Mở đầu
Cùng với việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhiều chính sách kinh tế mới được ban hành và phát huy tác dụng tích cực đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạng dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại trước là sự am hiểu về phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệƯu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có những bất cập là điều khó tránh khỏi.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, chúng em xin chọn đề tài "Chính sách tiền tệ, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam".
Phần một
Lý luận chung về chính sách tiền tệ
I. Khái niệm và mục tiêu của chính sách tiền tệ
1. Khái niệm.
Chính sách tiền tệ:
Là chính sách quản lý kinh tế vĩ mô do Ngân Hàng Nhà Nước xây dựng và thực hiện nhằm tác động vào lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của từng thời kỳ để đạt mục tiêu đề ra.
Việc xây dựng CSTT là chức năng của NHNN, Tuy vậy CSTT là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nên mục tiêu của CSTT phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế chung và mục tiêu của các chính sách kinh tế khác.
Việc thực thi CSTT cung là chức năng riêng của NHNN, nhưng NHNN là một bộ phận trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước, nên trong việc thực thi CSTT Ngân Hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ, các nghành khác, đặc biệt là Bộ Tài Chính.
CSTT tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng ( LTCƯ) cho lưu thông, điều khiển hệ thồng tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động của thị trừơng tiền tệ, thị trường vốn theo định hướng, kiểm soát hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và đảy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá trên cơ sở đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Phân hệ cơ bản của chính sách tiền tệ
Chính sách điều tiết lượng tiền cung ứng
Chính sách tìn dụng
Chính sách ngoại hối
Chính sách tạm ứng cho ngân sách Nhà nước
3. Mục tiêu của CSTT.
Mục tiêu của CSTT luôn gắn liền với mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện băng các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, CSTT là một trong các chính sách đó nên ngoài mục tiêu phục vụ mục tiêu chung thì nó còn có những mục tiêu cụ thể của nó. Bao gồm:
Mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.
Lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung của hàng hoá trong một thời gian dài. Tuỳ theo mức độ tăng giá mà người ta có thể phân thành: Lạm phát vừa phải, lạm phát không thể kiểm soát được và siêu lạm phát.
Theo quan điểm của trường phái Keynes và trường phái tiền tệ cung với đa số các nhà kinh tế thì lạm phát cao chỉ xẩy ra với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Họ đều đồng ý với quan điểm của nhà kinh tế học lỗi lạc Milton Friedman là “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”.
Khi có lạm phát cao sẽ đem lại những hậu quả không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế. Nó sẽ làm tăng chi phí giao dịch ( “chi phí dày da” do phải nhiều lần đến gửi, rút tiền tại Nghân hàng), chi phí điều chỉnh giá cả (“chi phí thực đơn” vì phải thay đổi bang giá liên tục), sự phân bổ các nguồn lực không hiệu quả do sự thay đổi mức giá tương đối, làm mất tính cân đối trong dự toán Ngân sách, sai lệch so với dự tính của các luật thuế, ảnh hưởng đến các quyết định tài chính, đối với các doanh nghiệp nó sẽ làm hạn chế đầu tư, đối với cá nhân nó sẽ làm ảnh hưởng đến các kế hoạch trong cuộc sống, gây ra sự phân phối thu nhập bất hợp lý, làm giảm thu nhập thực tế cảu những người có thu nhập cố định theo hợp đồng, mọi người sẽ chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, họ đổ xô vào mua sắm các tài sản gây ra sự tăng cầu giả tạo làm cho nền kinh tế tiến sâu vào vong xoáy lậm phát.
Từ sự phân tích trên, đặt ra mục tiêu ngăn chặn và kiểm soát lạm phát của CSTT. Băng việc sử dụng các công cụ của CSTT Ngân Hàng Nhà Nước có thể thực hiện CSTT thát chặt làm giảm tổng phương tiện thanh toán trong toàn nền kinh tế từ đó kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.
Mục tiêu giải quyết việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Thất nghiệp là tình trạng của những người có khả năng làm việc, mong muốn và nổ lực tìm kiếm việc làm nhưng chưa có việc làm.
Thất nghiệp là vấn đề kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới con người trực tiếp nhất. Đối với cá nhân, thất nghiệp là đông nghĩa với giảm mức sống và phải chịu một sức ép tâm lý rất lớn. Đối với toàn bộ nền kinh tế, khi có tỷ lệ thát nghiệp cao, thu nhập của toàn bộ dân cư trong toàn xã hội giảm dẫn đến nhu cầu tiêu dùng thấp, hàng hoá không tiêu thụ được, điều này sẽ hạn chế khả năng và không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, các nguồn lực cho phát triển sản xuất không được khai thác, sử dụng tối đa cả về quy mô và hiệu quả, nền kinh tế không đạt đến mức toàn dụng dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm lại và nền kinh tế đi vào tình trạng đình trệ, suy thoái.
