận sẽ trình bày lý thuyết về chính sách tiền tệ và lạm phát một cách khái quát, sau đó, đi sâu nghiên cứu, đưa ra bức tranh chung về tình hình điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và vấn đề kiểm soát lạm phát trong giai đoạn 2001-2006. Trên cơ sở đó, xu hướng lạm phát trong những năm tới cũng như một số kiến nghị đối với việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát tình trạng này sẽ được đề xuất.
Với những nội dung cơ bản như trên, khoá luận tốt nghiệp được trình bày theo 3 chương:
Chương I : Những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và lạm phát;
Chương II : Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006;
Chương III : Xu hướng lạm phát thời kỳ tới và một số kiến nghị đối với việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Lê Thanh Thuỷ A, giảng viên môn Kinh tế vĩ mô, khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, người đã có những hướng dẫn, gợi ý và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Trong quá trình thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, nhận xét, đánh giá thông tin và đề xuất kiến nghị, chắc chắn, khoá luận không thể tránh khỏi những điểm thiếu sót và hạn chế. Do đó, rất mong nhận được ý kiến đóng góp và giúp đỡ từ phía người đọc và những người quan tâm đến đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11/2007
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những chính sách quan trọng đối với việc điều tiết nền kinh tế của một quốc gia và có liên quan trực tiếp đến sự vận động và phát triển của thị trường tiền tệ. Do đó, trước hết, cần nghiên cứu tổng quan về thị trường tiền tệ cũng như các chủ thể chính của nó là ngân hàng trung ương (NHTW) và hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM).
Tổng quan về thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ
Khái niệm về thị trường tiền tệ
Có nhiều quan niệm về thị trường tiền tệ, sau đây là một số định nghĩa phổ biến về loại thị trường này:
Theo quan điểm của giáo sư Federic S. Mishkin, trường đại học Columbia, Hoa Kỳ, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Tiền tệ, ngân hàng và các thị trường tài chính”, thị trường tiền tệ là “một thị trường tài chính trong đó chỉ có những công cụ nợ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm) được mua bán” [2].
Theo quan điểm của một số tác giả Việt Nam, thị trường tiền tệ là “một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn hạn” [4].
Theo khoản 2, điều 9, Luật NHNN 2003: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác”.
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra kết luận: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mọi chủ thể đều có thể tham gia giao dịch các công cụ nợ ngắn hạn (có thời hạn dưới một năm)”.
Đặc điểm của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ có 5 đặc điểm chính như sau:
(1) Thị trường tiền tệ là tập hợp các thị trường của một số công cụ tài chính riêng biệt; đó là những công cụ ngắn hạn, có tính thanh khoản cao và độ rủi ro thấp như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi… mỗi loại tạo nên thị trường riêng của mình và giữa các thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
(2) Thị trường tiền tệ là thị trường mang tính chất bán buôn, có khối lượng giao dịch lớn. Đơn vị tính toán tiêu chuẩn của thị trường tiền tệ thường là rất lớn. Ví dụ như: ở thị trường tiền tệ New York, đơn vị bán là 1 triệu USD.
(3) Thị trường tiền tệ có số người tham gia đông đảo; người môi giới và người kinh doanh được chuyên môn hoá ở trình độ cao để đáp ứng cung cầu về tiền tệ.
(4) Thị trường tiền tệ hoạt động trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau, và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng chứ không diễn ra ở một địa điểm cụ thể. Thị trường này hoạt động liên tục suốt ngày đêm thông qua một mạng điện thoại, máy tính kết nối những người mua và những người bán, giữa những phòng giao dịch của thị trường tiền tệ với nhau và giữa thị trường tiền tệ và khách hàng của nó.
(5) Hình thức giao dịch của thị trường tiền tệ rất đa dạng với các hình thức cụ thể như: Mua bán giao ngay, chiết khấu, mua bán kỳ hạn, giao dịch hợp đồng ngoại hối tương lai, giao dịch quyền chọn, giao dịch hoán đổi, thoả thuận mua lại… [1].
Chức năng của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ có 3 chức năng chính sau:
(1) Huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đến người cần sử dụng
Trong nền kinh tế, không phải tất cả các thành phần kinh tế đều cân bằng được những khoản thu nhập với những khoản chi, tiêu đầu tư. Một số thành phần thừa vốn trong ngắn hạn như các hộ gia đình có thu nhập tăng lên trong năm nay nhưng chi tiêu không tăng lên tương ứng; các doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi nhuận hơn năm trước và quỹ khấu hao tài sản của họ không phải dùng để mua máy móc trong năm nay; thu của chính phủ nhiều hơn chi… Cũng trong điều kiện đó, nhiều gia đình, doanh nghiệp khác lại thiếu vốn do chi cho đầu tư và tiêu dùng nhiều hơn thu nhập. Thành phần thừa vốn không muốn giữ tiền của mình trong túi vì như thế tiền sẽ không sinh lời. Thành phần thiếu vốn phải đi tìm nguồn vốn để đầu tư vì nếu không, cơ hội đầu tư sẽ bị bỏ lỡ. Thị trường tiền tệ đóng vai trò huy động những nguồn vốn tạm thời dư thừa này từ những người thừa vốn để đem đến cho thành phần thiếu vốn và cả hai bên cùng có lợi.
Trên bình diện toàn xã hội, thị trường tiền tệ đã góp phần chuyển các nguồn vốn tiết kiệm thành nguồn vốn đầu tư sinh lời, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và tăng hiệu quả kinh tế toàn xã hội.
(2) Tạo thanh khoản cho nền kinh tế
Chức năng này xuất phát từ chức năng thanh toán của tiền tệ. Khi một người sở hữu một giấy tờ có giá, lúc cần tiền để thanh toán, trả nợ hay tiêu dùng, anh ta có thể đem chúng ra bán trên thị trường tiền tệ một cách dễ dàng để thu tiền mặt về. Tạo thanh khoản là một trong những vai trò quan trọng nhất của thị trường tiền tệ. Sự chuyển hoá các giấy tờ có giá thành tiền mặt sẽ giải quyết nhu cầu tiền mặt kịp thời của cá nhân, doanh nghiệp khi cần. Nó tạo ra niềm tin và sự an tâm cho người đầu tư vào việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. Không có thị trường tiền tệ, nhiều khoản nợ sẽ không được thanh toán kịp thời và ngược lại nhiều khoản tiền lúc chưa dùng đến lại phải nằm yên trong dự trữ.
Hai chức năng vừa kể trên là hai chức năng cơ bản nhất của thị trường tiền tệ; chúng gắn bó mật thiết với nhau và tác động hỗ trợ cho nhau. Người có tiền nhàn rỗi muốn mua tài sản tài chính để sinh lời thì phải tìm đến người có giấy tờ có giá thanh khoản và ngược lại.
(3) Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ
Từ 2 chức năng trên, tiền sẽ được điều từ nơi thừa đến nơi thiếu để tạo ra một sự cân bằng thoả mãn các nhu cầu xã hội. Không có thị trường tiền tệ thì việc điều hoà tiền tệ sẽ không thể thực hiện được vì lượng cung về tiền sẽ không tìm ra lượng cầu đầy đủ, các công cụ của CSTT của NHTW sẽ không thể phát huy tác dụng.
Nhờ có thị trường tiền tệ, NHTW cũng giảm đến mức thấp nhất lượng tiền cung ứng cho các NHTM, tức là giảm được áp lực phát hành tiền không phù hợp với lợi ích của nền kinh tế.
Cũng nhờ có thị trường tiền tệ, chính phủ có thể giải quyết nhu cầu tài trợ ngắn hạn của mình dễ dàng bằng cách bán các tín phiếu kho bạc trên thị trường này. NHTW giảm được áp lực cung ứng tiền cho chính phủ và như vậy giảm được áp lực gia tăng khối lượng tiền phát hành ngoài ý muốn [2].
Phân loại thị trường tiền tệ
Tùy theo mục đích, thị trường tiền tệ được phân loại dựa trên một số số căn cứ chủ yếu như cơ cấu tổ chức, phạm vi đối tượng giao dịch và đặc trưng các loại hàng hoá giao dịch.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức
Thị trường tiền tệ sơ cấp
Đây là nơi thực hiện việc mua bán lần đầu các chứng khoán ngắn hạn mới của ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc, doanh nghiệp như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi…; do đó, thị trường này còn có một tên gọi khác là thị trường phát hành. Các loại chứng khoán này được mua bán với khối lượng lớn (theo từng lô) và thể thức mua bán chủ yếu thông qua đấu giá. Đối tượng bán chứng khoán này là những người cần vốn phục vụ cho mục đích chi tiêu như kho bạc nhà nước, các ngân hàng và các công ty kinh doanh… Còn đối tượng mua là các NHTM, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các nhà kinh doanh tiền tệ và đông đảo công chúng.
Thị trường tiền tệ thứ cấp
Đây là thị trường chuyên tổ chức mua bán các chứng khoán đã phát hành ở thị trường tiền tệ sơ cấp. Sau khi đã mua hàng hoá ở thị trường sơ cấp, những người chủ sở hữu các chứng khoán đó không đợi đến hạn để thu hồi vốn và lãi mà chào bán chúng trên thị trường thứ cấp. Sau mỗi lần giao dịch, quyền sở hữu và quyền đòi nợ các chứng khoán đó được chuyển từ người này sang người khác nhưng nghĩa vụ trả nợ của người vay nợ (người phát hành) thì không thay đổi [1].
Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Đây là thị trường vốn ngắn hạn do NHTW tổ chức để giải quyết nhu cầu của các NHTM khi các ngân hàng này muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời dư thừa ở một số ngân hàng này với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua các tài khoản của họ ở NHTW nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc, bù đắp số thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Trên thị trường này, lãi suất thị trường được hình thành trên cơ sở cung cầu với tính chất bán buôn do đây là thị trường giữa các nhà chuyên kinh doanh tiền tệ và hiểu biết lẫn nhau.
NHTW tham gia thị trường với tư cách người quản lý: quản lý thị trường, điều hành lưu thông tiền tệ và lãi suất thông qua việc mua bán trên thị trường và không hoạt động vì mục đích kinh doanh.
Trên thị trường này, việc mua bán thường diễn ra theo phương thức đấu giá trực tiếp. Toàn bộ giao dịch được tiến hành thông qua hệ thống điện tín trên cơ sở các lệnh gửi đến từ các bên mua, bên bán. Việc thông báo kết quả trúng thầu cũng được thực hiện bằng các thông báo qua hệ thống điện thoaị, fax…
Thị trường tiền tệ mở rộng
Đây là thị trường mà các chủ thể tham gia được mở rộng hơn so với thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Thị trường này bao gồm các ngân hàng, công ty kinh doanh, môi giới và công chúng… Đặc trưng của thị trường này là mua bán qua trung gian môi giới tiền tệ. Giá cả có thể là giá đấu thầu hoặc thoả thuận. Thị trường này là thị trường của những nhà kinh doanh, nghĩa là họ bán ra chứng khoán theo từng lô nhỏ, lẻ với giá định trước hoặc bán ra những loại chứng khoán lớn bằng cách đấu giá. Do có các chủ thể được mở rộng nên đây là môi trường thuận lợi cho NHTW can thiệp để điều tiết lượng cung ứng tiền tệ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường này [1].
Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá trên thị trường tiền tệ
Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn
Là thị trường chuyên giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển nhượng được như: tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, các phiếu thuận trả của ngân hàng… Các chứng khoán này được mua bán trên thị trường theo phương thức chiết khấu. Đây là thị trường rất năng động, sôi nổi, là bộ phận quan trong nhất của thị trường tiền tệ và phát triển rất nhanh chóng. Cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các chứng khoán ngắn hạn cũng không ngừng được phát hiện mới và bổ sung. Các chứng khoán ngắn hạn cũng là công cụ để NHTW sử dụng để điều hành CSTT của mình thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường ngoại hối
Đây là thị trường chuyên môn hoá việc mua bán các loại ngoại tệ và xác định tỷ giá cho từng ngoại tệ trên cơ sở cung cầu đối với từng loại ngoại tệ đó. Thị trường này là nơi cung cấp, đáp ứng nhu cầu về vốn ngoại tệ của các chủ thể kinh tế và cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế, đồng thời cũng là nơi để NHTW kiểm soát cung cầu ngoại tệ, tỷ giá và dự trữ ngoại hối.
Thị trường ngoại hối thường đặt dưới sự quản lý của NHTW và sự can thiệp của NHTW vào thị trường sẽ quyết định rất lớn đến tỷ giá hối đoái. Các hàng hoá được mua bán trên thị trường này gồm: các loại ngoại tệ, hối phiếu và các lệnh chuyển đổi tiền của khách hàng.
Cùng với việc mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, các nhu cầu thanh toán, chi trả nước ngoài, thị trường ngoại hối ngày càng phát triển, phạm vi hoạt động ngày càng lớn, vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia và thị trường ngoại hối quốc tế đã được ra đời [1].
Vai trò của NHTW trên thị trường tiền tệ
NHTW là chủ thể quan trọng và đặc biệt trên thị trường tiền tệ. NHTW tham gia vào thị trường tiền tệ và sử dụng các công cụ của CSTT với những mức độ khác nhau.
NHTW là người đưa ra các CSTT, các thiết chế nhằm ổn định tình hình tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm thị trường tiền tệ hoạt động có hiệu quả và có tổ chức. NHTW can thiệp vào hoạt động của thị trường bằng cách can thiệp vào quá trình tạo lập ra tiền của các tổ chức tín dụng và tác động đến cung cầu tiền tệ thông qua các công cụ quản lý trực tiếp và gián tiếp.
Ngoài ra, NHTW còn đóng vai trò là người môi giới trung gian ở thị trường tiền tệ, giúp các ngân hàng trong việc thanh toán bù trừ lẫn nhau mà không phải vận chuyển tiền từ ngân hàng này đến ngân hàng khác bằng cách thiết lập phòng giao dịch tại trụ sở của NHTW. Vai trò này mang lại lợi ích cho NHTW và tiết kiệm nhiều chi phí cho các ngân hàng trên thị trường.
NHTW còn thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng dưới các hình thức như cho vay theo theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá ngắn hạn, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Với vai trò này, NHTW còn thường được gọi là “ngân hàng của các ngân hàng”.
Vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ
Các ngân hàng thương mại (NHTM) là những trung gian tài chính hoạt động chủ yếu trên thị trường tiền tệ. Các NHTM tham gia thị trường với mục đích duy trì khả năng thanh toán, tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để thu lợi nhuận cũng như vay vốn cần thiết với chi phí thấp nhất.
NHTM là người trung gian có tầm quan trọng đặc biệt trên thị trường tiền tệ vì:
Đây là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ tiền gửi và dùng số tiền gửi này để cho khách hàng vay.
Các ngân hàng này tạo ra tiền tệ vì với chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng, NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để thanh toán… Khi chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, các NHTM chưa thể tạo được tiền mà chỉ khi thực hiện việc cho vay họ mới bắt đầu làm được điều đó.
Khả năng tạo tiền của NHTM được thể hiện ở mức mở rộng tiền gửi. Mức này phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (còn được gọi là số nhân tiền tệ m):
(rd là tỷ lệ dự trữ bắt buộc)
Tuy nhiên, trong thực tế khả năng tạo tiền còn bị giới hạn bởi lượng dự trữ quá mức (lượng dự trữ mà các NHTM muốn giữ tại ngân hàng của mình); mặt khác, không phải tất cả các khoản tiền gửi của khách hàng đều được cho vay hết nên nó còn phụ thuộc vào lượng vay của khách hàng so với tiền gửi thanh toán. Khi đó công thức xác định hệ số mở rộng tiền gửi bằng:
(C/D là tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi không kì hạn
ER/D là tỷ lệ tiền dự trữ quá mức trên tiền gửi không kì hạn) [2].
Tóm lại, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra mua bán các loại chứng khoán ngắn hạn. Các chứng khoán ngắn hạn, tức hàng hoá của thị trường tiền tệ, bao gồm: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, hợp đồng mua lại, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, tín phiếu ổn định tiền tệ... Thị trường tiền tệ thực hiện các chức năng: giải quyết cung-cầu vốn đem lại, khả năng thanh toán và khả năng thu lợi nhuận cho các thành viên tham gia như các NHTM, kho bạc nhà nước, nhà đầu tư người môi giới và người kinh doanh; thị trường tiền tệ còn là môi trường để NHTW điều hành CSTT thông qua các công cụ trực tiếp và gián tiếp. Về phân loại thị trường tiền tệ, căn cứ vào cơ cấu tổ chức ta có thị trường tiền tệ sơ cấp và thị trường tiền tệ thứ cấp; căn cứ vào phạm vi các đối tượng giao dịch ta có thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng; căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá giao dịch ta có thị trường giao dịch các chứng khoán ngắn hạn và thị trường ngoại hối.
Chức năng và vai trò của CSTT và phân loại công cụ quản lý lượng cung tiền
Khái niệm và mục tiêu của CSTT
Khái niệm
Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô về tiền tệ thông qua các công cụ của NHTW để điều tốt quá trình cung ứng, lưu thông tiền tệ, tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.
Để thực hiện CSTT, NHTW sử dụng hai nhóm công cụ: nhóm công cụ quản lý trực tiếp và nhóm công cụ quản lý gián tiếp. Các công cụ quản lý trực tiếp là nhóm công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông và thị trường tiền tệ và ngược lại, các công cụ quản lý gián tiếp là nhóm công cụ tác động gián tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông và thị trường tiền tệ [6].
Mục tiêu của CSTT
Trong cuốn Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và các thị trường tài chính, tái bản lần thứ 7 của mình, Frederic S. Miskhin đã chỉ rõ CSTT có 6 mục tiêu cơ bản là: (1) ổn định việc làm, (2) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, (3) ổn định giá, (4) ổn định lãi suất, (5) ổn định các thị trường tài chính và (6) ổn định các thị trường ngoại hối [29].
Ổn định việc làm
Ổn định việc làm là một mục tiêu rất cần thiết vì hai lý do chính sau: (1) Tình hình thất nghiệp tăng cao sẽ dẫn đến nhiều khó khăn cho người dân khi các gia đình gặp phải gánh nặng tài chính, kéo theo tình hình xã hội bất ổn, tình hình tội phạm gia tăng… (2) Khi thất nghiệp ở mức cao, nền kinh tế không những dư thừa về lực lượng lao động mà còn dư thừa cả các nguồn lực về cơ sở vật chất, tài nguyên… và dẫn đến sản lượng giảm, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Với vai trò là một bộ phận của chính sách kinh tế tổng hợp, CSTT cũng phải góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu tăng trưởng việc làm bởi vì các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng hơn khi thất nghiệp ở mức thấp, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu thất nghiệp cao, trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng sẽ không được sử dụng, các doanh nghiệp sẽ không tiếp tục đầu tư và điều này ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, CSTT đóng vai trò điều tiết gián tiếp thông qua kích thích tăng trưởng việc làm. Ngoài ra, CSTT cũng có tác động trực tiếp đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hoặc khuyến khích người dân tiết kiệm qua đó tạo ra nhiều nguồn vốn cho các doanh nghiệp thông qua công cụ lãi suất.
Ổn định giá
Trong thực tế, ổn định giá được coi là mục tiêu quan trọng nhất của CSTT bởi các nhà quản lý trên thế giới đều nhận thức rất rõ được những tác động xấu về kinh tế và xã hội của lạm phát ở mức cao. Ổn định giá là rất cần thiết vì khi giá cả tăng cao, nền kinh tế có nguy cơ bất ổn và điều này ảnh hưởng đến tăng trưởng. Khi giá cả thay đổi quá mạnh, các “tín hiệu” phát ra từ giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ rất khó “giải mã” và ảnh hưởng đến việc ra quyết định của người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ. Người dân không biết nên dành dụm bao nhiêu cho sinh hoạt trong tương lai, doanh nghiệp không biết cần có bao nhiêu tiền mặt trong quỹ dự phòng, chính phủ “lúng túng” trong việc đưa ra những chính sách kinh tế… Đó còn là chưa kể đến việc tình hình xã hội sẽ trở nên bất ổn khi xung đột lợi ích giữa các nhóm người xảy ra do giá cả bất ổn định.
Ổn định lãi suất
Ổn định lãi suất về thực chất cũng là ổn định giá cả bởi lãi suất là giá cả của khoản tiền vay. Lãi suất biến động có thể gây ra những xáo trộn trong nền kinh tế và khiến việc lập kế hoạch cho tương lai trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, tăng lãi suất cũng không phải là lựa chọn đầu tiên của các NHTW bởi làm như vậy sẽ tạo ra tâm lý thù địch đối với các ngân hàng này và thúc đẩy quan điểm cần phải cắt giảm quyền lực của họ.
Ổn định các thị trường tài chính
Các cuộc khủng hoảng tài chính có thể ảnh hưởng đến khả năng lưu chuyển vốn cho những người đang có cơ hội đầu tư có khả năng sinh lời cao, qua đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế. Do đó, việc góp phần tạo ra một sự ổn định cho thị trường tài chính là một mục tiêu của NHTW. Ổn định các thị trường tài chính có thể được củng cố bởi một sự ổn định trong lãi suất vì biến động lãi suất sẽ gây ra những bất ổn lớn cho các tổ chức tài chính theo “kịch bản”: Lãi suất tăng khiến các tổ chức tài chính thua lỗ khi kinh doanh trái phiếu dài hạn hay các khoản thế chấp và có thể dẫn đến tình trạng phá sản.
Ổn định thị trường ngoại hối
Ở những nền kinh tế phụ thuộc vào các hoạt động ngoại thương, ổn định thị trường ngoại hối có tầm quan trọng rất lớn bởi một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Việc đồng đôla ở nước Mỹ tăng giá sẽ khiến các nhà sản xuất ở Mỹ kém cạnh tranh hơn so với các nước khác trong khi đồng đôla giảm giá lại có thể gây ra lạm phát. Ngoài ra, ngăn chặn những biến động mạnh về tỷ giá có thể giúp các doanh nghiệp và cá nhân có quan hệ mua bán với đối tác nước ngoài dự đoán được tình hình.
Các công cụ quản lý trực tiếp
Có 4 công cụ quản lý trực tiếp của CSTT; đó là: hạn mức tín dụng, lãi suất tiền vay và tiền gửi, chính sách quản lý ngoại hối và chính sách quản lý tỷ giá hối đoái.
Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế trong một khoảng thời gian nào đó. Khi NHTW muốn tăng khối lượng tiền tệ cung ứng, khối lượng cho vay ở các ngân hàng, hạn mức tín dụng sẽ được mở rộng. Ngược lại, nếu muốn hạn chế tín dụng ở các ngân hàng, giảm khối lượng tiền tệ thì NHTW sẽ thu hẹp hạn mức tín dụng. Thông thường, công cụ này được sử dụng và phát huy kết quả khi lạm phát ở mức cao, khi những thay đổi lãi suất không có hiệu quả, hoặc khi khó kiểm soát được nguồn vốn khả dụng của ngân hàng.
Lãi suất tiền vay và tiền gửi
Thông thường, chính sách lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay biến đổi cùng chiều hay ngược chiều tuỳ theo chính sách của NHTW. Hiện nay trên thế giới có hai quan điểm về cơ chế hình thành lãi suất:
Quan điểm 1: Ấn định lãi suất, tức là NHTW quy định lãi suất đối với các NHTM.
Quan điểm 2: Thả nổi lãi suất, tức là lãi suất do thị trường quyết định.
Ở các nước phát triển, ít khi NHTW ấn định lãi suất. Tuy nhiên, vẫn còn một số nước áp dụng chính sách ấn định lãi suất “trần”, lãi suất “sàn” đối với tiền gửi và tiền cho vay. Thực tế cho thấy, việc để cho thị trường quyết định lãi suất thì có lợi hơn cho nền kinh tế.
Chính sách quản lý ngoại hối
Để quản lý thị trường trường ngoại hối, NHTW sử dụng chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá hối đoái.
Chính sách quản lý ngoại hối là chính sách kiểm soát việc chuyển ngoại hối ra nước ngoài hay thu ngoại hối vào trong nước hoặc quản lý dự trữ ngoại hối như vàng, ngoại tệ tự do chuyển đổi… nhằm đạt được mục tiêu kinh tế xã hội đề ra, Thông thường, các mục tiêu này có quan hệ với hoạt động thương mại quốc tế.
Ngày nay, tình trạng thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế vãng lai đã trở nên thường xuyên ở các nước đang phát triển. Điều đó đòi hỏi các quốc gia phải có các chính sách quản lý ngoại hối riêng của mình.
Chính sách quản lý tỷ giá hối đoái
Chính sách quản lý giá hối đoái là chính sách quản lý sự thả nổi và mức độ thả nổi như thế nào của tỷ giá để đạt được các mục tiêu kinh tế, tài chính quốc gia.
Những nước thực hiện chế độ quản lý ngoại hối tự do như Mỹ, Anh, Đức, Canađa… thì thực hiện chế độ thả nổi tự do tỷ giá hối đoái; ngược lại, những nước thực hiện chế độ quản lý ngoại hối nghiêm ngặt thì quản lý chặt chẽ tỷ giá thả nổi của mình ở mức độ thả nổi trong biên độ cho phép x% so với tỷ giá chính thức, hoặc thả nổi có sự điều chỉnh của nhà nước cho phù hợp với tỷ giá thị trường [6].
Các công cụ quản lý gián tiếp
Đây là nhóm công cụ được sử dụng để thực hiện các mục tiêu như ổn định giá cả, tăng trưởng việc làm… thông qua việc tác động đến mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Như đã biết, lượng cung tiền MS = MB x m (trong đó MS : lượng cung tiền; MB: cơ sở tiền tệ; m: số nhân tiền tệ). Để làm thay đổi MS, NHTW sẽ sử dụng những công cụ tác động đến hoặc cơ sở tiền tệ hoặc số nhân tiền. Cụ thể, NHTW sẽ sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, công cụ tái cấp vốn để làm thay đổi cơ sở tiền tệ; dùng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến số nhân tiền từ đó tạo nên những thay đổi trong lượng tiền cung ứng. Cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các công cụ gián tiếp này ngày càng trở nên quan trọng và là công cụ chính mà NHTW sử dụng thay vì sử dụng các công cụ trực tiếp để can thiệp vào thị trường tiền tệ [29].
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
Đây là nghiệp vụ thông dụng và phổ biến nhất mà NHTW các nước đều áp dụng. NVTTM là việc NHTW mua và bán các loại chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ tuỳ theo mục tiêu của CSTT của mình để thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
Nếu muốn gia tăng lượng tiền trong lưu thông, NHTW mua vào các giấy tờ có giá từ các NHTM hoặc công chúng. Điều này làm tăng vốn khả dụng của các NHTM, tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, từ đó làm giảm lãi suất.
Ngược lại khi muốn giảm khối lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường tiền tệ, NHTW lại bán ra các giấy tờ có giá ra. Lượng tiền cung ứng trong lưu thông giảm xuống, do vậy có tác dụng làm tăng lãi suất.
Việc NHTW tung ra một khối lượng tiền mặt xác định nhằm cung ứng kịp thời tiền mặt trong lưu thông hoặc thu về lượng tiền tệ là một trong những nghiệp vụ rất quan trọng trong điều hành CSTT. Mặc dù NVTTM được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, tức là những người kinh doanh các chứng khoán ngắn hạn không bị bắt buộc mua hoặc khoán theo một giá nhất định, nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng biệc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối với các đối tác.
Ưu điểm
NVTTM linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nếu chỉ muốn thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ một lượng nhỏ, thông qua NVTTM, NHTW có thể mua hoặc bán một lượng chứng khoán hạn chế. Ngược lại, nếu NHTW muốn mức thay đổi này lớn, NVTTM đủ sức thực hiện điều đó thông qua việc mua hoặc bán số lượng chứng khoán lớn hơn.
Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành NVTTM, NHTW có thể lập tức sử dụng công cụ đó theo hướng ngược lại. Chẳng hạn, nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua chứng khoán ngắn hạn trên thị trường mở quá nhiều thì có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
NVTTM có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm chễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, NHTW chỉ việc thông báo cho một số người kinh doanh chứng khoán và việc mua bán được thực hiện ngay lập tức [2].
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là việc các NHTM buộc phải duy trì một khoản tiền (dự trữ) nhất định trên tài khoản tiền gửi tại NHTW. Qua đó, NHTW chủ động điều tiết hoạt động của NHTM. Thông thường, khoản tiền dự trữ này được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi (có nước tính trên tổng số tiền cho vay) của NHTM tại một khoảng thời gian nào đó.
Công thức tính:
Dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc x Tổng số tiền gửi của các NHTM
Nhờ việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW có thể tác động đến lượng tiền cung ứng. Việc tác động này diễn ra theo 3 cách :
Thứ nhất: NHTW quyết định tăng dự trữ bắt buộc, khi đó phần dự trữ thừa trước đây (phần này được tính lãi) lúc này trở thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM.
Thứ hai: Khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, số nhân tiền sẽ giảm (bởi vì m=1/rd). Trong điều kiện cơ số tiền không đổi, lượng cung tiền sẽ giảm vì MS= MBxm.
Thứ ba: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm tăng làm giảm mức cung vốn của các NHTM trên thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không đổi, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng sẽ tăng lên, từ đó tác động đến các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung ứng.
Ưu điểm
Công cụ dự trữ bắt buộc có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động mạnh đến cung ứng tiền tệ.
Nhược điểm
Từ công thức mức cung tiền trên ta thấy, chỉ một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến một thay đổi rất lớn trong mức cung ứng tiền. Nghĩa là có thể đạt được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền bằng những thay đổi cực kỳ nhỏ trong dự trữ bắt buộc. Vì phải tốn kém rất nhiều để quản lý những thay đổi trong dự trữ bắ._.t buộc nên công cụ này không thể được sử dụng tuỳ tiện [2].
Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho NHTM nâng cao được năng lực thanh toán của mình.
Tùy từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy, đối với các quốc gia này, công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam), hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với NHTM được thực hiện không chỉ dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác như chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn, cho vay trong thanh toán bù trừ, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng...
Với công cụ này, NHTM sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay mở rộng, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông. Khi nhận thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, NHTW sẽ hạ lãi suất tái cấp vốn, qua đó khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm. Ngược lại, khi cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn để một mặt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM có ý định vay và nhờ đó làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay.
Ưu điểm
NHTW có thể dùng công cụ tái cấp vốn để thực hiện vai trò “người cho vay cuối cùng” (tức là cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi toàn bộ hệ thống thiếu vốn khả dụng), nhất là trong tình huống xảy ra khủng hoảng ngân hàng, vốn sẽ được “bơm” ngay cho các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Với đặc điểm đó, cửa sổ chiết khấu hoạt động như một cái “van an toàn” cho hệ thống tiền tệ của một quốc gia.
Các khoản vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá, do đó, chúng có khả năng tự thanh toán, và việc dùng công cụ này có tính chất tích cực hơn biện pháp hạn mức tín dụng do công cụ này chịu sự tác động của quy luật cung cầu.
Lãi suất tái chiết khấu có thể cho biết ý định của NHTW về CSTT tương lai. Nếu muốn kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng cách để cho lãi suất tăng lên, NHTW có thể nâng lãi suất chiết khấu lên, qua đó, gián tiếp cho thị trường biết ý định của mình.
Nhược điểm
Việc NHTW sử dụng công cụ tái cấp vốn có thể bị giải thích sai lệch đi. Vì khi lãi suất thị trường tăng lên tương đối so với lãi suất chiết khấu thì khối lượng các khoản vay chiết khấu sẽ tăng lên. Để giữ cho số tiền chiết khấu không quá nhiều, NHTW có thể nâng lãi suất chiết khấu lên gần với lãi suất thị trường hơn. Khi lãi suất chiết khấu tăng lên thị trường có thể cho đó là dấu hiệu rằng NHTW đang chuyển sang CSTT thắt chặt, trong khi thực sự thì không phải như vậy.
Công cụ này không có hiệu quả bằng NVTTM trong việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vì 2 lý do. Thứ nhất, nghiệp vụ thị trường mở hoàn toàn là sự tự quyết định của NHTW trong khi đó, NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng phải đi vay hoặc không đi vay. Thứ hai, NVTTM dễ dàng điều chỉnh theo hướng ngược lại hơn so với công cụ tái cấp vốn.
Tóm lại, điều hành CSTT được coi là trung tâm của mọi hoạt động của NHTW vì vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế. Có rất nhiều công cụ đề NHTW có thể lựa chọn để áp dụng trong quá trình thực thi CSTT; cụ thể là: hạn mức tín dụng, lãi suất tiền vay và tiền gửi, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách quản lý tỷ giá hối đoái, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và lãi suất chiết khấu. Ngoài ra, từ phần trình bày lý thuyết ở trên, có thể thấy các công cụ gián tiếp có những điểm ưu việt hơn so với các công cụ trực tiếp, do đó, được khuyến khích sử dụng hơn [6].
LẠM PHÁT
Khái niệm và phương pháp đo lường lạm phát
Khái niệm
Lạm phát là khái niệm xuất hiện từ cách đây rất lâu, gắn liền với sự ra đời và phát triển của tiền tệ hiện đại. Lúc đầu, lạm phát được đồng nhất với sự phá giá tiền tệ, hay là việc làm giảm hàm lượng kim loại so với giá trị danh nghĩa của tiền. Về sau, có nhiều lý thuyết về lạm phát ra đời và mỗi lý thuyết có cách hiểu khác nhau về lạm phát.
