Mục lục
Phần I : Tổng quan về chính sách tiền tệ.
I . Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ.
1. Chính sách tiền tệ là gì ?
2 . Mục tiêu của chính sách tiền tệ .
2.1 . Mục tiêu ổn định giá cả.
2.2 . Tăng trưởng kinh tế .
2.3 . Đảm bảo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp .
2.4 . Mối quan hệ giữa các mục tiêu .
II . Chính sách tiền tệ với việc điều tiết nền kinh tế thị trường .
1 . Vai trò của Ngân hàng Trung ương .
2 . Chính sách tiền tệ với những mục tiêu của nền kinh tế
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ đối với việc điều tiết nền kinh tế thị trường và những hạn chế - Thành công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
2.1 . Công cụ lãi suất .
a . Mức lãi suất .
b . Cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất .
2.2 . Công cụ khối lượng .
Phần II : Chính sách tiền tệ Việt Nam hiện nay, hạn chế và thành công .
I . Những hạn chế chính sách tiền tệ .
II . Những thành công chính sách tiền tệ .
Phần III : Một số kiến nghị về chính sách tiền tệ .
Lời nói đầu
Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những tăng trưởng đáng kể. Để có được sự tăng trưởng đó phải kể đến nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó ta không thể không kể đến chính sách tiền tệ. Được sự chỉ đạo, giám sát và tổ chức thực hiện đúng đắn của Ngân hàng Nhà nước ( NHNN ). Chính sách tiền tệ đã góp phần thực hiện mục tiêu về kinh tế - chính trị - xã hội mà Nhà nước đặt ra .
Với nội dung rộng lớn đã đòi hỏi người nghiên cứu phảI hiểu biết sâu sắc nó trên nhiều khía cạnh cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Với những kiến thức đã học, những tài liệu tham khảo và đặc biệt được sự hướng dẫn giúp đỡ của giáo viên trong bộ môn Tiền tệ thị trường vốn nên em quyết định chọn đề tài này .
Đề tài trọng tâm là : “ Chính sách tiền tệ đối với việc điều tiết nền kinh tế thị trường và những hạn chế - thành công “ .
Với khả năng có hạn em chỉ xin đóng góp một phần rất nhỏ bé vào việc nghiên cứu chính sách tiền tệ . Là sinh viên mới tập nghiên cứu nên kiến thức còn hạn chế. Do đó trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được thầy cô giúp đỡ để đề tài được hoàn chỉnh .
Em xin chân thành cảm ơn !
Phần I :
Tổng quan về chính sách tiền tệ .
= = = = = = = = =
I . Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ :
1 . Chính sách tiền tệ là gì ?
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tăng trưởng và sự phát triển nền kinh tế của một đất nước. Bởi thế mà nhiều nước đã xem chính sách tiền tệ là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng. Thông qua việc xây dựng và thực hiện tốt chính sách này để đạt được các mục tiêu kinh tế đất nước tạo điều kiện tiền đề cho đất nước vững bước trong những năm đầu của thế kỷ 21. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTƯ thông qua các công cụ của mình để thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm .
Khi NHTƯ thay đổi chính sách tiền tệ nó sẽ tác động đến các nhân tố và cơ chế lan truyền trước hết là cung ứng lãi suất- sản lượng - thu nhập - nhu cầu. Để hiểu rõ vấn đề này ta đi nghiên cứu ví dụ sau : Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng, NHTƯ can thiệp trên thị trường mở hoặc mua ngoại tệ để phá giá đồng nội tệ nhằm mục đích mở rộng xuất khẩu. Trong khi nhu cầu tiền chưa có gì thay đổi, lãi suất ngay lập tức giảm xuống từ i1 tới i2 làm đầu tư tăng. Khi đầu tư tăng lên do tổng cầu( AD) tăng( vì đầu tư là một trong những nhân tố của tổng cầu) từ AD1 đến AD2. Sản lượng tăng từ Q1 đến Q2 với sự tăng lên của mức giá chung từ P1 đến P2. Điều đó được mô tả bằng mô hình dưới đây :
LS P AD1
P1---AD2-----------
i1---------
i2------------------ P2 -----------
Cung ứng tiền Q1 Q2 Q
Như vậy chỉ bằng việc thay đổi lượng tiền cung ứng của NHTƯ đã tác động ảnh hưởng đến giá cả sản lượng và công ăn việc làm. Tóm lạI, thông qua việc điều tiết lượng tiền cung ứng các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô và nhu cầu tiền tệ từ đó hoàn toàn tạo ra sự chủ động trong việc điều tiết về tiền tệ của NHTƯ .
