Chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng & Giải pháp

A LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài : Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập thị trường tài chính quốc tế nói riêng là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển hiện nay. Việt Nam cũng nằm trong xu thế đó, đang tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế và khu vực. Thị trường tài chính mở rộng gần như không biên giới, vừa tạo đièu kiện tăng cường hợp tác, vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh. Việt Nam

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng nhận thức rất rõ rằng nếu thị trường tài chính yếu kém thì sẽ không thể thu hút được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nước ta đã bắt đầu tiến hành tiến hành công cuộc đổi mới cơ bản và toàn diện cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Một trong những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới là chúng ta đã bước đầu đi vào cải cách hệ thống tài chính tiền tệ, đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường tài chính. Đặc biệt trong giai đoạn hiên nay, trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và nhất là sự kiện Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, đòi hỏi mở cửa thị trường, đối xử bình đẳng, ban hành luật lệ minh bạch, cạnh tranh công bằng... Các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn đều mong muốn được vào đầu tư tại Việt Nam. Do vậy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Nên việc nghiên cứu xem xét những tác động và ảnh hưởng của nó tới các chính sách kinh tế vĩ mô là rất quan trọng, đặc biệt là nghiên cứu tác động của nó tới chính sách tiền tệ và chính sách thương mại. Trong phạm vi hạn hẹp của một bài đề án người viết chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ của vấn đề đó, đó là nghiên cứu chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở. 2.Mục tiêu cần giải quyết: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm tìm hiểu về vị trí, vai trò, mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ Việt Nam trong nền kinh tế mở, từ đó đưa ra những kiến nghị và đề xuất trong việc hoàn thiện chính sách tiền tệ nước ta trong thời gian tới. Từ mục tiêu trên, đề án gồm những nội dung sau: - Cơ sở lí luận về chính sách tiền tệ. -Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ nước ta trong thời gian tới. B. NỘI DUNG Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA I. Khái niệm, vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ 1. Khái niệm chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là tập hợp tất cả các mục tiêu, công cụ, thủ tục của Nhà nước sử dụng trong việc kiểm soát, chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền tệ, đảm bảo giữ ổn định giá trị đồng tiền quốc gia nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách tiền tệ được nhà nước uỷ quyền cho Ngân hàng trung ương (NHTƯ) thực hiện. Chính sách tiền tệ của NHNN được thể chế hoá thông qua các văn bản pháp luật, NHNN là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. 2. Vị trí của chính sách tiền tệ Tiền tệ có chức năng cơ bản là phương tiện trung gian của quá trình trao đổi, là kết quả của sự phát triển hàng hoá và là “dầu nhờn” cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả. Tiền tệ là công cụ của quản lý kinh tế vĩ mô vì hoạt động của tiền tệ gián tiếp tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh,tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nó là nguồn lực quan trọng của hoạt động kinh tế đồng thời là yếu tố hàng đầu khai thác và phát huy khả năng tiềm ẩn của các nguồn lực khác trong nước và quốc tế. Sự vận động của tiền tệ nếu ở tình trạng quá thiếu hụt hoặc quá tải đều đem lại hậu quả bất ổn định cho nền kinh tế quốc dân. Do vậy, chính phủ tất cả các quốc gia đều rất chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách tiền tệ của nước mình, coi đó là các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng. Nói cách khác, tiền tệ và chính sách tiền tệ là công cụ để nhà nước tác động tới sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân. NHTƯ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn. Nhiệm vụ của chính sách tiền tệ Trong giai đoạn đầu NHTƯ chỉ là Ngân hàng phát hành, nó được chính phủ giao nhiệm vụ phát hành tiền tệ cho nền kinh tế mà khởi thuỷ nó là một số NHTM có uy tín, chiếm vị trí quan trọng nhất trong hệ thống Ngân hàng. Sang giai đoạn thứ 2 Ngân hàng phát hành được cải biến thành NHTƯ, không chỉ làm nhiệm vụ phát hành tiền mà nó còn phải thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao phó như: xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ, bảo quản các dự trữ tiền tệ của Ngân hàng, cung cấp tín dụng cho các Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, kiểm soát khối lượng tín dụng sao cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Lúc này, hệ thống Ngân hàng được chia thành hai cấp: NHTƯ chuyên thực hiện chính sách tiền tệ và là Ngân hàng cấp I; Các NHTM chuyên kinh doanh tiền tệ và là các tổ chức tài chính có nhiệm vụ chấp hành chính sách tiền tệ, chịu sự chỉ đạo quản lý của NHNN. Qua các nhiệm vụ như vậy, chúng ta có thể thấy nhiệm vụ của NHTƯ trong việc thực hiện chính sách tiền tệ điều tiết vĩ mô là rất quan trọng. 3.1 Điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông: Trong nền kinh tế tiền tệ, mối quan hệ giữa khối lượng tiền tệ trong lưu thông với khối lượng hàng hoá có một tác động rất lớn đến việc ổn định và phát triển kinh tế. Mác cũng đề cập là: Phải bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông và khối lượng tiền thực tế trong lưu thông. Như vậy điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế giữ một vị trí quan trọng bậc nhất trong các nhiệm vụ của NHTƯ. Với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, NHTƯ giữ vai trò quyết định khối lượng tiền trong lưu thông qua các nghiệp vụ: Cho các NHTM vay, quyết định tỷ lệ dự trữ pháp định đối với các NHTM, thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu cho các NHTM, cho ngân sách Nhà nước vay… Nói chung, NHTƯ có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để làm cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông lớn lên, hoặc giảm đi tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ đã đề ra. 3.2. Ổn định sức mua của đồng tiền nội địa: Sức mua của đồng tiền mỗi nước chịu tác động từ nhiều phía, NHTƯ luôn phải tìm biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền nội địa nhằm thực hiện chính sách kinh tế trong nước và thực hiện chính sách kinh tế quốc tế có hiệu quả. - Trước tiên là sức mua của đồng tiền chịu tác động của quy luật cung cầu hàng hoá: Khi cung hàng hoá lớn hơn cầu hàng hoá thì giá cả hàng hoá bị suy giảm và ngược lại khi cung hàng hoá thấp hơn cầu hàng hoá thì giá cả hàng hoá tăng lên. Cả hai hiện tượng tăng hoặc giảm giá cả hàng hoá điều gây ra sự bất lợi cho sản xuất và cho người tiêu dùng. Khi giá cả hàng hoá tăng lên, tức là quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội lớn hơn quỹ hàng hoá hiện vật. Trong trường hợp này NHTƯ tìm biện pháp để giảm quỹ tiêu dùng, tăng quỹ đầu tư cho sản xuất. Khi giá cả hàng hoá giảm, tức là quỹ tiêu dùng bằng tiền của xã hội đang nhỏ hơn quỹ hàng hoá hiện vật. Trong trường hợp NHTƯ phải tìm biện pháp kích thích tiêu dùng và kích thích sản xuất có hiệu quả. - Sức mua đồng tiền nội địa còn chịu tác động của giá vàng và ngoại tệ đặc biệt là ngoại tệ. + Khi giá vàng tăng lên, tức là sức mua của đồng tiền bị giảm sút và ngược lại, khi giá vàng giảm sút thì sức mua của đồng tiền tăng lên. Khi giá vàng biến động cần có sự can thiệp của NHTƯ nhằm bảo đảm sự ổn định của giá