Tình trạng này có thể được khắc phục băng việc thực thi CSTT mở rộng, hạ lãi suất, khuyến khích đầu tư, tăng khối lượng tiền tệ sẽ có tác động làm tăng cầu, thúc đẩy quá trình lưu chuyển hàng hoá nhanh hơn, giải quyết hàng hoá tồn đọng, tạo điều kiện cho đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút lao động sẽ là tác nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi mà nền kinh tế giữ được mức độ lạm phát vừa phải có lợi cho sản xuất và tiêu dùng, các nguồn lực được khai thác và sử dụng một cách hợp lý, nền kinh tế đạt mức toàn dụng, trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện mục tiêu chung, cuối cùng của các chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
II. Mối quan hệ giữa các mục tiêu của CSTT
Đường Phillips
Sự gia tăng ngắn hạn của mưc giá chung
Tỷ lệ thât nghiệp
Giữa hai mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đông tiền và mục tiêu giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của CSTT cũng có những cái chung và cũng có những cái riêng.
Xét trong dài hạn thì hai mục tiêu trên có cái chung là nếu ổn định được nền kinh tế, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút thêm lao động, sử dụng tối đa hiệu quả các nguồn lực sẽ là cơ sở cho phát triển kinh tế.
Trên thực tế cho thấy trong ngắn hạn không phải khi nào cả hai mục tiêu trên cũng thống nhất. Điều này được thể hiện ở đường Phillips cho thấy có sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. ở nhiều nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng cao thường gắn với một tốc đọ lạm phát và mất ổn định nhất định nào đó. Ví dụ: ở Hàn Quốc giai đoạn 1965-1980 tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình là 9,9% và tốc độ lạm phát trung bình là 18,4%. Chỉ trong giai đoạn 1987-1989 Hàn Quốc nhấn mạnh đến ổn định kinh tế, khi đó tốc độ lạm phát trung bình là 5% và tốc độ tăng trưởng GDP trung bình là 9,7%. ở Indonexia, giai đoạn 1965-1980 tốc đọ tăng GDP đạt là 7% với mức lạm phát là 35,5%, chỉ khi nhấn mạnh đến ổn định kinh tế giai đoạn 1980-1989 thì tỷ lệ lạm phát trung bình mới giảm xuống còn 8,3% và tốc độ tăn GDp đạt trung bình còn 5,3%.
Quy luật này cũng đúng cho tất cả các nước, có những nước với mức độ lạm phát vừa phải mà vẩn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP cao như Singapore, Malaixia, Hồng kông, Thái Lan. ở Thái Lan, giai đoạn 1965-1980 mức độ lạm phát trung bình là 6,2%, giai đoạn 1980-1989 là 3,2% với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hơn 7%.
III. Công cụ của CSTT
Tuỳ voà điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà NHNN có thể lựa chọn các công cụ sau để thực thi CSTT nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ.
1.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Là tỷ lệ nhất định giữa số tiền mà NHNN buộc các NHTM phải giữ lại so với số tiền gửi của khách hàng tại NHNN mà không được sử dụng cho bất kỳ mục tiêu gì. NHNN có thể tăng (hoặc giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm (hoặc tăng) khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM qua đó sẽ thực thi CSTT thắt chặt ( hoặc nới lỏng).
2. Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu.
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTM áp dụng khi khách hàng đem các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán đến xin được sử dụng một khoản tiền của thương phiếu sau khi trừ đi số tiền chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHNN áp dụng khi các NHTM đem các thương phiếu đã được chiết khấu nhưng chưa đến hạn thanh toán đến xin được vay vốn.
Bằng việc tăng ( hoặc giảm) lái suất chiết khấu, tái chiết khấu NHNN sẽ hạn chế (hoặc khuyến khích) hệ thống NHTM thực hiện việc chiết khấu thương phiếu cho khách hàng hoặc đem thương phiếu đã chiết khấu nhưng chưa đến hạn thanh toán đến xin chiết khấu ở NHNN qua đó sẽ làm giảm ( hoặc tăng) lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với mục tiêu của CSTT trong thời kỳ đó.
3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Là việc NHNN mua ( hoặc bán) các trái phiếu Kho bạc Nhà nước thông qua đó sẽ làm tăng (hoặc giảm) LTCƯ cho phù hợp với mục tiêu nới lỏng (hay thắt chặt) của CSTT.