2 . Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
Mục tiêu cơ bản quan trọng nó là tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, là ổn định giá trị tiền tệ. Các mục tiêu chính của các chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các quốc gia .
2.1 . Mục tiêu ổn định giá cả :
ổn định giá cả là mục tiêu cơ bản hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu dài hạn. Vậy ổn định giá trị tiền tệ là ổn định sức mua của tiền tệ. Để đo lường được mục tiêu này NHTƯ phải đảm bảo ổn định trên cả hai phương diện : ổn định giá trị đối nội của tiền. Chỉ tiêu này được lượng hoá bằng chỉ tiêu lạm phát tiền tệ ; ở phương diện thứ hai là ổn định giá trị đối ngoại được lượng hoá bằng mức biến động tỷ giá. Cụ thể là khi tỷ giá biến động ( có thể là tỷ giá tăng hoặc giảm ) :
- Khi tỷ giá tăng ( tức là đồng bản tệ mất giá) , điều này nó sẽ kích thích xuất khẩu, còn nhập khẩu bị hạn chế. Tình trạng này xảy ra trong điều kiện lạm phát tiền tệ thấp, sự biến động không qua lớn. Khi tỷ giá tăng qua cao bản tệ mất uy tín dẫn đến mọi quan hệ ngoại thương kém và các quan hệ kinh tế thế giới khác .
- Khi tỷ giá giảm ( tức là đồng bản tệ tăng giá ) , hoạt động xuất nhập khẩu bị giảm ( vì giá xuất khẩu tăng không kích thích xuất khẩu ) .
Như vậy, trong từng điều kiện, hoàn cảnh khác nhau các quốc gia muốn thực hiện các mục tiêu khác nhau và coi đây là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ mà NHTƯ phải kiểm soát.
Đối với lạm phát : Khi nền kinh tế có lạm phát kể cả lạm phát cân bằng có dự đoán trước vẫn gây ra hậu quả nhất định và nó làm tăng “chi phí mòn giày” và “chi phí thực đơn”, điều đó gây chi phí cho xã hội hay lạm phát không được dự kiến trước làm cho thông tin bị bóp méo, uy tín bị ảnh hưởng, cạnh tranh giữa các quốc gia bị ảnh hưởng, đầu tư bị thay đổi, tâm lý và các vấn đề xã hội của công chúng bị đảo lộn .
Như vậy hậu quả mà lạm phát để lại là rất lớn và ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế. Khi lạm phát xảy ra NHTƯ cần phải thắt chặt việc cung ứng tiền tệ. Đặc biệt khi có sự biến động về tỷ giá thì NHTƯ mua ngoại tệ từ đó làm cho cung ứng tiền tệ bị biến động. NHTƯ sẽ bán ngoại tệ hoặc mua ngoại tệ. ở Việt Nam thì chỉ số lạm phát có sự thay đổi : Năm 1998 là 9,2% - năm 1999 là 0,1% - năm 2000 là -0,6%
2.2 . Tăng trưởng kinh tế :
Mục tiêu ổn định giá cả sẽ không có ý nghĩa nếu không đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu số một của chính sách tiền tệ thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số hai của chính sách tiền tệ. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế là phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ có nghĩa là năm sau phải cao hơn năm trước .
Với bất cứ một chính sách kinh tế vĩ mô nào đều theo đuổi một mục tiêu quan trọng đó là một nền kinh tế phồn vinh với một tốc độ tăng trưởng ổn định. Đây là nền tảng cho mọi sự ổn định, bởi vì nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước. Cải thiện cán cân thanh toán, khẳng định được vị trí trên thị trường quốc tế về mặt kinh tế. Về chất lượng phải đảm bảo một cơ cấu kinh tế hợp lý, khả năng cạnh tranh cao thu hút được đầu tư nước ngoài, huy động được nhiều nguồnvốn.