vàng, làm cơ sở ổn định tiền tệ. Giá vàng ổn định, ít biến động còn là một yếu tố hạn chế cất giữ vàng trong nhân dân và nâng cao khả năng thu hút tiền tiết kiệm trong công chúng. + Khi thực hiện nền kinh tế mở cửa, quan hệ giữa ngoại tệ và nội tệ có sự tác động qua lại rất gắn bó. Điều đó thể hiện ở chỗ sự tăng giá hoặc giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ. Khi đồng nội tệ giảm giá thường kích thích sản xuất hàng hoá để xuất khẩu ra nước ngoài vì có lợi cho người xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá thì lại kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. 3.3. Điều tiết sản xuất và thiết lập cơ cấu kinh tế: Để làm được vai trò này, NHTƯ sử dụng các biện pháp cần thiết để phân phối tài nguyên quốc gia cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, nhằm tạo ra một sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng và cân đối. Bên cạnh đó NHTƯ còn là một cơ quan thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội do được Nhà nước giao nhiệm vụ cung ứng tín dụng cho nền kinh tế và tạo điều kiện cụ thể cho các ngành kinh tế nhận được tín dụng hoặc hạn chế tín dụng của một số ngành kinh tế nào đó nếu sự phát triển của nó phá vỡ sự cân đối của nền kinh tế. Tuy NHTƯ không trực tiếp đầu tư kinh doanh, nhưng NHTƯ đóng một vai trò rất quan trọng đó là quy định các chính sách tín dụng cụ thể cho các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, áp dụng các loại lãi suất phân biệt đối với từng ngành kinh tế... dựa trên các chiến lược phát triển kinh tế cũng như kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của Nhà nước. Vấn đề đặt ra cho NHTƯ là phải có chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đó là các dự án phát triển kinh tế xã hội tổng hợp bao gồm nhiều ngành nghề liên quan với nhau, và qua dự án đó NHTƯ có chính sách tiền tệ - tín dụng cụ thể. Thực chất của việc phân phối tín dụng cho các ngành kinh tế là phân phối tài nguyên cho các ngành kinh tế sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội và cung cấp dịch vụ cho xã hội. Vì vậy, mà khi kế hoạch cung ứng tín dụng của Ngân hàng được thực hiện, thì nó sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế tương ứng. Hơn nữa cơ cấu kinh tế còn là sự biến đổi cho phù hợp của từng thời kỳ phát triền của nền kinh tế, nghĩa là có sự di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác, có sự tăng tốc độ phát triển của một ngành nào đó và phải hạn chế phát triển của một ngành khác. Sự thay đổi tốc độ phát triển của các ngành kinh tế, sự di chuyển vốn từ ngành kinh tế này sang ngành kinh tế khác chỉ có thể hoạt động qua cơ chế hoạt động của tín dụng của ngành Ngân hàng là nhanh chóng và hiệu quả nhất. 3.4. Chỉ huy toàn bộ hệ thống Ngân hàng của quốc gia: Muốn thực hiện được vai trò chỉ huy của NHTƯ đối với toàn bộ hệ thống Ngân hàng của quốc gia thì đòi hỏi NHTƯ phải có quyền lực. Mà cụ thể phải kiểm soát được mọi hoạt động về cung cấp tín dụng của các Ngân hàng kinh doanh, bằng cách sử dụng các chính sách tiền tệ là thiết yếu. Bằng các kỹ thuật riêng của mình NHTƯ phải thường xuyên nắm được khối lượng tín dụng đã và sẽ được cung cấp cho nền kinh tế để có biện pháp thích ứng. Hơn nữa NHTƯ còn phải nắm được khối lượng tín dụng đã, đang và sẽ cung cấp cho mỗi ngành kinh tế để có thể có biện pháp điều tiết thích hợp, thiết lập cơ cấu của nền kinh tế theo mục tiêu đã định trước. Hoạt động kinh tế tiền tệ có mục đích sâu xa của nó là tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế. Nhưng do điều kiện của nền kinh tế thị trường có vô số các chủ thể kinh tế khác nhau, mà mỗi chủ thể điều có một chiến lược riêng, chiến thuật riêng để kinh doanh, do đó, hoạt động của một chủ thể có thể dẫn đến sự vi phạm đến lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế, chưa kể là nó còn có thể vì lợi ích riêng mà vi