A. Lời mở đầu
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó Ngân hàng Trung ương, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.
Do vậy, đối bất cứ một quốc gia nào, đất nước nào cũng cần xem xét, nghiên cứu tình hình nền kinh tế của quốc gia mình để nhằm xây dựng một chính sách tiền tệ phù hợp, đảm bảo được tính hợp lý và thực hiện chúng một cách hi
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu quả nhất.
Qua đó, ta nhận thấy rằng chính sách tiền tệ có một vai trò nhất định trong việc điều hành nền kinh tế của mỗi một quốc gia. Sự lựa chọn tính đúng đắn trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ đem lại kết quả khả quan cho những mục tiêu được đặt ra.
B. Nội dung
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1.1. Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm.
1.1.1. ổn định giá cả
ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu dài hạn, trong quá trình thực nghiệm đã cho thấy ổn định giá cả thì phải ổn định giá trị đồng tiền, ổn định giá trị đồng tiền là ổn định sức mua của tiền tệ, để đạt được điều đó Ngân hàng Trung ưng đã đề ra mục tiêu trong chính sách tiền tệ là ổn định giá cả.
ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vĩ mô cũng như kinh tế vi mô, ổn định giá giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu qủa hơn vì loại trừ được biến động của giá cả. ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân phất triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như cho xã hội.
Chỉ số giá biến động tăng hoặc giảm đều bất lợi cho nền kinh tế trong mọi lĩnh vực. Nguy hiểm hơn sự bất ổn định giá cả dẫn đến sự phối hợp lại không dân chủ các nguồn lực kinh tế trong xã hội giữa các nhóm dân cư. Từ những lý do trên, đòi hỏi mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ phải là: ổn định giá cả và gần như chính sách tiền tệ của các quốc gia đều đưa ra mục tiêu này.
1.1.2. Tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế với tốc đọ tăng trưởng ổn định là yêu cầu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho sự ổn định của tiền tệ. Ngược lại tiền tệ có ổn định thì nền kinh tế mới phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng là khi tỷ lệ tăng GDP lớn hơn nhịp độ tăng dân số. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, tỷ lệ tăng đó chỉ có được sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải được hiểu cả về khối lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên.
Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu bất kỳ của chính sách vĩ mô nào. Đó là nền tảng cho mọi sự ổn định, vì một nền kinh tế tăng trưởng đảm bảo chính sách xã hội được thoả mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
1.1.3. Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ
Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mọi thành viên trong xã hội nhằm làm giảm thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi ba lý do:
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
- Thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ đó là mầm mống của các tệ nạn xã hội.
- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách và làm căng thẳng tình trạng ngân sách.
Chống thất nghiệp, tạo công ăn việc làm chỉ có thể đảm bảo một tỷ lệ nhất định, khó có thể xoá bbỏ được thất nghiệp hoàn toàn. Mỗi nước đều có một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đó là tỷ lệ được cấu thành từ tỷ lệ thất nghiệp tạm thời và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng là một trong những mục tiêu của chinhs sách tiền tệ.
1.1.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng
Các mục tiêu của chính sách tiền tệ không mâu thuẫn trong dài hạn nhưng trong ngắn hạn có những mục tiêu mâu thuẫn thậm chí là đối nghịch nhau.
Trước hết, việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt, điều đía dẫn đến lãi suất tăng không khuyến khích đầu tư, làm giảm tổng cầu, thất nghiệp vì thế có xu hướng tăng lên. Trong khi muốn duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì phải khuyến khích đầu tư, dấn đến thục thi chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá.
Thứ hai, mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn được thể hiện qua mức cung tièn tệ tăng nhằm thoả mãn mức cầu tiền thực tế dẫn đến giá cả hàng hoá cũng tăng.
Thứ ba, mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá, bằng việc hạ giá đồng bản tệ, các ngành công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng, tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm kèm theo sự tăng lên của mức doanh thu.
Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và trong dài hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và sự ổn định giá cả lại tương đối phức tạp, chúng mâu thuẫn nhau trong ngặn hạn nhưng lại bổ sung nhau trong dài hạn.
Như vậy, trong ngắn hạn Ngân hàng Trung ương không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên. Phần lớn Ngân hàng Trung ương các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách của chính sách tiền tệ nhưng trong ngắn hạn đôi khi phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc cung đối với sản lượng. Ngân hàng Trung ương được coi là có tiềm lực làm việc này vì nó nắm trong tay các công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Có thể nói. Ngân hàng Trung ương theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
Trong quá trình chỉ đạo chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương có thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế, ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ sáu tháng đến hai năm. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương phải chọn các mục tiêu trung gian để từ mục tiêu trung gian tác động đến mục tiêu cuối cùng.