2.3 . Đảm bảo công ăn việc làm, giảm thất ngiệp :
Đảm bảo công ăn việc làm có mối quan hệ mật thiết với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều đó được biểu hiện cụ thể là :
Khi nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp cao ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế, làm cho uy tín và vị trí của nền kinh tế bị đảo lộn gây ra chi phí cho ngân sách. Đây là mầm mống làm phát sinh tệ nạn xã hội, xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực. Chính vì lẽ đó phảI đặt nền kinh tế ở mức toàn dụng nhưng điều đó không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Ngoài ra việc cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu của chính sách tiền tệ , do đó mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên một cách chính xác để đạt được mục tiêu trên. Từ đó đặt ra một vấn đề nổi cộm đó là phấn đấu một nền kinh tế tăng trưởng và khi đã đạt được mục tiêu này thì sẽ đạt được mục tiêu giảm thất nghiệp. Nhưng tuỳ thuộc vào thực trạng, đặc điểm và đặc thù phát triển kinh tế của mỗi nước mà tập trung vào các mục tiêu cụ thể khác nhau trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ .
2.4 . Mối quan hệ giữa các mục tiêu :
Có thể nói rằng ba mục tiêu trên có mối quan hệ vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn. Chính đặc điểm nổi bật này mà tuỳ vào mục tiêu đất nước của từng thời kỳ mà vận dụng một cách linh hoạt và đạt mục tiêu nào là quan trọng nhất, mục tiêu nào là mục tiêu chủ yếu , mục tiêu nào là mục tiêu thứ yếu .
Tính mâu thuẫn và thống nhất được thể hiện rõ như sau :
- Tính mâu thuẫn : trong ngắn hạn có sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ . Để hiểu rõ điều này, chúng ta hãy nghiên cứu qua lý thuyết “tứ giác ma thuật” :
Tăng trưởng kinh tế Thất nghiệp
Bội chi cán cân thanh toán quốc tế Lạm phát
- Tính thống nhất : Về mặt dài hạn, ba mục tiêu sẽ không mâu thuẫn. Điều đó được thể hiện qua đường cong Philip, lúc này đường cong Philip trở nên thẳng đứng :
Lạm phát
Thất nghiệp
Khi NHTƯ tăng khối lượng cung ứng tiền tệ để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời điều này làm lạm phát có xu hướng tăng, thất nghiệp giảm và bội chi cán cân thanh toán quốc tế giảm .
Kinh tế tăng trưởng
Bội chi cán
Cân thanh toán Thất nghiệp giảm
Quốc tế
Lạm phát tăng
Như vậy muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì phải hi sinh mục tiêu lạm phát. Hay để đạt được ba mục tiêu : Tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, bội chi cán cân thanh toán quốc tế giảm thì lạm phát lại tăng . Do đó trong ngắn hạn NHTƯ không thể đạt được tất cả các mục tiêu. Tuy nhiên có nhiều quốc gia coi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu quan trọng và dài hạn. Chính sách tiền tệ nhiều khi cũng phải hy sinh mục tiêu này để đạt đươc mục tiêu khác .
II . Chính sách tiền tệ với việc điều tiết kinh tế thị trường :
Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của nước ta theo định hướng XHCN trong thời gian qua đã thu được nhiều thắng lợi. Với mục tiêu đưa đất nước ta từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo điều kiện và tiền đề cho những bước phát triển kinh tế sau này. Đảng và Nhà nước đã soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế trong những năm đầu thế kỷ 21. Một trong hnững cơ quan được giao trách nhiệm quan trọng ấy là NHNN Việt Nam - với chính sách tiền tệ. Việc nghiên cứu và đánh giá chính sách tiền tệ là vô cùng quan trọng, đó là điều kiện để đạt được mục tiêu đặt ra. Điều đầu tiên là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm .
1 . Vai trò của Ngân hàng Trung ương :
Nhiệm vụ chính của NHTƯ trong nền kinh tế tiền tệ là đảm bảo sự khan hiếm đúng mức của đồng nội tệ nhằm bảo vệ sự ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái cần thiết cho quá trình kinh tế. Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, NHTƯ với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, sẽ thực hiện việc đIũu tiết tín dụng và qua đó điều tiết những điều kiện của sản xuất bằng chi phí tín dụng đầu tư, tức là điều kiện tái cấp vốn của mình, mà lâu nay việc này, NHTƯ có hai loại công cụ chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết khối lượng và công cụ điều tiết lãi suất.