Những người theo lý thuyết “lạm phát lưu thông tiền tệ” như Milton Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ, cho rằng: "Lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ xuất hiện khi số lượng tiền trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất.” [30]
Trong khi đó, Gregory Mankiw lại có một quan điểm đơn giản hơn khi cho rằng “sự gia tăng trong mức giá chung được gọi là lạm phát.” [31]
Trong cuốn "Kinh tế học vĩ mô" của mình, giáo sư Michael Parkin cho rằng: "Lạm phát là một quá trình trong đó mức giá tăng liên tục, còn tiền thì liên tục mất giá trị”. Ông cho rằng một sự thay đổi đột ngột của giá cả không phải là lạm phát. Lạm phát phải là một quá trình tiếp diễn liên tục [34].
Như vậy có thể thấy các nhà kinh tế học đều thừa nhận đặc điểm chung nhất của lạm phát là hiện tượng mức giá chung của các hàng hoá và dịch vụ tăng lên và sức mua thực tế của đồng tiền giảm xuống so với một thời điểm trước đó.
Phương pháp đo lường lạm phát
Để đánh giá được tác động của lạm phát đến nền kinh tế, rồi từ đó đưa ra những biện pháp giải quyết thích hợp, cần phải đo lường lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được xác định bằng tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá cả ở một năm (tháng) so với chỉ giá của năm (tháng) được chọn làm gốc.
= x 100 %
Có nhiều loại chỉ số giá cả như chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giảm phát; trong đó, chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index) được sử dụng rộng rãi nhất để tính tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân gia quyền của một nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng của một người tiêu dùng điển hình trong một khoảng thời gian. Số lượng, chủng loại hàng hoá nào được lựa chọn lại tuỳ theo quy định của từng nước. CPI của năm n được tính như sau:
CPIn = x Tỷ trọng hàng hoá tiêu dùng trong giỏ hàng hóa x 100%
(CPIn là chỉ số giá tiêu dùng năm n; Pn là giá hàng hoá năm n; Po là giá hàng hoá vào năm được chọn làm năm gốc)
Tỷ lệ chi tiêu cho từng loại hàng hóa thường được cố định, tức là giá các loại hàng hóa có thể thay đổi từ năm này sang năm khác nhưng trọng số của các hàng hóa vẫn được giữ nguyên. CPI chính là tỷ lệ % giữa giá cả hiện tại của giỏ hàng hoá với cơ cấu tiêu dùng như ở năm gốc so với giá của giỏ hàng hoá đó vào thời điểm gốc.
Ở nước ta, phương pháp cải tiến để tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã được Tổng cục Thống kê chính thức công bố từ tháng 1/1998. Theo đó, CPI của cả nước được tính dựa trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của tất cả các tỉnh thành. Giỏ hàng hoá để tính CPI gồm 296 mặt hàng (cả hàng hoá và dịch vụ). Giá kỳ gốc là mức giá bình quân năm 1995. CPI hàng tháng được công bố với 4 kỳ gốc so sánh: CPI bình quân năm 1995, so với tháng trước, so với tháng đó năm trước và so với tháng 12 năm trước. Vàng và đô-la Mỹ (USD) được công bố chỉ số giá riêng, không tính chung vào CPI [20].
Phân loại lạm phát
Tuỳ căn cứ phân loại, chúng ta có các cách phân loại lạm phát khác nhau và sau đây là những cách phân loại thường gặp.
Căn cứ vào tốc độ lạm phát
Đây là cơ sở để chia lạm phát làm 3 loại: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát mà tốc độ tăng giá chậm, ở mức dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm. Khi đó, tiền tệ mất giá không nhiều và người ta tin tưởng vào giá trị của đồng tiền. Ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, lạm phát vừa phải luôn tồn tại.
Lạm phát phi mã (Galloping inflation) là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tốc độ 2 hoặc 3 con số (30%, 50%, 100%, 500%...). Khi đó, tiền mất giá trị một cách nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ một lượng tiền tối thiểu để đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày.
Siêu lạm phát (Hyper inflation) là lạm phát mà tốc độ tăng giá hết sức nhanh chóng, có khi tới vài trăm phần trăm một tháng hay vài nghìn phần trăm mỗi năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài trong quá nhiều năm do tiền gần như mất hết giá trị, các doanh nghiệp không thể hoạt động được và phá sản, người dân không dùng tiền trong các giao dịch nữa và các quốc gia gặp phải tình trạng này buộc phải cải tổ chính sách kinh tế và tìm cách chấm dứt lạm phát.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát
Theo cách phân loại này, lạm phát gồm có ba loại: lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát cơ cấu.
Lạm phát do cầu kéo (Demand - pull inflation) xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn so với sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, kéo theo sự tăng lên của mức giá ở điểm cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu. Có 3 nguyên nhân làm cho tổng cầu tăng là: sự gia tăng cung tiền, tăng chi tiêu chính phủ và xuất khẩu tăng. Bản chất của lạm phát do cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn chế trong điều kiện nền kinh tế đã đạt cân bằng trên thị trường lao động. Có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát do cầu kéo qua hình dưới đây.
LẠM PHÁT DO CẦU KÉO
Tại thời điểm ban đầu, nền kinh tế đạt mức sản lượng Q* và ở đó, mức giá là P0. Khi có một cú “sốc” cầu làm lượng cầu tăng mạnh, đường tổng cầu AD0 dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát do cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, xuất hiện tình trạng dư cầu về lao động, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho chi phí sản xuất tăng, tổng lao động giảm, sản lượng giảm, đường tổng cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS1. Mức giá tăng từ P1 lên P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái cân bằng mới, đạt mức sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công. Nếu đường tổng cầu tiếp tục dịch chuyển lên AD2 thì đường tổng cung sẽ dịch chuyển tiếp về bên trái sang AS2, mức giá sẽ tăng lên thành P3. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục [2].
Lạm phát do chi phí đẩy (Cost-push inflation) là lạm phát bắt nguồn từ sự gia tăng chi phí do các nguyên nhân chủ yếu như chi phí tiền lương tăng, giá nguyên vật liệu tăng, chính sách thuế và các khoản phải nộp khác tăng; công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ chế quản lý kém hiệu quả đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát do chi phí đẩy.
LẠM PHÁT DO CHI PHÍ ĐẨY
Ban đầu đường tổng cầu là AD0, đường tổng cung là AS0. Khi chi phí đầu vào tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ tại mọi mức giá và đường tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS1, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P0 lên P1. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm (stagflation); kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng [2].
Lạm phát cơ cấu là lạm phát xảy ra do sự mất cân đối sâu sắc trong cơ cấu của nền kinh tế (chẳng hạn giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa khu vực sản xuất và khu vực dịch vụ, giữa tích lũy và tiêu dùng) [2].
Căn cứ vào tính chất của lạm phát
Dựa vào tính chất của lạm phát, lạm phát được chia thành: Lạm phát thuần thuý, lạm phát được dự đoán trước và lạm phát không được dự đoán trước.
Lạm phát thuần tuý (Pure inflation)
Một nền kinh tế trải qua lạm phát thuần tuý khi giá cả của tất cả các hàng hoá, dịch vụ tăng với tốc độ như nhau. Lúc đó, giá cả tương đối của các hàng hoá (giá của hàng hóa này so với giá trung bình của các hàng hoá khác) không thay đổi. Vì thế, lạm phát thuần tuý không khuyến khích người tiêu dùng thay thế hàng hoá này bằng hàng hoá khác (nếu xuất phát từ động lực thu nhập).
Lạm phát được dự kiến trước (Anticipated inflation)
Lạm phát dự kiến là tỷ lệ lạm phát mà người ta dự đoán sẽ xảy ra. Lạm phát được dự kiến thường là một nhân tố được xem xét đến trong các hợp đồng kinh doanh. Tuy nhiên, những cú sốc trong nền kinh tế như sự thay đổi tổng cầu, mùa màng thất bát lại làm cho tỷ lệ lạm phát thực tế có thể cao hơn hay thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Lạm phát không được dự kiến (Unanticipated inflation)
Lạm phát không được dự kiến là mức chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát thực tế và tỷ lệ lạm phát dự kiến. Chẳng hạn, nếu tỷ lệ lạm phát được dự kiến là 5%, tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra là 8% thì tỷ lệ lạm phát không được dự kiến là 3%.
Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, tùy thuộc vào loại lạm phát, cơ chế quản lý kinh tế, tình hình kinh tế xã hội của từng nước trong mỗi thời kỳ. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét một số nguyên nhân chủ yếu.
Lạm phát do sai lầm của các chính sách kinh tế vĩ mô
Đây là loại lạm phát do ý chí chủ quan của con người mang lại với những sai sót ngay từ chính sách, cơ sở lý luận như: tăng cung tiền quá mức nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách hay đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ; chính sách đầu tư không thích hợp dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu hàng hoá và cầu về hàng thiết yếu không được thỏa mãn làm giá cả tăng cao.
Lạm phát do nền kinh tế phát triển quá nóng
Một nền kinh tế tăng trưởng “nóng” khi sản lượng vượt quá mức sản lượng tiềm năng (mức sản lượng tối đa đạt được khi sử dụng một lượng đầu vào nhất định), hay có hiện tượng quá tải, mất cân đối trong một khâu nào đó của yếu tố đầu vào. Trạng thái “nóng” của nền kinh tế có liên quan đến việc làm tăng mức cung tiền trong lưu thông, dẫn đến mức giá tăng theo. Do đó, cần nhận thức rõ các dấu hiệu về trạng thái nóng của nền kinh tế để từ đó thấy được nguy cơ lạm phát gắn liền với nó.
Lạm phát do sự gia tăng chi phí
Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, sự khan hiếm của một số vật tư, nguyên liệu quan trọng trong các ngành kinh tế chủ chốt có thể làm cho mức giá chung tăng mạnh. Một cuộc khủng hoảng năng lượng có thể đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên cao. Sự yếu kém trong cơ chế quản lý của các doanh nghiệp cũng là lý do khiến giá thành của các sản phẩm cao hơn, gây ra lạm phát cao.
Lạm phát do bị ảnh hưởng từ bên ngoài
Nguyên nhân này của lạm phát đúng với các nước có nền kinh tế mở. Độ mở càng rộng thì nền kinh tế càng dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài. Do đó, việc giá cả hàng hoá, dịch vụ trong khu vực lân cận quốc gia đó cũng như trên phạm vi quốc tế gia tăng lên sẽ kích thích luồng hàng hoá di chuyển ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Dòng di chuyển này càng lớn, càng nhanh thì tình trạng khan hiếm hàng hoá ở trong nước càng nghiêm trọng. Sự chênh lệch giữa lượng tiền trong lưu thông so với lượng hàng hóa, dịch vụ đối ứng và điều này gây ra lạm phát.