1.2. Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian bao gồm các chỉ tiêu được Ngân hàngTrung ương lựa chọn để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.Các chỉ tiêu được sử dụng mục tiêu trung gian là tổng lượng tiền cung ứng (M1,M2, hoặc M3) hoặc mức lãi suất thị trường. Để được lựa chọn là mục tiêu trung gian thì phải thoả mãn một số yêu cầu:
Mục tiêu đó phải đảm bảo tính đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu nàychỉ có ích khi nó phản ánhđược tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng. Ngân hàng Trung ương có thể dựa vào các dấu hiệu này để điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết .
Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được, khi Ngân hàng Trung ương có khả năng kiểm soát mục tiêu trung gian, nó có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn các chỉ tiêu mà Ngân hàng Trung ương không có khả năng kiểm soát làm mục tiêu trung gian không chỉ ảnh hưởng đến định hướng và hiệu quả của chính sách tiền tệ mà còn láng phí do mọi cố gắng để đạt được chỉ tiêu này không mang tính mục đích.
Tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian là phải có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng. Khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của Ngân hàng Trung ương sẽ trở nên vô nghĩa, nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không có ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng hoặc giá cả.
Cả lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên nhưng ngân hàng Trung ương không thể chọn cả hai chỉ tiêu làm mục tiêu trung gian, mà chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó, căn cứ vào mối liên hệ của các chỉ tiêu này đến các mục tiêu cuối cùng. Bởi lẽ nếu đạt được mục tiêu về cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại.
Với các mục tiêu trung gian trên, Ngân hàng Trung ương không thể chủ động tác động một cách hoàn toàn vì vậy Ngân hàng Trung ương phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp.
1.3. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được Ngân hàng Trung ương lựa chọn để sao cho Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì nó phải đảm bảo được các tiêu chuẩn sau:
- Chỉ tiêu đó phải đo lường được nhằm tránh những sự suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu chính sách tiền tệ.
- Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Phải có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với các mục tiêu trung gian được lựa chọn.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm:
- Dự trữ của các Ngân hàng Thương mại: ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng tiền tệ vì thay đổi R, ảnh hưởng đến vốn khả dụng của Ngân hàng Thương mại do đó ảnh hưởng đến mức cung tiền.
- Lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.
- Vấn đề sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng hoặc thắt chặt là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách tiền tệ . Để làm được điều này Ngân hàng Trung Ương phải sử dụng các công cụ của mình.
II. chính sách tiền tệ ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới
2.1. Đối với Việt Nam, khi chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nặng nề sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chúng ta chưa có sẵn một chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường. Cho nên quá trình đổi mới ngân hàng là một quá trình vừa đổi mới hệ thống tổ chức, vừa đổi mới chính sách và cơ chế tiền tệ, tín dụng, thanh toán ... Trong đó, xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ được coi là một khâu đặc biệt quan trọng.
Từ khi Nhà nước ban hành hai pháp lệnh: "Ngân hàng Nhà nước" "Ngân hàng Thương mại- Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính", Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chính sách tiền tệ. Từ khi có Pháp lệnh Ngân hàng đến năm 1995, chính sách tiền tệ ở Việt Nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Lúc này các mục tiêu đặt ra của chính sách tiền tệ là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của chính sách tiền tệ trong thời kỳ này thông qua các chính sách. Chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã nhận thức được khối tiền tệ:
M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng.
M2: Gồm M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có thời hạn.
M3: Gồm M2 và các loại tiền gửi tại các định chế tổ chức khác.
L: Gồm M3 và các loại giấy tờ có giá.
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó trong quá trình xác định chỉ tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các nguyên tắc sau:
- Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế, khối lượng tiền tệ tăng trưởng tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế.
- Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát.
- Khối lượng tiền cung ứng dựa vào ngoại hối trong tay người cư trú.
- Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc độ lưu thông tiền tệ theo công thức: V= GNP/M hoặc V= P.Q/M.
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các loại tiền gửi ở ngân hàng nhằm giành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tăng hay giảm không làm ảnh hưởng tới giá cả hoặc thiếu phương tiện lưu thông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu thị trường thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từ các kênh tạo tiền (tín dụng, ngân sách, thị trường ngoại hối, thị trường mở).
Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tái cấp vốn.
Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường hối đoái; quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánh sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.