Trong nền kinh tế tiền tệ, người ta sử dụng chính sách chiết khấu và chính sách lân-bát để điều tiết lãi suất. NHTƯ quy định tỷ lệ lãi suất này khi ngân hàng nhận hối phiếu để tái chiết khấu và nhận chứng khoán làm thế chấp. Tỷ lệ lãi suất chiết khấu và nhận chứng khoán làm thế chấp. Tỷ lệ lãi suất chiết khấu và lãi suất Lân-bát sẽ cùng nhau quyết định “ lãi suất NHTƯ “ chính sách khối lượng được thể hiện trong khuôn khổ của chính sách thị trường mở. Đó là việc NHTƯ mua hoặc bán chứng khoán, để qua đó tác động trực tiếp vào khối lượng tiền tệ.
Mới nhìn người ta tưởng có thể phân biệt một cách rõ ràng giữa 2 công cụ này của chính sách tiền tệ, nhưng thực chất không phải như vậy. Vì, việc điều tiết lãi suất cùng có tác động tới khối lượng tức lãi suất tăng sẽ giảm nhu cầu tiền tệ, cũng như khi áp dụng chính sách về khối lượng cùng tạo ra một tỷ lệ lãi suất nhất định trên thị trường tiền tệ và tín dụng. Đó chính là mối quan hệ hữa cơ giữa khối lượng và giá đặc trưng do nền kinh tế thị trường. Trong mối quan hệ này thì trường hợp thứ nhất giá tác động vào khối lượng , trưòng hợp thứ hai khối lượng tác động vào giá. Khi điều tiết hai công cụ chính sách tiền tệ trên, NHTƯ không bao giờ sử dụng một khối lưọng vật chất là hàng hoá sản xuất và tiêu dùng nào, để làm định hướng cho các quyết định về chính sách tiền tệ của mình. Giá trị hàng hoá vật chất được xác định trên thị trường và giá trị hàng hoá được thị trường xác định. Nguyên tắc tính theo tổng sản phẩm quốc nội của quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) bằng cách phân biệt chính sách khối lượng đã đưọc định hướng như trên có những tác động về giá phát sinh. Khi nhu cầu tín dụng được ấn định thì việc đưa ra một khối lượngtiền trung ương nào đó sẽ tạo ra một lãi suất tín dụng nhất định. Sự chỉ dẫn của IMF chỉ là một sự hỗ trợ định hướng đã bị đơn giản hóa và khônh được phép nhầm lẫn với một sự cần bằng tiền - hàng. Nhưng những dao động hàng ngày và thời vụ của nhu cầu tiền tệ, những cơn sốt từ bên ngoài và nhiều yếu tố khác đòi hỏi phải có một chính sách linh hoạt, cụ thể cùng khi thay đổi tương ứng trong việc cung ứng tiền tệ. Khi nhu cầu tiền tệ vượt ra ngoài hành lang đã quyết định cho việc gia tăng khối lượng tiền tệ thì NHTƯ vẫn phải đáp ứng, nhưng với lãi suất cao hơn nhằm tác động một cách trung hạn vào sự đẩy lùi việc bùng nổ khối lượng tiền tệ. Việc công khai hoá mục đích gia tăng khối lượng tiền tệ cùng với thực tế theo đuổi việc thực thi mục đích này đã tạo được lòng tin vào khả năng dự đoán của chính sách tiền tệ nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cần thiết của chính sách tiền tệ. Tiền dề quan trọng ở đây là phải có những công cụ điều tiết gián tiếp khối lượng tiền tệ, đó là công cụ lãi suất. Khả năng biến đổi lãi suất NHTƯ không chỉ đảm bảo được giới hạn ngân hàng của kinh tế vĩ mô bằng việc duy trì sự khan hiếm của tiền tệ mà còn đảm bảo tính linh hoạt cần thiết cho việc cung ứng tiền tệ cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Chừng nào đồng nội tệ với chức năng là phương tiện cất giữ giá trị còn yếu kếm thì tỷ lệ tiền mặt vẫn còn cao; tiền NHTƯ không quay trở về các ngân hàng thương mại dưới hình thức các khoản tiền gửi và như vâỵ hệ số tạo tiền sẽ nhỏ đi. Nếu lúc này, NHTƯ không tăng lãi suất của mình mà lại tiếp tục cung ứng tiền ngân hàng trung ương với giá rẻ cho các ngân hàng thương mại, thì quá trình huỷ tiền tệ sẽ tiếp diễn.