Mặt khác, những bất ổn về kinh tế, tài chính, tiền tệ trong khu vực hoặc suy thoái kinh tế toàn cầu làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào triển vọng kinh tế sáng sủa, khả năng bảo toàn vốn và kinh doanh có lãi. Khi đó, các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi kinh doanh làm tổng cung sụt giảm. Trong khi đó, lượng tiền trong lưu thông còn quá nhiều còn số vốn bị chuyển ra nước ngoài làm cho sức mua của nền kinh tế giảm, lạm phát sẽ tiếp tục lên cao.
Lạm phát do những yếu tố bất khả kháng gây ra
Những yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người như hạn hán, lũ lụt, động đất, hoả hoạn, khủng bố cũng có thể làm nảy sinh lạm phát. Khi những yếu tố này xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại lớn thì toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng: sản xuất suy giảm, hàng hóa không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng và khắc phục hậu quả của các sự kiện bất khả kháng.
Lạm phát do các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân kể trên, lạm phát có thể là kết quả của kỳ vọng về lạm phát của các tác nhân trong nền kinh tế hoặc là kết quả của đầu cơ... Khi các doanh nghiệp, các cá nhân dự đoán rằng lạm phát sẽ tăng, họ tính đến lạm phát trong các quyết định của mình: người cho vay sẽ nâng cao lãi suất danh nghĩa, người tiêu dùng tích trữ hàng hoá, doanh nghiệp nâng cao dần giá bán sản phẩm. Chính những việc này đẩy giá cả tăng lên và có thể gây lạm phát. Tương tự như vậy, việc các nhà sản xuất hoặc các nhà đầu cơ tích trữ hàng hoá, không bán ra thị trường để tạo cơn sốt cung giả tạo cũng dễ dẫn tới lạm phát.
Tác động của lạm phát
Lạm phát khi xảy ra sẽ có tác động không chỉ đến nền kinh tế mà còn đến tình hình chính trị, xã hội của một quốc gia. Mức độ tác động tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tỷ lệ lạm phát, khả năng dự toán chính xác sự thay đổi của lạm phát, các chính sách đối phó, tình hình bên ngoài... Có 3 tác động chính của lạm phát đối với một nền kinh tế quốc dân, đó là:
Phân phối lại thu nhập và của cải
Lạm phát làm cho tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên nhưng thực chất lại hàm chứa trong đó sự phân phối lại thu nhập và của cải giữa các nhóm dân cư (giữa người đi thuê lao động và công nhân, giữa người đi vay và người cho vay, giữa chính phủ và người đóng thuế...). Ích lợi hay thiệt hại do lạm phát đem đến không phụ thuộc vào bản thân tỷ lệ lạm phát mà phụ thuộc vào việc tỷ lệ lạm phát có được dự kiến trước hay không. Sự phân phối lại thu nhập giữa những nhóm người này luôn khuyến khích họ cố gắng dự đoán lạm phát sao cho càng chính xác càng tốt. Tuy nhiên, hầu hết họ đều dự đoán không chính xác sự thay đổi của lạm phát và do vậy tác động của lạm phát về mặt phân phối lại thu nhập và của cải luôn xảy ra.
Tác động đến các hiệu quả kinh tế
Bóp méo tín hiệu giá cả (Price Signals Distortion)
Khi mức độ lạm phát của một nền kinh tế là vừa phải, nếu giá cả của một hàng hóa nào đó trên thị trường tăng lên thì người bán cũng như người mua đều biết rằng đã có sự thay đổi thực sự về cung và/hoặc cầu đối với hàng hoá đó và họ sẽ có hành vi thích hợp để ứng phó. Nhưng nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, người tiêu dùng sẽ khó so sánh giá cả giữa các hàng hoá với nhau. Tỷ lệ lạm phát càng cao càng khuyến khích người ta mua nhiều hàng hoá tích trữ để tránh sự giảm sút sức mua của tiền tệ và đề phòng sự leo thang của giá cả. Vì vậy, hàng hóa càng trở lên khan hiếm và giá cả lại càng lên cao, tạo ra cơn sốt cung giả tạo. Người sản xuất có thể chạy theo cơn sốt "ảo" này để đẩy mạnh sản xuất. Điều đó chứng tỏ giá cả trong thời kì lạm phát cao không phải là tín hiệu đáng tin cậy về cầu thực tế của thị trường.
Tác động đến chi phí điều chỉnh chính sách
Lạm phát cao khiến các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên theo dõi diễn biến lạm phát, phản ứng của dân chúng, dự báo của các nhà kinh tế để đưa ra các chính sách thích hợp với thực trạng kinh tế lúc đó. Thay vì nghiên cứu định hướng để đưa ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai, họ phải tập trung tìm kiếm các giải pháp để đối phó với lạm phát và đó là một chi phí không chỉ với nhà nước mà với cả nền kinh tế.
Tác động đến tiết kiệm và đầu tư
Mọi sự tăng lên quá nhanh của chỉ số giá đều có thể làm cho những dự đoán về lạm phát trở nên sai lệch. Các nhà đầu tư khó có thể dự đoán về giá các yếu tố đầu vào và đầu ra trong tương lai và điều này làm tăng rủi ro của việc ước tính lợi ích của các dự án đầu tư. Kết quả là quyết định về tiết kiệm và đầu tư không đem lại hiệu quả như mong muốn.
Lạm phát làm suy giảm đầu tư thông qua ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nhà đầu tư mua thêm các máy móc, các trang thiết bị, giá trị của các tài sản đó (cũng như các tài sản khác chưa khấu hao hết) được khấu trừ vào thu nhập trước khi chịu thuế. Lạm phát làm cho giá trị thực của tài sản được khấu hao giảm và nhà đầu tư phải nộp nhiều thuế hơn, lợi nhuận bị thu hẹp. Do đó, họ giảm đầu tư, từ đó làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế.
Khi lạm phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ. Các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được bằng đồng bản tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn. Họ cũng không tin tưởng vào sự an toàn của môi trường đầu tư nội địa trong tương lai. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc không muốn đầu tư nữa.
Tác động tới tình trạng thất nghiệp
Lạm phát cao làm cho nền kinh tế dịch chuyển khỏi trạng thái toàn dụng nhân công. Nếu cả người đi thuê và công nhân đều cho rằng lạm phát thấp nhưng lạm phát thực tế lại cao hơn đáng kể so với dự đoán của họ thì sự gia tăng lương theo thoả thuận không đủ bù đắp lạm phát không dự kiến được. Do đó, một số công nhân rời bỏ nhà máy, xí nghiệp họ đang làm để đi tìm việc ở nơi mà lương họ được trả có thể bù đắp tác động của lạm phát lên thu nhập. Hãng sản xuất muốn nhà máy hoạt động với công suất cao hơn nhằm đáp ứng cầu hàng hoá lên cao thì phải trả tiền làm thêm giờ cho số công nhân hiện tại. Vì vậy, lợi nhuận thực tế của nhà sản xuất không tăng nhiều như khi lạm phát thấp. Những người công nhân bỏ nhà máy đi tìm việc nhưng chưa chắc họ đã tìm được chỗ làm mới phù hợp; những người ở lại nhà máy cảm thấy mình bị lừa dối vì tiền lương của họ bây giờ mua được ít hàng hoá hơn họ nghĩ. Chính tâm lý này và tình trạng công nhân bỏ việc để tìm việc khác có mức lương cao hơn đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên cao.
Tác động đến hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế
Đối với các nền kinh tế mở, lạm phát còn tác động đến hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế thông qua tác động đến tỷ giá hối đoái. Theo lý thuyết cân bằng sức mua (PPP- purchasing power parity), nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền nước đó mất giá so với ngoại tệ. Khi đó, trong ngắn hạn, hàng xuất khẩu trở nên rẻ tương đối trên thị trường nước ngoài và xuất khẩu gia tăng; còn hàng nhập khẩu vào trong nước trở nên đắt hơn và nhập khẩu giảm. Cán cân tài khoản vãng lai được cải thiện và ảnh hưởng tích cực lên cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, trong dài hạn, lạm phát cao sẽ ảnh hưởng xấu đến đầu tư và sản xuất, hàng hóa không có nhiều để tiếp tục xuất khẩu, nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ làm cho cán cân thanh toán thâm hụt nặng nề.
Tác động đến sự phân bổ các nguồn lực
Các nền kinh tế dựa vào giá cả tương đối giữa những hàng hoá khác nhau để phân bổ những nguồn lực khan hiếm. Người tiêu dùng thường so sánh chất lượng và giá cả của các hàng hóa có thể thay thế cho nhau, có cùng chất lượng; hàng hóa nào có giá tương đối thấp hơn sẽ được lựa chọn nhiều hơn. Lượng cầu tăng sẽ thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư hơn nữa để sản xuất ra sản phẩm loại này. Khi giá cả của các hàng hóa tăng liên tục với tốc độ không đều nhau thì giá tương đối giữa các hàng hóa cũng thay đổi. Tín hiệu về giá tương đối bị sai lệch làm cho quyết định của người tiêu dùng về việc mua hay không mua một hàng hoá nào đó thay đổi liên tục còn các nhà sản xuất sẽ khó đưa ra quyết định đầu tư cho phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Qua đó, lạm phát tạo ra sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực.
Tác động đến tình hình chính trị - xã hội
Lạm phát gây thiệt hại nặng nề cho những người nghỉ hưu, những người thất nghiệp, những người nghèo đói, các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội... do thu nhập của họ thấp và thường không thay đổi (chỉ thay đổi khi nhà nước có chính sách quy định thu nhập này được tăng lên khi lạm phát tăng). Lạm phát cao còn gây tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp rơi vào phá sản, những người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công hình tình của công nhân dưới sự bảo trợ của công đoàn để đòi tăng lương.
Ngoài ra, những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn về mặt chính trị vì những người bị thiệt hại nặng nề do lạm phát sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ của họ. Lạm phát tăng cao, càng kéo dài và tác động càng nặng nề đến nền kinh tế, xã hội thì đất nước càng khó có được sự bình ổn chính trị [2].
MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Lạm phát là một hiện tượng của nền kinh tế còn CSTT là một trong những công cụ để nhà nước, chính phủ điều tiết nền kinh tế, do đó, lạm phát và CSTT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau. Lạm phát sẽ tác động đến hướng điều tiết của các công cụ CSTT và ngược lại các công cụ của CSTT đều có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến lạm phát tuỳ theo mức độ sử dụng.
Khi lạm phát tăng cao, chính phủ sẽ phải điều chỉnh các chính sách kinh tế cũng như CSTT. CSTT sẽ phải thắt chặt hơn để kiểm soát lượng cung tiền, làm giảm nguy cơ lạm phát. NHTW có thể lựa chọn giải pháp nâng mức dự trữ bắt buộc đối với các NHTM, tăng lãi suất tái chiết khấu hoặc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở bằng cách bán các giấy tờ có giá ngắn hạn để rút tiền ra khỏi lưu thông. Khi đó, mục tiêu ổn định giá của CSTT sẽ được coi trọng hơn. Ngược lại, khi đã kiểm soát được lạm phát hoặc dự kiến tình hình lạm phát không ở mức độ đáng ngại, CSTT có thể được nới lỏng để thực hiện các mục tiêu khác của nền kinh tế như ổn định việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NHTW lúc này có thể lựa chọn giải pháp hạ mức dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất chiết khấu hoặc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở bằng cách mua vào các giấy tờ có giá để tăng lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Điều này đặc biệt đúng đối với nền kinh tế Mỹ năm 2007 vừa qua khi các chuyên gia nhận định nước này đang có nguy cơ suy thoái cao hơn nguy cơ lạm phát (tỷ lệ lạm phát đang nằm trong tầm kiểm soát và ổn định ở mức dưới 2,5%, nhưng cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực cho vay “dưới tiêu chuẩn” (subprime) và thị trường nhà đất đã khiến nền kinh tế Mỹ chao đảo). Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã có những điều chỉnh trong CSTT tiền tệ của mình theo hướng nới lỏng hơn khi hạ lãi suất từ 5,25% xuống 4,75% trong tháng 9 và xuống 4,5% trong tháng 10 vừa qua sau nhiều tháng duy trì mức lãi suất cũ [8].