phạm các nguyên tắc chung. Vì vậy không thể thiếu sự chỉ huy thống nhất để phân phối hành động, làm cho các chủ thể đó phải tuân thủ pháp luật, đặt lợi ích chung của xã hội lên trên tất cả các lợi ích riêng lẽ. Lợi ích riêng lẽ nào phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì lợi ích đó được phép tồn tại và lợi ích riêng lẽ nào mâu thuẫn với lợi ích chung của xã hội thì cần phải loại trừ. Trong hoạt động Ngân hàng cũng vậy, NHTƯ phải kiểm tra, kiểm soát hoạt động của Ngân hàng kinh doanh để thống nhất lợi ích xã hội với lợi ích từng chủ thể kinh doanh riêng biệt thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế đã đề ra. Tóm lại, khi NHTƯ thay đổi chính sách tiền tệ sẽ dẫn đến sự thay đổi dự trữ của NHTM, sự thay đổi dự trữ của các NHTM sẽ làm thay đổi mức cung tiền tệ, sự thay đổi mức cung tiền tệ sẽ dẫn đến sự biến động về lãi suất và khối lượng tín dụng tại thị trường vốn, sự thay đổi về lãi suất và khối lượng tín dụng tạo ra tổng mức cầu của xã hội về đầu tư và phát triển kinh tế. Đến đây ta thấy chính sách tiền tệ của Nhà nước cũng có một tác động quan trọng đến tổng mức cầu của xã hội. Vì vậy, trong quá trình thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của NHTƯ không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ với sự hoạt động của hệ thống tài chính. II. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia Có thể thu gọn lại, chính sách tiền tệ của Nhà nước có 3 mục tiêu chủ yếu đó là: Tạo công ăn việc làm; tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. 1. Công ăn việc làm cao Việc làm cho người lao động là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Trong thực tế, chưa có một quốc gia nào đã xây dựng được một xã hội lý tưởng mà mọi người điều được lao động, lao động bằng khả năng của mình và được hưởng các thành quả lao động đó. Vì vậy, mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là luôn luôn nhằm vào việc tạo công ăn việc làm cho mọi người. Chúng ta có thể thấy rằng, khi nền kinh tế phát triển thì công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm đi và ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm bị suy giảm, thất nghiệp tăng lên. Có thể nói rằng trong cơ chế thị trường không thể chống thất nghiệp triệt để được, mà chính sách tiền tệ chỉ có thể nhằm vào mục tiêu lý tưởng là gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm nhiều hơn và ổn định giá cả. Mục tiêu tạo công ăn việc làm trong chính sách tiền tệ của NHTƯ được thực hiện thông qua tác động vào đầu tư mở rộng phát triển nền kinh tế. Vì lao động là một trong những yếu tố tiềm năng của nền kinh tế, và khi đầu tư tăng lên thì khả năng sử dụng tiềm năng này sẽ được tăng thêm. Điều cần lưu ý là trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và thất nghiệp là hai khía cạnh khó làm bạn, khi lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm và ngược lại. Phái trọng tiền hiện đại thì chủ trương rằng cần chống lạm phát, còn thất nghiệp hoàn toàn là do sự tự nguyện. Vì thế, họ chấp nhận thất nghiệp cao để ngăn ngừa lạm phát cao. Còn một số nhà kinh tế khác thì chủ trương cần phải mua một tỷ lệ lạm phát thấp với một tỷ lệ thất nghiệp tương ứng. Vì vậy, nó tạo điều kiện ổn định hơn và do vậy mà nó tránh được các cơn sốt kinh tế do thất nghiệp và lạm phát. 2. Tăng trưởng kinh tế Đây là mục tiêu mà NHTƯ cần phải hướng tới. Tuy sự tác động của tiền tệ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có thể thấy được là muốn cho nền kinh tế phát triển tốt, nhất thiết phải thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, tức là phải sử dụng một phần thu nhập quốc dân để đầu tư mới, ngoài việc đầu tư giản đơn. Mục tiêu quan trọng trong chính sách tiền tệ của NHTƯ là làm thế nào để tập trung một bộ phận quan trọng của thu nhập quốc dân thặng dư chưa sử dụng phục vụ cho tái sản xuất mở rộng nền kinh