2.2. Giai đoạn 1991- 1995
Giai đoạn 191- 1995 là thời kỳ nền kinh tế nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ trong quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đạt được những thành tựu nổi bật tạo đà thuận lợi cho quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Kinh tế thời kỳ này tăng trưởng khá cao (bình quân hàng năm 8,3%) và lạm phát được kiểm soát ở mức thấp là thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta trong những năm qua.
Trong thời kỳ này, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế đồng thời kinh tế quốc doanh vẫn giữ vị trí quan trọng trong các khâu then chốt, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực: tỷ trọngcủa ngành công nghiệp trong GDP đã tăng từ 22,6% năm 1990 lên 28,9% năm 1993, dịch vụ từ 38,6% năm 1990 lên 41,2% năm 1993, nông nghiệp giảm từ 38,8% năm 1990 xuống 29,9% năm 1993. Đó là một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Những mặt được trong điều hành chính sách tiền tệ:
- Mặt được nổi bật nhất là xây dựng kế hoạch và điều hành khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu thị trường thay cho phương pháp điều hành theo quan điểm phát hành tiền mặt theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do chính phủ khống chế từ những năm 1991 trở về trước. Hàng năm, căn cứ vào dự kiến mức tăng trưởng kinh tế và mức lạm phát để xác định khối lượng cung ứng tiền tệ tăng thêm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Khối lượng tiền cung ứng hàng năm do Chính phủ giao cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước điều hành sử dụng vào hai mục đích: tăng tài sản có ngoại tệ và cung ứng phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại thông qua phương tiện tái cấp vốn, trong đso tăng tài sản có ngoại tệ là chủ yếu.
- Xác định và xây dựng được các chính sách tiền tệ cụ thể điều hành chính sách tiền tệ như:
+ Chính sách tín dụng: thực hiện phương châm đi vay để cho vay, tạo dựng nhiều công cụ huy động vốn và các mức lãi suất hấp dẫn, đồng thời mở rộng mạng lưới để huy động vốn nhàn rỗi trong dân là chính, kết hợp với nguồn vốn từ nước ngoài, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế theo hướng tăng cường tỷ trọng tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh và tín dụng trung và dài hạn, giảm dần tương ứng tỷ trọng cho vay kinh tế quốc doanh và cho vay ngắn hạn một cách hợp lý, tốc độ tăng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát dự kiến.
+ Xây dựng chính sách lãi suất theo định hướng thị trường theo nguyên tắc người gửi có lợi, người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh được, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp với biến động của chỉ số lạm phát và yêu cầu của chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước dần dần quy định một trần lãi suất tối đa, các tổ chức tín dụng quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi và cho vay, từng bước khép dần khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay có thời hạn dài sẽ cao hơn huy động và cho vay có thời hạn ngắn.
Lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại theo phương pháp chiết khấu trên cơ sở lãi suất cho vay thị trường thông qua phương thức tái cấp vốn, mức chiết khấu cụ thể theo yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ.
+ Chính sách quản lý ngoại hối dần từng bước đảm bảo Nhà nước nắm giữ được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá trị đồng tiền nội tệ. Điều hành tỷ giá ngoại tệ linh hoạt góp phần kiềm chế lạm phát, khuyễn khích xuất khẩu và thu hút vốn đàu tư nước ngoài. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, từng bước củng cố và nâng cao giá trị của đồng Việt Nam và phấn đấu trở thành đồng tiền chuyển đổi.
+ Chính sách đối với ngân sách: xây dựng được tư tưởng chỉ đạo không phát hành bù đắp thâm hụt; số thiếu hụt của ngân sách là một phần được vay nước ngoài.
- Sử dụng các công cụ hỗ trợ để điều hành chính sách tiền tệ theo yêu cầu và mục đích từng thời kỳ:
+ Điều chỉnh lãi suất tín dụng đối với nền kinh tế.
+ Tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
+ Xác định hạn mức tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.
+ Tổ chức các thị trường nội và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc.
+ Phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ:
- Thực hiện kế hoạc cung ứng tiền có kết quả cho 02 mục tiêu: tăng tài sản có ngoại tệ và đáp ứng phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại bằng phương thức tái cấp vốn. Nhờ đó, lượng cung ứng tiền tệ ra đã được cân đối với lượng ngoại tệ và khối lượng tín dụng cần thiết, không gây tác động đến lạm phát.
- Tạo dựng các công cụ tiến hành chính sách tiền tệ gián tiếp bên cạnh công cụ hạn mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại.