4. Quản lý lãi suất tín dụng của các NHTM.
Băng biện pháp gián tiếp là tác động vào cung- cầu tiền tệ trên thị trường thông qua việc mua, bán ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý thông qua đó sẽ làm thay đổi lãi suất trên thị trường , tác động đến tín dụng và gián tiếp tác động đến LTCƯ. Hoặc NHNN có thể trực tiếp xác định lãi suất tín dụng của các NHTM thông qua khung lãi suất, trần lãi suất… tác động đến cung –cầu tiền tệ trên thị trường tiền tệ sẽ gián tiếp tác động đến sự thay đổi LTCƯ cho phù hợp trong từng thời kỳ.
5. Quản lý hạn mức tín dụng đối với các NHTM.
Là việc NHNN xác định giới hạn cụ thể doanh số cho vay ra nền kinh tế của mỗi NHTM. Đây là biện pháp trực tiếp khống chế tổng phương tiện thanh toán xã hội theo chi tiêu đề ra. Thường chỉ được sử dụng trong những tình huỗng nhất định và biện pháp này còn có rất nhiều hạn chế.
Chương 2
ThựC trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời gian qua
I. Mục tiêu và nội dung chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Mục tiêu
Chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm giá cả được ổn định, đồng tiền cần được giữ giá, là một trong những mục tiêu quan trọng về quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
ổn định tiền tệ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế đang bị lạm phát cao, giữa ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế nếu có sự mâu thuẫn thì phải giữ nguyên tắc dùng các giải pháp kiềm chế khối lượng tiền cung ứng tăng thêm để ổn định tiền tệ là điều cần làm trước tiên.
Chính sách tiền tệ theo đuổi các mục tiêu quán xuyến là:
- ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được giá cả, cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái.
- ổn định và tăng trưởng kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm, làm sao đạt đến mức toàn dụng mà không gây lạm phát.
Cụ thể:
1.1. Về kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền.
Trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị thì lạm phát luôn luôn là khả năng tiềm tàng. Khi hệ thống tiền tệ tín dụng chuyển đổi và vàng không còn nữa thì ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hoá là tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường. Giá trị đối nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước. Giá trị đối ngoại của đồng tiền được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng tiền có liên quan tác động qua lại với nhau. Vì vậy muốn ổn định tiền tệ và kinh tế trong nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái.
ở Việt Nam ngân hàng nhà nước công bố điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt theo thị trường. Hiện nay tỷ giá hối đoái 12.998 VND/1 USD. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng +/-7% (13.908 VND/1 USD). Điều chỉnh tỷ giá hối đoái hiện nay có lợi cho xuất khẩu. Nhà nước kiểm soát được nhập khẩu. Thực tế hiện nay tỷ giá hối đoái giảm hơn so với khi quyết định.
Về giá cả, do sản xuất hàng hoá tăng giá trị đồng tiền ổn định nên sức mua tăng. Đó là hai biện pháp để ổn định giá trị đồng tiền.
1.2. Tăng trưởng kinh tế
Khi tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) lớn hơn nhịp độ tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Khi khối lượng tiền tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền "rẻ" đi sẽ kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm cho đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc dân giảm. Như vậy, muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân hàng nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống Ngân hàng dưới tác động của Ngân hàng trung ương. Đối với Việt Nam, từ nay đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9-10%, tốc độ tăng trưởng cao này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cân bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và vay của nước ngoài để phục vụ mục tiêu này.
1.3. Tạo công ăn việc làm
Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người nhất là đối vơí các quốc gia chưa phát triển. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà có thể giảm dẫn đến thất nghiệp tăng. Nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp xảy ra là tự nhiên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng các hoạt động kinh tế. Để đạt mục tiêu này Ngân hàng nhà nước Việt Nam trách nhiệmlà phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên.
2. Nội dung của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ soạn thảo phối hợp với uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính… tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền.
2.1. Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ
Ngân hàng trung ương phải có giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối tiền tệ.
- Nếu nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối tiền tệ phải tăng bằng cách tăng trưởng kinh tế.
- Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát được kiềm chế.
- Trong điều kiện nhất định như nước ta có số lượng ngoại tệ nằm trong tay những người cư trú (Thể nhân và pháp nhân tương đối lớn nen cần được tính vào khối tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm).
- Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đén tốc độ luân chuyển của nó. tức là phải kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (M x V). Có khi gọi (M x V) là "Trao lượng tiền tệ", tức là tỏng số lượng tiền tệ để chi trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tốc độ lưu thông tiền tệ phụ thuộc nhiều yếu tố.
Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế của Nhà nước trình độ klỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng.