tế, để làm được điều đó thì thường NHTƯ sử dụng chính sách lãi suất. Nâng lãi suất tiền gửi sẽ thu hút được nguồn vốn cho tín dụng dồi dào. Nhưng khi lãi suất tiền gửi gia tăng thì lãi suất tiền vay cũng gia tăng và điều đó lại có tác động làm giảm đầu tư. Hơn nữa khi lãi suất tiết kiệm gia tăng đã thu hút phần lớn quỹ chi tiêu của xã hội và như vậy làm hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm và do đó, nó làm hạn chế đầu tư. Theo lý luận của các nhà kinh tế học thì khi mức cung tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng sẽ giảm xuống, và do đó cầu đầu tư gia tăng và điều đó làm gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi mức cung tiền giảm, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng tăng sẽ hạn chế cầu đầu tư làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Mặc dù, ngày nay chúng ta thấy rằng sự tác động vào quá trình gia tăng sản lượng do nhiều yếu tố phức tạp khác như tâm lý tiêu dùng, giá cả thế giới có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế của bất cứ nước nào, nhưng tiền tệ vẫn đóng vai trò chính yếu. 3. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ Mục tiêu quan trọng nhất của NHTƯ là kiểm soát và kiềm giữ lạm phát. - Lúc thế giới sử dụng chế độ kim bản vị, thì lạm phát được kiểm tra qua việc chính phủ quy định tỷ lệ tiền giấy mà một Ngân hàng có thể phát hành được so với số vàng mà họ nhận được vào kho dự trữ. Khi tiền mất giá người ta cho phép đổi tiền giấy để lấy vàng và khi tiền giấy lên giá cho phép đổi vàng lấy tiền giấy, nhờ vậy mà sức mua của tiền được ổn định. - Ngày nay tiền giấy không được hưởng chế độ khả hoán. Quyền phát hành nằm trong tay Nhà nước và vì vậy nó dễ dàng bị lạm dụng để phát hành cho các chi tiêu của chính phủ hoặc phục vụ cho kinh doanh của ngành Ngân hàng mà nó có thể dẫn đến lạm phát bất kỳ lúc nào. Vì vậy mà NHTƯ luôn luôn coi việc kiểm soát lạm phát là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tiền tệ nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, giá cả hàng hóa dịch vụ sẽ tăng lên, tất yếu dẫn đến lạm phát. Ngược lại chính sách tiền tệ nhằm thắt chặt cung ứng tiền tệ sẽ làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ giảm xuống và như vậy tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Vì vậy NHTƯ phải sử dụng các biện pháp cụ thể để kiểm tra khối lượng tiền trong lưu thông nhằm ngăn ngừa lạm phát xảy ra ở mức không mong đợi. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng tiền, tức là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước. Mặt khác, nó còn được biểu hiện sự ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Trong nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỷ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm của các quốc gia. Bởi lẽ, một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu. Ngược lại, giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu… Giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái. Lạm phát vừa phải và nhẹ nhàng đôi khi là liều thuốc bổ quan trọng kích thích sản xuất phát triển. 4. Quan hệ giữa các mục tiêu. Trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, vì nhìn một cách tổng quát và lâu dài thì các chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Về dài hạn, các mục tiêu không xung đột với nhau nhưng trong ngắn hạn các mục tiêu có sự xung đột, mâu thuẫn nhất định: Thứ nhất, là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát: khi tăng trưởng kinh tế cao thì sẽ làm cho thu nhập tăng lên tất yếu dẫn đến giá cả tăng, tức là lạm phát tăng. Muốn kiểm soát lạm phát thì phải hy sinh một phần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, là mâu thuẫn giữa lạm phát và thất nghiệp: khi thực thi chính sách tiền tệ nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp thì sẽ làm gia tăng lạm phát và ngược