- Đổi mới chính sách lãi suất theo hướng thị trường, từng bước xoá bỏ bao cấp qua lãi suất, xây dựng chính sách lãi suất theo nguyên tắc người gửi có lợi, người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh được nhằm khuyến khích huy động vốn và mở rộn cho vay.
- Có nhiều biện pháp tình thế để kiềm chế lạm phát, nâng cao giá trị đồng tiền Việt Nam.
- Tín dụng đối với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, vốn huy động năm 1994 tăng gấp 2 lần và tổng dư nợ nền kinh tế tăng gấp 3,6 lần năm 1991, vốn huy động ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ cho vay, cơ cấu tín dụng thay đổi theo hươnge tăng tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn và kinh tế ngoài quốc doanh, giảm tương ứng tỷ lệ trọng trong cho vay ngắn hạn và kinh tế quốc doanh, đã đáp ứng ngày càng tốt hươn nhu cầu vốn của nền kinh tế, đặc biệt là đã chú ý đến khu vực nông thôn.
- Thực hiện cân đối nhu cầu tiền mặt cho nrrnf kinh tế, xoá bỏ tình trạng khấu hoãn chi tiền mặt, không phận biệt tiền mặt và chuyển khoản, xoá bỏ dần tâm lý giữ tiền mặt trong các tổ chức kinh tế và dân, nghiên cứu, tạo điều kiện thu hút vốn vào ngân hàng và đẩy nhanh tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Từng bước đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, tăng cường phương thức việc Nhà nước nắm ngoại tệ, thu hút ngoại tệ vào ngân hàng để phục vụ nhập khẩu và giữ ổn định được tỷ giá ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng tư tưởng chỉ đạo không phát hành cho ngân sách mà xử lý thiếu hụt ngân sách bằng vay dần thông qua thị trường tín phiếu kho bạc và vay nước ngoài.
Những mặt hạn chế:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế tr:
+ Lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với các yêu cầu cần đặt ra của nền kinh tế và của chính sách tiền tệ.
+ Lãi suất tái cấp vốn chưa phát huy được tác dụng của điều tiết khối lượng tiền một cách tích cực;
+ Công cụ dự trữ bắt buộc chưa theo yêu cầu của chính sách tiền tệ, các tổ chức tín dụng chấp hành chưa đúng tỷ lệ quy định và Ngân hàng Nhà nước xử lý chưa nghiêm minh.
+ Cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn.
+ Ngân sách còn căng thẳng và điều chỉnh chưa ăn khớp với chính sách tiền tệ, chi ngân sách theo thời vụ, thường tập trung vào cuối năm là một yếu tố gây áp lực lên lạm phát.
- Hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn chưa phát rriển mạnh và chưa hoànthiện, chưa nhạy cảm với nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
- Chưa thực hiện triệt để tư tưởng chỉ đạo là không phát hành bù đắp thâm hụt ngân sách; nhưng trên thực tế vẫn phát hành cho ngân sách chitiêu, bằng cách ngân hàng tạm ứng cho ngân sách chi, song không được hoàn trả đúng thời hạn, dẫn đến tăng tổng phương tiện thanh toán qua mức, gây tăng lạm phát ngoài dự kiến.
- Hình thành thị trường tín phiếu kho bạc chậm, làm cho Ngân hàng Nhà nước chậm nắm được và điều hành công cụ này phục vụ cho nghiệp vụ thị trường mở.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chưa ăn khớp, chưa nhịp nhàng.
2.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay
Chính sách tiền tệ trong thời kỳ này càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, nâng dần giá trị đồng nội tệ, tạo lòng tin trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đầu tư, góp phần đamt bảo sự tăng trưởng liên tục và vững chắc cho nền kinh tế, kìm giữ lạm phát.
Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ trong thời kỳ này là:
- ổn định sức mua trong nước của đồng nội tệ và duy trì giá trị hợp lý đối với ngoại tệ trong giao dịch đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế, góp phần kìm giữ lạm phát ở mức hợp lý.
- Góp phần tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc.
Các công cụ chính sách tiền tệ được hình thành trong thời kỳ này, cụ thể là:
- Hạn mức tín dụng:
Công cụ này dược Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ tháng 6/1994, đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sang đến năm 1998, tình hình lại chuyển biến ngược lại, hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn mức tín dụng trở nên không hiệu quả, một phần vì bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ thêm những nhân tố khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng. Do vậy, từ cuối năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tín dụng vẫn được tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời hạn chế sự gia tăng tín dụng khi tốc độ tín dụng có xu hướng tăng nhanh.