Mặc dù vậy, cũng có những thời điểm, CSTT sẽ gây ra lạm phát bởi như đã đề cập đến ở trên, một phần nguyên nhân của lạm phát chính là những sai lầm của các chính sách kinh tế vĩ mô. Khi NHTW đưa ra những quyết định không hợp lý, tác động đến tổng lượng tiền trong lưu thông (M2) hoặc gián tiếp tác động đến quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường, lạm phát sẽ có nguy cơ bùng phát. Điển hình chính là CSTT không chặt chẽ và tuỳ tiện ở Đức vào đầu những năm 1920. Khi đó, lượng cung tiền đột ngột tăng cao, trung bình mỗi tháng tăng gấp 3 lần, đã kéo theo việc lạm phát cũng gia tăng một tốc độ tương tự [31].
Tóm lại, chương I đã đề cập đến những vấn đề chung và khái quát nhất liên quan đến CSTT với các nội dung chủ yếu về thị trường tiền tệ, vai trò của NHTW và NHTM đối với CSTT và các công cụ cụ thể trong CSTT. Trong nội dung về lạm phát, khái niệm, phân loại, nguyên nhân và tác động của lạm phát cũng đã được nghiên cứu. Mối quan hệ giữa lạm phát và CSTT cũng được xem xét một cách khái quát. Đây sẽ là những cơ sở để phân tích và đánh giá thực trạng sử dụng các công cụ CSTT của NHNN Việt Nam (NHNNVN) cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006 vừa qua trong các chương tiếp theo.
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2006
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006
Trong giai đoạn 2001-2006, cùng với công cuộc đổi mới ngành ngân hàng, việc sử dụng hệ thống các công cụ CSTT cũng được cải tiến và phát triển. Trong hoàn cảnh thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN), với vai trò là NHTW, đã thực hiện điều tiết tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và từng bước chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của Việt Nam. Các công cụ được NHNNVN sử dụng trong giai đoạn 6 năm vừa qua gồm có: công cụ lãi suất, công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, công cụ dự trữ bắt buộc, chính sách quản lý ngoại hối và chính sách quản lý tỷ giá hối đoái.
Công cụ lãi suất
Như phân tích trình bày trong chương I, lãi suất là một công cụ của NHNN để hoạch định và điều hành CSTT và cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế, nó tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, tích luỹ, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư… Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam trong nhiều năm đổi mới đã cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với mục tiêu ổn định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn trước năm 2000, NHNN đã thực hiện tiến trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá và thông thoáng hơn. Cụ thể, từ năm 1988 đến năm 1992, chế độ lãi suất âm đã được chuyển dần sang lãi suất dương, từng bước xoá bỏ bao cấp lãi suất. Từ tháng 10/1993 đến tháng 12/1995, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và tiền cho vay cụ thể nhưng đã cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay theo lãi suất thoả thuận với nguồn vốn huy động dưới hình thức kỳ phiếu nhằm khai thác khả năng tiếp cận thị trường của các TCTD trong nền kinh tế. Từ năm 1996 đến tháng 7/2000, đây là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất trần với nhiều mức lãi suất trần khác nhau quy định cho các loại tín dụng ngắn, trung, dài hạn và các vùng kinh tế khác nhau [6].
Từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002, chính sách lãi suất tiếp tục được cải tiến thêm một bước bằng việc chuyển cơ chế lãi suất trần sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản (LSCB). LSCB được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ nhưng vẫn có sự quản lý của NHNN thể hiện qua việc NHNN công bố LSCB hàng tháng và biên độ dao động. Dựa vào đó TCTD xác định lãi suất cho vay cho mình. Theo đó, các NHTM không được tính lãi suất cho vay vượt quá LSCB +0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và +0,5%/tháng đối với vốn trung và dài hạn [6].
Có thể nói, các mức LSCB do NHNN công bố thực sự là một thông số quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các NHTM, trực tiếp liên quan đến lạm phát và thực sự là công cụ điều hành có ảnh hưởng lớn trên thị trường tiền tệ. Tro._.tờ có giá trị dài hạn nhưng thời hạn dưới 1 năm cũng được phép sử dụng.
Thu hút thêm các TCTD tham gia thị trường mở theo hướng NHNN đưa ra lãi suất thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Biện pháp này sẽ có tác dụng đáng kể vì trên thị trường mở có hai phương thức giao dịch là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
Hiện đại hoá công nghệ giao dịch trên thị trường mở: Các biện pháp có thể áp dụng được là: nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống máy chủ cũng như tăng tốc độ đường truyền tín hiệu mạng tại NHNN, đầu tư cho phần mềm xử lý giao dịch, thanh toán tức thời thông qua hệ thống tài khoản tiền gửi ở NHNN.
Thành lập bộ phận thông tin thị trường của NHNN theo hướng bộ phận này sẽ chịu trách nhiệm chuyên thu thập, phân tích thông tin trên thị trường liên ngân hàng để đánh giá, đưa ra dự đoán chính xác về cung cầu tiền tệ, tín dụng của nền kinh tế và thông báo kịp thời cho NHNN.
Tăng cường hiệu quả của công cụ lãi suất
Bên cạnh công cụ mới mẻ là nghiệp vụ thị trường mở, một điều hết sức cấp thiết là phải tăng hiệu quả tác động của công cụ lãi suất đến nền kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi chế độ lãi suất thị trường để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhưng do vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn nên trước mắt NHNN nên duy trì công bố LSCB nhưng mức LSCB phải khác nhau đối với các khoản vay ngắn hạn và dài hạn, chứ không nên để giống nhau như hiện nay. Như vậy, LSCB sẽ phản ánh sát cung cầu vốn thị trường hơn, đồng thời tạo cơ hội giảm chi phí đối với mọi thành phần doanh nghiệp một cách bình đẳng, tiếp thêm động lực cho guồng máy kinh tế, góp phần kiềm chế tốc tốc độ lạm phát.
Để lãi suất trong tương lai thực sự là lãi suất thị trường, việc cải tổ hệ thống ngân hàng, cải cách các doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh hơn nữa theo phương châm vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm rồi điều chỉnh và hoàn thiện. Dự kiến đến năm 2010, việc thành lập công ty đánh giá mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết để hỗ trợ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng như nâng cao hiệu quả của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát.
Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối liên quan trực tiếp đến vấn đề điều hành cơ chế tỷ giá hối đoái, đến cung cầu ngoại hối trên thị trường và do đó, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất - nhập khẩu khi quy đổi từ ngoại tệ ra nội tệ, đến tình hình vay nợ nước ngoài. Đến lượt mình, kim ngạch xuất - nhập khẩu và ngân sách lại gây áp lực tăng hoặc giảm tỷ lệ lạm phát .
Trong tương lai, lượng ngoại tệ lưu chuyển trong nền kinh tế ngày càng lớn với số lượng các giao dịch ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp đòi hỏi Nhà nước phải hoàn thiện khung pháp lý để kiểm soát được lượng ngoại tệ sử dụng trong nền kinh tế, khắc phục hiện tượng đô-la hóa, thu hút được vốn nhàn rỗi trong nhân dân, tạo điều kiện để cho các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh với khách hàng. Các giải pháp sau đây sẽ giúp thực hiện những yêu cầu đó:
Nghiên cứu xây dựng luật quản lý ngoại hối thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, Nhà nước đã tạo một khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến ngoại hối, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, nhất quán của thị trường ngoại hối, vừa tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường yên tâm về tính ổn định và nghiêm minh của pháp luật.
Ban hành các quy định tạo môi trường pháp lý để các ngân hàng có thể cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ như nghiệp vụ hối đoái tương lai, nghiệp vụ hối đoái quyền chọn. Biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ và cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài trong tiến trình hội nhập.
Tiến tới ban hành quy chế về sự ra đời và hoạt động của thị trường ngoại hối mà ở đó không chỉ các TCTD mà cả các doanh nghiệp, các cá nhân được phép tham gia. Biện pháp này sẽ tập trung được lượng ngoại tệ trôi nổi trong các tổ chức, cá nhân mà hiện nay Nhà nước chưa kiểm soát được.
Cũng cần xem xét lại các quy định vẫn được áp dụng hệ thống NHTM ở VN nhằm sửa đổi sao cho phù hợp với tình hình cạnh tranh và yêu cầu mới của khách hàng theo hướng xoá bỏ những quy định cản trở các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính khác.
Hoàn thiện và phát triển các thị trường tiền tệ
Hoàn thiện và phát triển thị trường sơ cấp
Hiện nay, thị trường tiền tệ Việt Nam mới ở dạng sơ khai, hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn về chủng loại và thấp về chất lượng, phạm vi thị trường chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD. Vì vậy, để phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, trước hết phải hoàn thiện, phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp. Đến lượt mình, để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp cần phải:
Tiêu chuẩn hoá, đa dạng hoá các công cụ: Đối với tín phiếu kho bạc, có thể phát hành loại có kỳ hạn ngắn nhằm giảm thiểu rủi ro về lãi suất, tăng tính hấp dẫn, và nâng cao tính thanh khoản. Đối với chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, NHNN cần xem xét các NHTM nào có đủ điều kiện và năng lực để cho phép phát hành loại chứng chỉ này. Đối với thương phiếu, cần sửa đổi những bất cập như đã nêu ở trên để công cụ này được sử dụng rộng rãi hơn, một điều rất phổ biến ở các nước phát triển trên thế giới.
Hoàn thiện phương thức phát hành: Các loại công cụ như tín phiếu kho bạc cần được phát hành đều đặn, với số lượng đủ lớn làm phát sinh và phát triển các giao dịch trên thị trường.
Mở rộng phạm vi thị trường, đa dạng hoá các chủ thể tham gia: thị trường tiền tệ hiện nay mới chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD và các chủ thể hoạt động trên thị trường chủ yếu chỉ là các NHTM. Phạm vi hẹp như vậy không thể đảm bảo thị trường tiền tệ có thể thực hiện tốt chức năng cung ứng và điều tiết vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, cần có biện pháp tạo môi trường thuận lợi thu hút các tổ chức và cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ như các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tư nhân.
Hoàn thiện và phát triển thị trường thứ cấp
Điều cơ bản để phát triển một thị trường nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng là giá cả hàng hoá (trong trường hợp thị trường tiền tệ, giá cả chính là lãi suất) phải phản ánh được quan hệ cung cầu và môi trường cạnh tranh phải lành mạnh, sân chơi phải bình đẳng. Để phát triển thị trường thứ cấp, phải thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thực hiện khẩn trương đề án hệ thống thanh toán liên ngân hàng kể cả thanh toán quầy điện tử và thanh toán lẻ, coi đó là cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của hệ thống thị trường thứ cấp.