Trong đại đa số những nước đang phát triển, cũng như tại Việt Nam, thông thường chỉ có khoản tiền gửi tương đối ngắn hạn, còn phần lớn là tiền NHTƯ. Cơ cấu khối lượng tiền như vậy cho hệ thống Ngân hàng kém phát triển, ít dành được lòng tin của khách hàng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHTƯ và hệ số tiền mặt ấn định, NHTƯ có thể giới hạn khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại thông qua việc ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Khối lượng dự trữ bắt buộc giữ tại ngân hàng trung ương không được tính lãi là một tổn phí đối với các ngân hàng thương mại, vì bất kỳ một khối lượng tiền NHTƯ nào trong khu vực các ngân hàng thương mại đều có nguồn gốc dã vay nợ tại NHTƯ và đều phải trả lãi. Việc dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ và đều phảI trả lãi. Việc dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ đối với các ngân hàng thương mại.
Một chức năng quan trọng khác của NHTƯ là chức năng “ người cho vay cuối cùng”. NHTƯ phải luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong thời kỳ khủng hoảng đều có khả năng cấp vốn cho các ngân hàng thương mại để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống NH thương mại. Phương tiện điều tiết thích hợp nhất của NHTƯ không phải là việc quy định hạn mức khối lượng, mà là việc thay đổi tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn ngắn hạn do hệ thống NH thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu nhưng với lãi suất phát triển. Hay nói cách khác, các công cụ lãi suất của NHTƯ càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dự trữ bắt buộc càng ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế chưa có thị trường chứng khoán nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức là những công cụ có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn còn là công cụ quan trọng của NHTƯ. Việc NHTƯ công bố sẵn sàng tạo khả năng tái cấp vốn do các NHTM trong bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ là tín hiệu cho khách hàng biết rằng: về cơ bản các NHTM luôn có khả năng thanh toán. Nhưng cũng không được hiểu sai chức năng cuả NHTƯ là người cho vay cuối cùng, mà các NHTM lạI không quan tâm để có một chính sách kinh doanh nghiêm túc, vì dẫu sao NHTƯ chỉ hỗ trợ trong trường hợp khủng hoảng. Chức năng “ người cho vay cuối cùng” chỉ phục vụ sự việc duy trì tính co dãn cần thiết của việc cung ứng tiền tệ do toàn bộ ngân hàng chứ không phải cho từng NH riêng lẻ thông qua hoạt động giám sát tín dụng là điều không thể thiếu được.
Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTƯ luôn là chủ nợ của hệ thống ngân hàng. Đây là một vấn đề dễ bị nhầm lẫn. Tiền đi vào chu trình kinh tế bằng con đường các NHTM chuyển các hối phiếu và trái khoán lên NHTƯ và bị triết khấu mất phần lãi suất phải trả cho phần được vay, qua đó trở thành người nợ của NHTƯ. Với vị trí chủ nợ NHTƯ có thể điều tiết việc mở rộng khối lượng tiền tệ. Chính vì lý do đó, các NHTM không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTƯ , vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của ngân hàng trung ương. Nếu các NH gửi tiền tại NHTƯ thì đó chỉ thuần tuý là việc dự trữ có lãi. Nếu NHTƯ trở thành người nợ của hệ thống NHTM thì khi đó họ không còn khả năng tác động trực tiếp vào sự gia tăng khối lượng tiền tệ bằng chính sách tiền tệ của mình, vì bất cứ lúc nào NHTM cũng có thể rút tiền gửi họ.
Tương tự như vậy, một vấn đề chủ đạo đối với khả năng điều tiết của NHTƯ là việc NHTƯ chỉ được phép cho các NHTM vay ngắn hạn. Đây là điều cần thiết , vì chỉ có như vậy NHTƯ mới có thể phản ứng nhanh trước những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. Chỉ có các NHTM mới được phép cấp tín dụng dài hạn. Để làm được điều này, các NHTM phải huy động động nguồn tiền gửi dài hạn của các chủ đầu tư. Nhưng các chủ đầu tư chỉ sắn sàng gửi tiền dài hạn nếu những rủi ro mất giá tiền gửi của họ được giảm một cách tối đa trên cơ sở giá và tỷ giá hối đoái ổn định và qua đó họ thu được khoản lãi thực tế dương. Nếu một khi NHTƯ có những khoản nợ phải đòi hỏi dài hạn thì khác nào họ tự chôn vùi tiềm năng điều tiết của họ và thúc đẩy sự bất ổn định trong khu vực tiền tệ. Và chính sự điều tiết này làm mất đi các điều kiện có thể huy động tiền gửi dài hạn của các chủ đầu tư. Do vậy, tiền đề đối với một hệ thống ngân hàng hai cấp có hiệu lực là việc thiết lập một cơ chế cạnh tranh giữa các ngân hàng, tức là hoạt động cạnh tranh trong việc huy động tiền gửi.