lại, nếu làm giảm lạm phát thì sẽ tăng tỷ lệ thất nghiệp. Vì vậy, trong ngắn hạn NHTƯ cần phải lựa chọn một mục tiêu để hướng tới và hy sinh mục tiêu còn lại. Về mặt lý thuyết, để chính sách tiền tệ tác động được đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế, NHTƯ luôn phải xác định rõ ràng chiến lược tiếp cận của mình, trong đó vấn đề cơ bản và tiên quyết là xác định tập hợp các mục tiêu cần đạt được bao gồm mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. Thông thường, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ được các NHTƯ thống nhất lựa chọn là ổn định giá trị tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc (còn gọi là mục tiêu giá cả, sản lượng và công ăn việc làm cao). Ngoài ra, tuỳ vào điều kiện cụ thể, NHTƯ còn lựa chọn thêm các mục tiêu ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của mình, không phải lúc nào NHTƯ cũng đạt được tất cả các mục tiêu đặt ra; trong ngắn hạn, đôi khi NHTƯ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu giảm lạm phát để tập trung khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột... III. Các công cụ của chính sách tiền tệ 1. Các loại chính sách tiền tệ: Các chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể tóm gọn lại thành 2 loại chính sách định lượng như sau: 1.1. Chính sách mở rộng tiền tệ: Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách nhằm cung cấp thêm số tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. 1.2. Chính sách thu hẹp tiền tệ: Chính sách thu hẹp tiền hay còn gọi là chính sách thắt chặt tiền tệ là chính nhằm làm giảm khối lượng cung ứng tín dụng sẵn có cho đầu tư, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy ra trong tương lai. Để thực hiện các chính sách tiền tệ trên, NHTƯ có thể sử dụng nhiều loại công cụ khác nhau, tuỳ theo điều kiện thực tế cụ thể và nhận thức cụ thể của các nhà lãnh đạo NHTƯ quốc gia đó về tính năng và tác dụng của nó đói với nền kinh tế. 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ: 2.1. Các công cụ gián tiếp bao gồm: 2.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở Đây là biện pháp mà NHTƯ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình, có thể mua hoặc bán các giấy tờ có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước trên thị trường mở để làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông. - Muốn tăng tiền trong lưu thông thì NHTƯ mua một lượng chứng khoán nhất định. Nếu là chứng khoán do các NHTM bán cho NHTƯ thì sẽ làm cho dự trữ của NHTM thừa ra do NHTM nhận được tiền của NHTƯ về việc mua chứng khoán. Nếu NHTƯ mua chứng khoán từ công chúng bán thì công chúng sẽ chuyển tiền nhận được từ bán chứng khoán đó vào tài khoản tiền gửi của họ tại NHTM. - Muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì NHTƯ ra một lượng chứng khoán nhất định. Nếu các NHTM mua chứng khoán sẽ làm giảm bớt dự trữ của mình, còn nếu như công chúng mua chứng khoán thì chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của mình ở NHTM cho NHTƯ cho nên cũng làm giảm dự trữ của NHTM. - Ưu điểm của biện pháp thị trường mở + NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được thị trường mở. + NHTƯ có thể can thiệp được một số lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ. + NHTƯ thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, dễ dàng, chi phí thấp. + NHTƯ có thể đảo ngược tình thế một cách dễ dàng, nghĩa là: nếu họ cảm thấy mua vào nhiều quá làm số tiền cung ứng tăng quá nhiều thì họ có thể bán ra để làm giảm số tiền cung ứng. - Nhược điểm của biện pháp tham gia thị trường mở của NHTƯ là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông điều nằm ở tài khoản tại Ngân hàng. Như ở các nước phát triển hiện nay 60 - 80% tiền trong lưu thông là ở tại các tài khoản Ngân hàng nên việc thực hiện các biện pháp này rất hữu hiệu. 2.2.2. Chính sách chiết