Tạo ra sự phong phú của hàng hoá bằng hai cách: Thứ nhất, cho phép một số TCTD có đủ điều kiện được phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, thương phiếu… Thứ hai, tổ chức thường xuyên hơn các phiên giao dịch, đấu thầu…
Cơ sở vật chất của thị trường này phải được đầu tư hiện đại hơn để tạo sự nhanh chóng và dễ dàng cho các phiên giao dịch.
Hoàn thiện và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7/1993 nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ bé và kém linh hoạt. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường này cần lưu ý đến các vấn đề sau:
Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh tài chính giữa các ngân hàng cũng như giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và tính an toàn của toàn hệ thống song song với việc tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường.
Áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán, chuyển vốn được thực hiện nhanh gọn, chính xác. Nhờ đó, các giao dịch vay mượn rất ngắn từ 1 ngày đến 1 tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trên thị trường liên ngân hàng.
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng.
Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với tình hình mới. Mở rộng cho phép các thành viên khác của thị trường tiền tệ được tham gia thanh toán bù trừ, nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các TCTD hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử trong toàn bộ hệ thống thay cho phương thức thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng.
Hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thiết lập thị trường ngoại hối phát triển
NHNN cần đóng vai trò trung tâm trong hoạt động điều hành thị trường liên ngân hàng, đảm bảo mua hết nguồn ngoại tệ và bán đủ cho yêu cầu ngoại tệ giúp cho thị trường hoạt động được liên tục và thống nhất, tránh tình trạng một chiều là chỉ có thể bán ngoại tệ cho NHNN nhưng không thể mua ngoại tệ hoặc chỉ có thể mua được với số lượng nhỏ không đủ nhu cầu thanh toán, từ đó gây nên những ách tắc trong hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Có sự phối hợp điều chỉnh lại việc thực hiện cơ chế mua bán các khoản thu, chi bằng ngoại tệ của NSNN theo hướng tập trung quản lý ngoại tệ về 1 đầu mối là NHNN, tạo điều kiện cho NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành ngoại tệ của mình và có điều kiện tăng lượng dự trữ ngoại tệ, nâng cao khả năng can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Còn Bộ Tài chính chỉ kiểm tra việc quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN (đúng như khoản 2 và 5 điều 38 luật NHNN đã quy định). Theo đó khi có phát sinh các khoản thu NSNN bằng ngoại tệ thì Bộ Tài Chính (đại diện là kho bạc Nhà nước) sẽ bán lại số ngoại tệ đó cho NHNN thu nội tệ để hạch toán ghi thu quỹ NSNN theo tỷ giá liên ngân hàng tại thời điểm đó. Khi có nhu cầu chi NSNN bằng ngoại tệ thì Bộ Tài chính sẽ mua ngoại tệ từ NHNN, NHNN có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ, kịp thời lượng ngoại tệ cho NSNN theo tỷ giá bán của thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Phát triển thị trường giao dịch có kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi, kỳ hạn… để các NHTM có thể thực hiện các biện pháp, nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro đối với trạng thái ngoại tệ của mình. Trong đó, cần mở rộng kỳ hạn cuả các hợp đồng kỳ hạn từ 1-365 ngày thay vì chủ yếu từ 30-180 ngày như hiện nay. Ngoài ra, cũng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ kinh doanh hối đoái tinh thông nghiệp vụ và có khả năng làm chủ được các giao dịch nói trên.
Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn
Thị trường tín phiếu kho bạc
Các tín phiếu kho bạc có độ rủi ro thấp nên cũng rất được sử dụng rộng rãi trên thị trường tiền tệ, mặt khác chúng là công cụ được sử dụng để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách Nhà nước, nên có thể nói đây là bộ phận thị trường quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường tiền tệ. Các kiến nghị đưa ra để hoàn thiện thị trường này bao gồm:
Tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn, thường xuyên hơn, đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trường số lượng tín phiếu đủ lớn để làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Tuy nhiên quy mô phát hành tín phiếu phải được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu của ngân sách Nhà nước.
Phát hành tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm (nhưng chủ yếu là loại 3 và 6 tháng) với mức lãi suất xấp xỉ bằng mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này.
Đẩy mạnh, phát triển các giao dịch thoả thuận mua lại vì đây là phương thức giao dịch phổ biến nhất đối với tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, cần sớm ban hành các quy chế giao dịch cũng như các mẫu cụ thể của các hợp đồng mua lại.
Đẩy mạnh công tác môi giới trung gian các giao dịch mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến nghiệp vụ đấu thầu và mua bán lại sau khi đấu thầu.
Đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài Chính trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc qua NHNN một cách đều đặn, đồng thời đảm bảo sự phù hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa chính sách tài chính và CSTT.
Thị trường tín phiếu NHNN
Tín phiếu NHNN là công cụ có ruỉ ro thấp nên cũng được sử dụng rộng rãi trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, khi ngân sách còn có thặng dư lớn và lạm phát trong tầm kiểm soát thì không nên phát hành công cụ này mà chủ yếu tập trung vào tín phiếu kho bạc Nhà nước. Việc phát hành song song tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc vừa gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước vừa tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết và làm chia rẽ thị trường vốn ngắn hạn, do đó, NHNN chỉ nên sử dụng công cụ này khi muốn thực hiện CSTT thắt chặt để rút bớt tiền trong lưu thông, qua đó để kiềm chế lạm phát. Trước tình hình lạm phát như hiện nay, NHNN có thể cân nhắc đến việc phát hành loại công cụ này [18]. Tuy nhiên, để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần đảm bảo thực hiện một số yêu cầu sau:
Thực hiện hình thức tín phiếu NHNN ghi sổ để tạo điều kiện thuận tiện cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp.
Cải tiến và thực hiện các thể thức mua lại thuận lợi thông qua phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các ngân hàng mua tín phiếu NHNN thay vì bắt buộc các ngân hàng phải mua như thời gian qua.
Nâng cao năng lực hoạt động và tính độc lập của NHNN
Nâng cao năng lực hoạt động của NHNN
Với tư cách là NHTW cũng như để thực hiện các biện pháp vừa được đề cập ở trên một cách có hiệu quả, NHNNVN trước hết phải tập trung thực hiện tốt các chức năng của một NHTW trong hoạt động của thị trường tiền tệ, phải đảm bảo là người can thiệp cuối cùng vào thị trường. Khi can thiệp, NHNN chỉ nên sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp để điều chỉnh. Cụ thể, NHNN cần phải được hoàn thiện theo hướng sau:
Trong điều hành, cần phải tôn trọng các quy luật khách quan và cơ chế thị trường trường. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các tổ chức ngân hàng, tín dụng.
Xây dựng chiến lược tổng thể để có kế hoạch, bước đi, chính sách phù hợp trong quá trình tạo dựng, phát triển thị trường tiền tệ.
Đảm bảo bình đẳng theo pháp luật đối với mọi loại hình ngân hàng và TCTD, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh- một tiền đề quan trọng cho thị trường tiền tệ phát triển.
Thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo mới giữa NHNN với các bộ, ngành và chính quyền địa phương để phói hợp điều hành CSTT.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán, xây dựng trung tâm thanh toán quốc gia tại NHNN, phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để đảm bảo tính hiệu quả cho các hoạt động trên thị trường mở và tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Từng bước cải tiến mô hình tổ chức, cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm biên chế, khắc phục chồng chéo [14].
Nâng cao tính độc lập của NHNN trong thực thi CSTT
Theo kinh nghiệm của các nước OECD, một NHTW độc lập có thể giảm thiểu hữu hiệu nguy cơ tăng cung tiền vì động cơ chính trị, giữ cho tỷ lệ lạm phát ở mức thích hợp với tăng trưởng kinh tế [12]. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, hình mẫu như vậy chưa chắc đã tạo ra kết quả tốt; nhưng không nên để chính phủ can thiệp tùy tiện, phi kinh tế vào hoạt động của NHTW. Chúng ta nên xem xét lựa chọn mô hình trung gian đó là NHNN sẽ được trao cho sự độc lập như là một công cụ, hay NHNN là cơ quan lập chính sách hàng ngày và thực thi chính sách để đạt một số mục tiêu nhất định; còn các cơ quan chính trị giành quyền lựa chọn mục tiêu. Trước mắt, sự độc lập này có thể được thực hiện bằng cách NHNN chấm dứt cho ngân sách vay, để tránh phải phát hành tiền khi xảy ra thâm hụt ngân sách trầm trọng và tránh tình trạng lạm phát cao.
So với các nước trên thế giới, NHNN Việt Nam hiện nay đang ở mức độ độc lập rất thấp. Minh chứng rõ ràng nhất cho điều này chính là việc NHNN không độc lập trọng việc thiết lập mục tiêu, không độc lập trong xây dựng chỉ tiêu hoạt động và thậm chí là không tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành như quy định trong luật NHNN 2003 [24].
Chẳng hạn, về xây dựng chỉ tiêu hoạt động, theo điều 3 Luật NHNN, Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với cân đối NSNN và mức tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định.
Về việc tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành, theo điều 3 và 5, luật NHNN, Chính phủ tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội (điều 3). Trong khi đó, NHNN xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này (điều 5).
Việc trả lãi đối với tiền gửi DTBB của từng loại hình TCTD, từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định (Điều 20, Luật NHNN). Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với các TCTD tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD (Điều 30 Luật NHNN).
Ngoài ra, theo điều 38, Bộ Tài chính kiểm tra việc quản lý Dự trữ ngoại hối Nhà nước do NHNN thực hện theo quy định của Chính phủ.
Các quy định trên cho thấy tính độc lập trong hoạt động của NHNNVN còn rất thấp, nhất là trong việc xây dựng và thực thi CSTT. Vì vậy, cần thiết phải có sự thay đổi các qui định trong Luật NHNN hiện tại để có thể nâng cao hơn nữa vị thế độc lập của NHNN. Mức độ độc lập trong thực thi CSTT nên ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành. Ở mức độ tự chủ này, Ngân hàng Nhà nước có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của NHNN.
Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT trong điều hành là vì các thông tin kinh tế có tác động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô là không hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước những thay đổi của thị trường. Ngoài ra, hình thức tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế tổng thể của một nước trong một giai đoạn nhất định, thường từ 3 tới 5 năm. Đồng thời, điều này cũng nâng cao tính trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ những hành động của mình về CSTT trước Quốc hội và Chính phủ, tính công khai minh bạch đầy đủ về hoạt động của NHNN. Mặt khác nó cũng hạn chế sự can thiệp của các nhà chính trị đến các quyết định cuả NHNN... [24]
Đẩy nhanh tốc độ cải cách các NHTM
Như đã phân tích ở chương I, vai trò của NHTM trong hệ thống tiền tệ là rất quan trọng. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của NHTM là cần thiết để đảm bảo CSTT và thị trường tiền tệ hoạt động có hiệu quả. Trong nền kinh tế hội nhập, lĩnh vực tài chính ngân hàng được coi là nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng nhất. Theo Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng như các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam phải đối xử bình đẳng với các NHTM từ các nước khác nhau tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Các ngân hàng ở Mỹ và EU có tiềm lực rất lớn với số vốn hàng tỷ đôla. Trong khi đó, với một NHTM quốc doanh của Việt Nam hiện nay, vốn pháp định chỉ khoảng 80 triệu USD [16]. Vì vậy, để thị trường tiền tệ tiếp tục phát triển thì việc tạo ra hệ thống NHTM vững mạnh, hiệu quả, sức cạnh tranh cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhiệm vụ trong tâm hiện nay và những năm tiếp theo là phải đẩy mạnh và kiên quyết lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, các TCTD. Để đạt được mục tiêu này cần:
Có biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính, mức vốn tự có cho các NHTM.