Về định hướng, tốc độ lưu thông tiền tệ (V) có thể do bằng tỷ số giữa GNP danh nghĩa và M (GNPIM), hoặc PQ (Tổng số giá cả hàng hoá) chia cho M (PQIM). Từ đó các nhà kinh tế "Trọng tiền" hiện đại theo học thuyết số lượng tiền tệ đến đẳng thức M x V = P x Q = GNP. Điều này có ý nghĩa là khi V và Q không đổi mà M tăng lên thì giá cả (P) sẽ tăng theo và GNP danh nghĩa tăng tương ứng. Tất nhiên cuộc sống phức tạp hơn.
Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền (Mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách, tín dụng cho nền kinh tế) bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối.
Để thực hiện toàn diện chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương sẽ cụ thể hoá từng mặt chính sách theo các kênh tiền của khối tiền tệ và sử dụng các công cụ điều tiết Vĩ mô.
2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, khối lượng tài sản các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng cung ứng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình là từ hai nguồn:
Thứ nhất là: Nguồn huy động tiền đã có sẵn trong lưu thông từ các tài khoảng gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi có kỳ hạn.
Thứ hai là: Sử dụng tiền Trung ương trong quá trình tái cấp vốn từ Ngân hàng Trung ương.
Sau khi Ngân hàn thương mại cho vay ra, sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và đẻ ra bội số tín dụng rất phức tạp. Theo lý thuyết, bội số này có thể tăng lên gấp nhiều lần so với số dư tiền gửi ban đầu. ở các nước công nghiệp phát triển công nghệ Ngân hàng phát triển cao, thị trường nhạy cảm thì người ta nặng về sử dụng các công cụ gián tiếp chủ yếu (Như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, ngiệp vụ thị trường mở lãi xuất) để điều tiết tổng khối lượng tín dụng, từ đó tác động đến tăng, giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Việc khống chế bằng hạn mức tín dụng chỉ là biện pháp hỗ trợ.
Khối lượng tiền tệ tăng thêm được rót qua kênh tín dụng hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các nhà doanh nghiệp với Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng. Khi các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến Ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn (tái chiết khấu). ở đây Ngân hàng Trung ương luôn luôn là người cho vay cuối cùng, việc này nhằm thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng phải huy động được tối đa nguồn tiền nhàn rỗi tỏng dân chúng để đầu tư và phát triển kinh tế, qua kênh gửi tiền vào Ngân hàng. Để tăng vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, kiềm chế lạm phát, tăng nguồn vốn người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá cơ cấu tiền gửi: Ngân hàng Trung ương khuyến khích và thúc đẩy việc các doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản tiền gửi, thanh toán và gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng, sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (Séc, chuyển tiền điện tử, các loại thẻ điện tử…) phục vụ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp với giá cả (Lãi suất) sử dụng vốn hạ nhất vì muốn kích thích taưng đầu tư cho nền kinh tế, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì lãi suất tiền vay là một vấn đề hết sức quan trọng. Ngân hàng là các nhà buôn tiền nên không thể chấp nhận lãi suất âm (Lãi suất tiền gửi lớn hơn lãi suất cho vay). Nhưng Ngân hàng cũng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thực tế của thị trường, mà phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để các nhà sản xuất cho người gửi và chi phí cho hoạt động của mình không để mức chênh lệch tiền gửi và lãi suất cho vay quá lớn sẽ dẫn đến khuyến khích dân chúng chuyển từ dạng tiền gửi Ngân hàng sang dự trữ tài chính bằng vàng và ngoại tệ.
Khuyến khích các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng nguồn vốn đầu tư vào các dự án cải tiến kỹ thuật, thay đổi trang thiết bị, tăng năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường, thực hiện triệt để nguyên tắc: "Vay để cho vay" Ngân hàng Trung ương chỉ là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàn thương mại và Tổ chức tín dụng.
Mở rộng mạng lưới hoạt động và dịch vụ Ngân hàng đến mọi vùng, mọi thành phần kinh tế: Trên thị trường teìen tệ khác hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn Ngân hàng, đến lượt mình Ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn nghiêm chỉnh, có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ chủ động, trong đó Ngân hàng Trung ương giữ vai trò chi phối, điều tiết.
2.3. Chính sách quản lý ngoại hối
Để ổn định gía trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia Ngân hàng Trung ương thực hiện các nhiệm vụ: Quản lý ngoại hối, lập theo dõi diễn biến củâ cán thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước. Quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, với các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm timf kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối vào nước mình, tổ chức quản lý nợ nước ngoài.
Trong các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái và dự trữ ngoại tệ, thị trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền tệ và giá trị đồng tiền trong nước cụ thể như sau.