khấu Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTƯ cho các NHTM vay làm tăng thêm tiền dự trữ của các Ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ kiểm soát công cụ này bằng cách tác động đến lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu. 2.2.2.1. Lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu là lãi suất các khoản vay mà NHTƯ cho NHTM vay. Đây là các khoản vay ứng trước không có tài sản bảo đảm. Như vậy, NHTƯ sẽ thay đổi lãi suất chiết khấu để làm cho các NHTM quyết định đi vay hoặc trả lại các món vay chiết khấu từ NHTƯ. Khi NHTƯ hạ lãi suất chiết khấu thì sẽ mở rộng khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu nên khuyến khích các NHTM vay nhiều hơn ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng tăng lên. Ngược lại, khi NHTƯ tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu nên hạn chế các NHTM đi vay ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng giảm. Hạn chế đối với nghiệp vụ vay chiết khấu là NHTƯ không kiểm soát được hoàn toàn khối lượng vay chiết khấu mà NHTM sẽ vay NHTƯ. Bởi vì, NHTƯ chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các NHTM phải vay chiết khấu ở NHTƯ. 2.2.2.2. Hạn mức chiết khấu Hạn mức chiết khấu là số dư nợ tối đa mà NHTƯ sẽ cho các NHTM vay. Bởi vì, mục tiêu quan trọng nhất của NHTƯ khi cho các NHTM vay là: NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Do vậy, NHTƯ không muốn cho các NHTM tích cực đi vay để thu lợi nhuận nhờ khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu. Vì thế, NHTƯ chỉ cho các NHTM vay trong một hạn mức nào đó, nếu đã sử dụng hết hạn mức cho vay thì NHTƯ sẽ từ chối cho vay chiết khấu tiếp. 2.2.3. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là số tiền mà NHTM bắt buộc phải dự trữ để phòng trừ trường hợp khách hàng đến rút tiền thì Ngân hàng có khả năng thanh toán, tránh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho khách hàng dẫn đến hoảng loạn Ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên tiền gửi của NHTM nhận được để NHTM biết được số tiền mà họ có thể cho vay và số tiền mà họ có thể gửi vào tài khoản dự trữ hoặc tiền mặt mà gửi lạ tại két theo quy định. Tiền dự trữ bắt buộc phải có = Tỉ lệ dự trữ bắt buộc x Tiền gửi nhận được Với quy định như thế, trước hết NHTƯ có thể nắm được số lượng tín dụng mà Ngân hàng đó đã cung cấp cho nền kinh tế. Hơn nữa, với quy định như trên thì hệ thống NHTM có thể mở rộng tín dụng ra nhiều lần theo công thức: Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu x 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc Trong đó: 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền, với hai giả thiết: - Các NHTM cho vay hết số tiền có thể cho vay, tức là dự trữ vượt mức bằng không. - Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống Ngân hàng. Nếu với tỷ lệ dự trữ pháp định là 10% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên 10 lần và số tín dụng có khả năng phát ra do hệ thống NHTM đó là 9 lần số tiền gửi nhận được đầu tiên. Để khống chế hoặc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế theo ý muốn, NHTƯ cần quy định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ pháp định tăng lên thì khả năng tín dụng giảm và ngược lại. Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên lộn xộn không thể kiểm soát được của hệ thống NHTM như: NHTƯ muốn nhanh chóng giảm lượng tiền cung ứng nên đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các NHTM nhận thấy rằng họ không có đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTƯ đề ra và không có đủ dự trữ để đáp ứng các hoạt động hàng ngày của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ tìm cách bán chứng khoán, thu hồi các món vay, vay từ các Ngân hàng khác… Nếu chỉ một Ngân hàng làm như vậy thì không sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm như vậy thì