Vốn tự có của các NHTM quốc doanh có thể được bổ sung bằng cách: Thực hiện cổ phần hoá một số NHTM quốc doanh để tăng vốn; phát hành trái phiếu Chính phủ để lấy nguồn bổ sung hoặc NHNN cho vay dưới hình thức tái cấp vốn để tăng tiềm lực tài chính; Nhà nước cho phép các ngân hàng giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản nộp về sử dụng vốn NSNN.
Vốn tự có của các NHTM cổ phần có thể được bổ sung bằng cách: Giải thể hoặc sát nhập các đơn vị yếu kém; Nhà nước cho phép gọi vốn nước ngoài thông qua bán cổ phiếu cho người nước ngoài; phát hành cổ phiếu mới; tăng quy định về vốn pháp định đối với loại hình NHTM cổ phần
Củng cố và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM trên cơ sở:
Cơ cấu lại nợ, thống kê phân loại nợ, phần nợ cho vay những NHNN sẽ được tách bạch rõ ràng để xử lý. Cải thiện chất lượng quản lý tài sản nợ của các NHTM, đặc biệt là cần phân định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát quản lý thu hồi nợ, cải tiến điều kiện tín dụng, trích lập quỹ để bù đắp các khoản vốn thất thoát [16].
Ban hành cơ chế xử lý tài sản thế chấp, phát triển các công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các ngân hàng tiến hành phát mại được tài sản thế chấp, thu hồi các khoản nợ.
Xác định NHTM thực sự là NHTM: tách bạch chức năng chính sách ra khỏi thương mại. Loại bỏ độc quyền nhằm tạo điều kiện và sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh.
Nâng cao năng lực quản trị, kinh doanh của NHTM, áp dụng các công cụ và cách thức quản lý mới cho phù hợp và theo kịp các nước trong khu vực.
Sớm thực hiện đề án ứng dụng công nghệ tin học vào dịch vụ thanh toán của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Áp dụng hệ thống kế toán theo thông lệ quốc tế, thực hiện kiểm toán định kỳ và công khai tài chính đối với các NHTM.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có sai phạm.
Tóm lại, chương III đã trình bày dự báo tình hình lạm phát ở Việt Nam về trung hạn sắp tới và một số kiến nghị đối với việc sử dụng các công cụ CSTT để kiểm soát vấn đề này. Tình hình lạm phát trong giai đoạn 2008-2010 được dự báo sẽ duy trì ở mức cao do giá cả thế giới diễn biến phức tạp, lượng tiền cung ứng trong lưu thông cao, tác động của quá trình hội nhập, của thâm hụt NSNN và của tiến độ chậm chạp trong cải cách khu vực kinh tế nhà nước. Trước hiện trạng như vậy, việc đặt mục tiêu ổn định giá cả trong trung hạn cũng như việc nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ CSTT phải được đặt ưu tiên lên hàng đầu bởi đây là hai nhân tố có tác động trực tiếp đến khả năng kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. Song song với đó, cũng cần phải tính đến các biện pháp có tính chất lâu dài như phát triển thị trường tiền tệ, nâng cao năng lực hoạt động cũng như tính độc lập của NHNNVN và cải cách hệ thống các NHTM.
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, việc điều hành CSTT trong giai đoạn 2001-2006 của NHNNVN đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể cả về lượng và chất. Các công cụ CSTT gián tiếp đã được sử dụng nhiều hơn và đem lại hiệu quả tích cực hơn mà điển hình chính là nghiệp vụ thị trường mở, điểm nhấn của hoạt động điều hành CSTT. Hơn thế nữa, việc sử dụng các công cụ khác như công cụ lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, quản lý ngoại hối, quản lý tỷ giá hối đoái cũng đang dần được điều chỉnh theo hướng tự do hoá và theo sát diễn biến với thị trường hơn.
Về vấn đề lạm phát, có thể nói, giai đoạn 2001-2006 là giai đoạn chứng kiến hai diễn biến tương đối đối lập nhau khi trong ba năm đầu, từ 2001 đến 2003, lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định, nhưng trong ba năm cuối, từ 2004 đến 2006, và trong gần như cả năm 2007, đây lại là chủ đề thu hút nhiều sự chú ý do tốc độ tăng giá ở mức cao. Cả hai diễn biến trên của lạm phát đều có mối quan hệ với tính chất của CSTT trong từng thời kỳ.
Chính vì vậy, trước khả năng tình hình lạm phát về trung hạn sắp tới sẽ vẫn ở mức cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc thực hiện CSTT hướng đến kiểm soát lạm phát sẽ phải là một ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nói chung và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng.
Bài viết này chắc chắn còn tồn tại nhiều điểm thiếu sót và hạn chế, do đó, rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của người đọc cũng như của những người quan tâm!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đại học Ngoại thương (1999), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Frederic S. Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Hà An (2007), Các biện pháp can thiệp vô hiệu tác động luồng vốn vào -Sự lựa chọn của ngân hàng trung ương, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 64, Hà Nội.
Học viện Tài chính (2000), Lý thuyết tài chính, NXB Tài chính Hà Nội, trang 279, Hà Nội.
Hồng Phúc (2004), Tăng dự trữ bắt buộc để kiểm soát độ nở của tiền tệ, www.vietnamnet.vn/kinhte/2004/07/171690/, truy cập: 15/09/2007
Hoàng Xuân Quế (2005), Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Thống kê, Hà Nội.
Khuê Anh (2007), Thách thức ổn định giá cả của ngân hàng trung ương trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 63, Hà Nội.
Kiều Oanh (2007), Fed cắt giảm lãi suất USD xuống còn 4,5%, www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=82&ItemID=48020, truy cập: 02/11/2007.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Minh Tâm (2007), Lãi suất cơ bản đã hết thời, www.tinnhanhchungkhoan.vn/tintuc.php?nid=4306, truy cập: 11/10/2007.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2004, 2005, 2006, Hà Nội.
Ngân hàng Thế Giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi- Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Minh Phong (2000), Lý thuyết lạm phát- giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Quang Thép (2006), Xây dựng ngân hàng trung ương hiện đại ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 19 ngày 30/10/2006
Nguyễn Thị Kim Thanh (2007), Xu hướng lạm phát gia tăng – Nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 62, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Tài (2007), Cơ hội và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 60, Hà Nội.
Nguyệt Quế (2006), Kiều hối: nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/doisongnvx/hdvktrongnuoc/2006/ 04/563928/, truy cập: 10/10/2007
Phương Anh (2007), Điều hành chính sách tiền tệ trước bối cảnh gia tăng luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 63, Hà Nội.
Phan Văn Tiệm (1991), Chặng đường 10 năm cải cách giá 1981-1991, NXB Thông Tin, Hà Nội.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế (2002) số 288
Tổng cục Thống Kê (1991), Kinh tế và tài chính Việt Nam 1986-1990, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm, NXB Thống kê, Hà Nội
Thông tấn xã Việt Nam (2007), ADB: Kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh, www.vnanet.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/213784/Default.aspx, truy cập: 06/10/2007
Tú Anh (2007), Tính độc lập của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ, www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin= 445, truy cập: 22/10/2007
Trần Ngọc Thơ (2007), Lạm phát 2004 và 2007 có gì khác?, www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=99426&CatId=26, truy cập 10/10/2007
Vũ Nguyên Hoà (2005), Mười điểm nhấn quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở năm 2004, www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=56, truy cập: 10/9/2007.
Vneconomy (2007), Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 15%?, www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=ec495e6dd7c993, truy cập: 15/09/2007
Website Bộ Công thương (2004), Chính sách tiền tệ hiện nay: Bất cập và hướng khắc phục, www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=14&id=420, truy cập: 20/9/2007
Tài liệu tiếng Anh
Carol Baker, Patrizia Tumbarello và Faisal Ahmed (2006), Vietnam: Selected Issues, IMF Country Report No. 06/422, Washington, D.C.
Frederic S. Mishkin (2004), Money, Banking and Financial Markets 7th edition, NXB Pearson Addison – Wesley, London.
Gregory Mankiw (2000), Principles of Macroeconomics 3rd edition, NXB The Dyren Press.
IMF (2003), Vietnam: Statistical Appendix, IMF Country Report No. 03/382, Washington, D.C.
IMF (2006), Vietnam: Statistical Appendix, IMF Country Report No. 06/423, Washington, D.C.
Michael Parkin (1999), Macroeconomics, NXB Addison – Wesley, London.
Olaf Unteroberdoerster (2004), Banking Reforms in the Lower Mekong Countries, IMF Policy Discussion Paper PDP/04/5, Washington, D.C.
DANH MỤC BẢNG - HÌNH
Danh mục bảng
Bảng 1. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu của NHNNVN thời kỳ 2004-2006 38
Bảng 2. Quy định về DTBB của NHNN giai đoạn 2001-2006 44
Bảng 3. Lượng kiều hối và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2001-2006 49
Bảng 4. Tỷ giá VND/USD do NHNNVN quy định giai đoạn 2001-2006 50
Bảng 5. Tăng trưởng GDP và lạm phát giai đoạn 1986-1990 52
Bảng 6. Chỉ số giá tiêu dùng theo nhóm hàng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ 2004-2006 58
Bảng 7. Một số chỉ tiêu về DNNN và công ty cổ phần có vốn NN 75
Bảng 8. Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2000-2006 76
Bảng 9. Tỷ lệ lao động có trình độ ĐH và trên ĐH trong ngành ngân hàng ở một số nước năm 2004 77
Danh mục hình
Hình 1. Lạm phát do cầu kéo 24
Hình 2. Lạm phát do chi phí đẩy 25
Hình 3. Diễn biến LSCB ở Việt Nam giai đoạn 2001-2006 36
Hình 4. Doanh số giao dịch thị trường mở 2000-2006 41
Hình 5. Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2006 51
Hình 6. Tình hình lạm phát từ năm 1991 đến năm 1998 52
Hình 7. Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2001-2006 54
Hình 8. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2001 55
Hình 9. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2002 56
Hình 10. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2003 57
Hình 11. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2004 59
Hình 12. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2005 61
Hình 13. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2006 62
Hình 14. CPI nhóm hàng lương thực thực phẩm 2002-3/2006 64
Hình 15. CPI nhiên liệu và phi nhiên liệu 2/2002-3/2006 65
Hình 16. Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2000-2006 67
Hình 17. Lạm phát trung bình và tốc độ tăng M2 trung bình của Việt Nam và một số nước trong khu vực 2003-2006 68
Hình 18. Diễn biến tổng phương tiện thanh toán năm 2006 72
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNH021.doc