Chính sách quản lý ngoại hối hướng vào ngăn chặn việc tích tữ ngoại tệ trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, nếu có ngoại tệ phải bán cho Nhà nước, khi cần thi mua lại trên thị trường hối đoái, thu hút các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Trung ương - Đây là chính sách mua bán đứt đoạn, có tác dụng làm tăng giá trị trên thị trường chỉ tiêu tiền nước mình, Nhà nước dễ kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông.
Dự trữ ngoại tệ: Phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nước. Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ vào làm cho quĩ dự trữ ngoại tệ tăng, đồng thời cũng làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Qua việc mua bán ngoại tệ Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp thị trường. Chủ động tác động đến tỷ giá hối đoái theo chiều hướng tích cực.
Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, thì chính sách tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương thực thi là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nếu tỷ giá quá thấp sẽ khuyến khích nhậph khẩu, gây khó khăn chô xuất khẩu vì hàng xuất khẩu sẽ đắt hơn, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho các ngành sản xuất những mặt hàng xuất khẩu đó, việc chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào gây bất lợi, dự trữ ngoại tệ bị xói mòn. nếu tỷ lệ hối đoái cao sẽ không có lợi cho nhập khẩu nhưng lại khuyến khích cho xuất khẩu, làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn dễ cạnh tranh trên thịi trường quốc tế, kích thích chuyển ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Như vậy có hai phương pháp để ổn định tỷ giá. Một là tỷ giá cao hay thấp là do Ngân hàng Trung ương can thiệp. Hai là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại hối trên thị trường chi phối Ngân hàng Trung ương hoàn toàn không can thiệp.
2.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân hàng Nhà nước.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng muốn đạt được mục tiêu như mong muốn, cần xử lý tốt mối tương quan của nó đối với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu chi ngân sách Nhà nước. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với mức độ khác nhau trong các trường hợp sau:
- Trường hợp Ngân sách cân bằng: Khi Chính phủ thu thuế vào ngân sách tức là lấy ra từ thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân mộ lượng tiền, khi ngân sách chi ra cho bộ máy quản lý Nhà nước và nền kinh tế thì số tiền ấy lại được giải toả nhưng vẫn nằm trong lưu thông:
- Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Chênh lệch chi lớn hơn thu, sẽ có tác động khác nhau đến nênè kinh tế tuỳ theo cách tài trợ cho số thâm hụt ấy. Có 4 cách giải quyết: Một là vay dân, hai là vay của hệ thống Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng, ba là vay Ngân hàng Nhà nước, bốn là vay nợ nước ngoài.
Vay của Ngân hàng Nhà nước, vay nợ nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, gây áp lực lạm phát. Vay của dân cư, của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong nước thì nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ trên thị trường nhẹ hơn.
Không có sự lựa chọn nào hơn là phải phấn đấu thực hiẹn một ngân sách Nhà nước còn cân bằng nguồn thu thuế và chi tiêu. Không nên để bội chi ngân sách do phải bù đắp thiếu hụt chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sachs phải phấn đấu thu đủ trang trải các nhu cầu chi thường xuyên.
- Trường hợp ngân sách thặng dư: (Số thu lớn hơn số chi) là trường hợp rất quí, vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa trên thị trường, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
II. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ những năm qua ở VN.
1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM).
NVTTM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán (TTCK) trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của NVTTM được ban hành theo quyết định số 85/2000/QD - NHNN 14 ngày 09/3/2000.Qua nửa năm hoạt động, NVTTM đã góp phần khắc phục khó khăn bước đầu trong thời vận hành.
Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam , Ngân hàng công thương Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng CHINFON, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài chính bưu điện.Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua NVTTM từ 12/07/2000 đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 228,020 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trướng mở là khá đơn diệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi . Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất .
2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu.
Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTƯ thực hiện CSTT. Nhưng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay triết khấu còn chưa hoàn thiện (đó là các thương phiếu, hối phiếu).
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm 1997, lãi suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 03 đến tháng 07/1997: mức lãi suất triết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất triết khấu quy định là 0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất cho vay triết khấu lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay chiết khấu đối với các NHTM lần1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn 0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000, quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đã được ban hành và trên cơ sở đó các NHTM được chủ động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi suất cơ bản. Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN) vẫn giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng nhưng lãi suất tái triết khấu tăng từ 0,40% lên 0,45%tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4% lên 0,5%.
3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc( DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hành năm1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây NHNN cũng liên tục giảm tỷ lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng.
4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành CSTT trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đưa ra và áp dụng công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất định, chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6076.doc