hệ thống Ngân hàng sẽ xảy ra tình trạng tranh giành tính thanh khoản, gây nên lộn xộn trong hệ thống Ngân hàng và có thể gây ra hoảng loạn Ngân hàng. Vì vậy, công cụ này không được khuyến khích sử dụng thường xuyên, nếu có sử dụng thì thay đổi với tỷ lệ nhỏ. 2.2. Các công cụ trực tiếp: Đây là loại công cụ được NHTƯ sử dụng trực tiếp để tác động vào khối lượng cung, cầu tiền tệ của nền kinh tế mà không cần thông qua loại công cụ nào khác, nó bao gồm: 2.2.1. Ấn định lãi suất: * NHTƯ ấn đinh trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng với các đối tượng cho vay. Nếu muốn tăng khối lượng cho vay thì NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, và nếu thấy cần hạn chế đầu tư thì NHTƯ ấn định mức lãi suất cao. - Ưu điểm của biện pháp này là NHTƯ có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh tế nào có lợi nhuận cao nhất mới được vay vốn Ngân hàng và như vậy cũng có nghĩa là loại bỏ các dự án kinh tế có lợi nhuận thấp mà theo chuyên gia Ngân hàng thì đầu tư vào các dự án đó không có lợi. Để có thể thực hiện được các biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải nắm được trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định được khối lượng tín dụng phù hợp. - Nhược điểm của biện pháp này là: + Nhược điểm thứ nhất của nó là nếu lãi suất Ngân hàng được ấn định không sát đúng với nền kinh tế thì có thể xảy ra 2 hiện tượng sau: Lãi suất Ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự đoán và Ngân hàng sẽ lúng túng khi đáp ứng. Khi lãi suất Ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, đầu tư suy giảm mà nếu Ngân hàng không điều chỉnh kịp sẽ làm bỏ lỡ cơ hội đầu tư. + Nhược điểm thứ hai là tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm, các NHTM sẽ gặp khó khăn khi vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được. * NHTƯ cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định cho các NHTM và các định chế tài chính phải thực hiện. Biện pháp này cũng có ưu nhược điểm sau: - Ưu điểm: là ngay lập tực hệ thống Ngân hàng trong một thời hạn ngắn có thể huy động được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh, hoặc hạn chế việc gửi tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử dụng các hình thức sinh lợi khác như mua bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu... - Nhược điểm: Các NHTM cũng không còn linh hoạt trong kinh doanh của mình mà phải tuân theo các quy định của NHTƯ. Hơn nữa nếu lãi suất ấn định không phù hợp với thực tế thì có thể xảy ra hậu quả là, hoặc người có tiền tìm cách chuyển tiền đến Ngân hàng để hưởng lợi tức. Vì vậy, đầu tư sẽ suy giảm khi gửi tiền ổn định và ít rủi ro, hoặc người có tiền sẽ không gửi tiền ở Ngân hàng nữa mà đầu tư vào động sản, dự trữ vàng nếu vàng có khuynh hướng tăng giá... * Chúng ta có thể thấy rằng ấn định lãi suất cho cả 2 trường hợp như trên là rất khó chính xác và khó có thể bám sát được diễn biến hàng ngày, hàng giờ của thị trường tiền tệ. Để khắc phục tình trạng này, nếu NHTƯ muốn bảo vệ quyền lợi của các Ngân hàng, NHTƯ ấn định mức lãi suất cao nhất của lãi suất tiền cho vay, còn sự biến động dưới mực cao nhất đó do NHTM tự thích ứng với thị trường. Nếu nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của NHTM, thì NHTƯ thường quy định mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. .Lãi suất là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung - cầu tiền tệ và quyết định khối lượng đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản lượng, công ăn việc làm, giá cả và lạm phát. Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào quy định trực tiếp lãi suất Ngân hàng. 2.2.2. Ấn định hạn mức tín dụng: Đây là biện pháp mà NHTƯ ấn định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định rồi sau đó tìm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0968.doc
Tài liệu liên quan