Lúc này Ngân hàng Nhà nước đã chuyến việc điều hành chính sách tiền tệ sang một số công cụ khác.
- Dự trữ bắt buộc
Kể từ khi ban hành Quyết định số 260QĐ-NHNN1 ngày 19/9/1995, mức dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi, không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn 12 thanga. Quy chế dự trữ bắt buộc lần này đã được quy định cụ thể hơn, thể hiện ở việc quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Năm 1998, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dngj chung cho các tổ chức tín dụng và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, từ tháng 3 đến tháng 6/1999, tỷ lệ này là 7% và từ tháng 6/1999 là 6%.
Ngân hàng Nhà nước không trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đối với việc tiền gửi dự trữ vượt quá, Ngân hàng Nhà nước áp dụng lãi suất 0,2%/tháng (bằng Việt Nam đồng) và 4,86%/năm (bằng ngoại tệ). Đồng thời, những tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì thì bị phạt theo mức 200% trần lãi suất cho vay bằng USD doThống dốc ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ (đối với dự trữ bắt buộc bằng USD). Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay.
Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao điều này cho thấy đã có sự phối hợpvận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này rất dễ thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999-đây là năm mà Chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu, lãi suất trần được điều chỉnh giảm 4 lần thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm đến 3 lần.
Trong năm 2001, công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều hành phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ , quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Việc nâng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15% tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống 3% (riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn xuống 2%) vào tháng 5/2001, đã có tác dụng hỗ trợ lớn đối với việc điều hành lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ so với lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. Và để phù hợp với diễn biến thị trường quốc tế và trong nước, nhất là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế. Tháng 12/2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10%.
Qua phân tích trên, chúng ta thấy chính sách kinh tế nói chung, chính sách tiền tệ nói riêng trong thời gian qua đã thực hiện được mục tiêu: ổn định đồng nội tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo nền tảng tài chính, ổn định mức cung tiền cho nền kinh tế hàng năm không còn theo ý muốn chủ quan mà dựa trên tốc độ tăng trưởng và lạm phát dự kiến, đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã được quyền chủ động bơm và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu Nhà nước đã được duyệt, loại bỏ tình trạng thiếu tiền mặt có tính chất thời điểm trong nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường mở ban đầu chưa hoạt động một cách có hiệu quả thì phương tiện thanh toán thông qua ngân phiếu thanh toán như vừa qua vẫn là giải pháp hữu hiệu trong việc bơm và rút tiền khỏi lưu thông, mặc dù sử dụng ngân phiếu thanh toán cũng có những hạn chế nhất định.
Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theo mục tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm.
- Tái cấp vốn
Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương mại theo các hình thức: cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại tại ngân hàng Nhà nước.
Trong giai đoạn trước tháng 3/1997, Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước tái cấp vốn. Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ tháng 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập, tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được ngân hàng Nhà nước quan tâm hơn trong việc điều tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng, công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn các tài chính tín dụng khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn cao. Ngược lại, việc quy định một mức tái cấp vốn lãi suất cao ngược với quy định một mức tái cấp vốn lãi suất thấp, chỉ khuyến khích (có lợi) vay của Ngân hàng Nhà nước. trong thờigian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trong hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vôn như thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp vốn lãi suất thấp sẽ khuyến khích các tổ chức tín dụng vay của ngân hàng Nhà nước sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào Ngân hàng Nhà nước dùng chính tiền của mình mua lại các giấy tờ có giá. Kết quả là nghiệp vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suất tiền gửi ngắn hạn.
Năm 1998, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1%/tháng lên 1,1 %/tháng. Năm 1999, cùng việc giảm dần lãi suất cho vay, lãi suất tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85%/tháng. Trong những năm 1999, 2000 và đầu năm 2001, lãi suất tái cấp vốn liên tục được điều chỉnh giả, nhằm thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ phục vụ cho mục đích kích cầu của nền kinh tế.
Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộg tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng thự tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu khá linh hoạt nhằm tác động vào các diễn biến tiền tệ theo các mục tiêu đã dự định. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh giảm 2 lần và hiện ở mức 0,4%/tháng và 0,35%/tháng tương ứng.
- Lãi suất
Thời kỳ này đánh dấu căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất thông qua các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giưã lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35%/tháng trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ lãi suất được công bố. Các Ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh. Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do lãi suất. Do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò là lãi suất chủ đạo, định hướng của các tổ chức doanh nghiệp, ấn định mức lãi suất kinh doanh. Vì thế, kể từ ngày 5/8/2000, theo Quyết định số 241/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0852.doc