2 . Chính sách tiền tệ với những mục tiêu của nền kinh tế :
2.1 . Công cụ lãi suất :
Các đề án chính sách kinh tế dựa trên ý tưởng cho rằng có thể đạt được các mục tiêu kinh tế tổng thể bên cạnh mục tiêu ổn định bằng cách tác động vào mức lãi suất hoặc vào cơ cấu lãi suất. Điều đó hoàn toàn độc lập với việc : bằng cách can thiệp vào những điều kiện hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, người ta cần theo đuổi được các mục đích cơ cấu, thị trường lao động, mục đích công nghiệp, mục đích phân phối hay mục đích chính sách phát triển.
a . Mức lãi suất :
Nhiều đề án chính sách kinh tế dựa vào sự thay đổi tỷ lệ chiết khấu, tức là tỷ lệ lãi suất phải cấp vốn cho các NHTM của NHTƯ, đều có chung ý tưởng cơ bản cho rằng có thể khuyến khích đầu tư bằng việc hạ thấp tỷ lệ chiết khấu qua việc NHTƯ không thể tự do quy định tỷ lệ chiết khấu, vì NHTƯ phảI bảo vệ sự ổn định của mức giá cả và tỷ giá hối đoái danh nghĩa và khả năng hoạt động của đồng nội tệ. Muốn vậy NHTƯ phảI lựa chọn một tỷ lệ lãi suất sao cho có thể khuyến khích các chủ đầu tư sẵn sàng giữ tài sản của mình bằng đồng nội tệ .
Nếu các chủ đầu tư không sẵn sàng gửi tiền dài hạn bằng đồng nội tệ vào hệ thống NHTM thì tỷ lệ lãi suất hiện thời đang thấp hơn mức lãi suất cân bằng. Một khi các NHTM chỉ huy động được ít hoặc không huy động được tiền gửi dài hạn thì họ sẽ chỉ có thể cấp được một khối lượng tín dụng dài hạn ít cho các doanh nghiệp, tuy họ vẫn có khả năng chuyển đổi dài hạn. Thực ra trong việc cấp tín dụng, các NHTM không chỉ dựa vào tiền gửi, vì họ có thể được tái cấp vốn bằng cách vay nợ NHTƯ. Nhưng số tiền gửi quá ít thì cũng không thể cân đối lại được bằng cách vay NHTƯ. Về nguyên tắc, NHTƯ chỉ được phép cấp tín dụng ngắn hạn vì tín dụng dài hạn sẽ hạn chế khả năng can thiệp của NHTƯ. Giả sử NHTƯ vẫn cứ cấp tín dụng dài hạn thì điều đó sẽ làm giảm sự nhiệt tình gửi tiền dài hạn của các chủ đầu tư vì nguy cơ mất giá tài sản tiền tệ do lạm phát sinh ra từ khả năng can thiệp yếu đi của NHTƯ.
Khi tiền gửi dài hạn và hệ thống ngân hàng quá ít, nhưng người ta lại không muốn để sản xuất mà trước đó thường đã ứng trước vốn bằng đồng nội tệ bị đình trệ hoàn toàn, chỉ còn cách cuối cùng là Nhà nước phải cấp tín dụng dài hạn cho các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ có thể cấp khoản tín dụng này bằng cách hạn chế các khoản chi ngân sách hoặc gia tăng thâm hụt ngân sách. Trong trường hợp thứ nhất thì việc đầu tư sé không mang lại kết quả chung một cách tích cực, vì tổng các khoản chi ngân sách không thay đổi. Nếu Nhà nước tăng thuế nhằm mục đích cấp tín dụng cho các doanh nghiệp thì kết quả cũng tương tự. Ngược lại., nếu Nhà nước thanh toán các khoản chi bổ sung này bằng việc vay tín dụng của NHTƯ thì điều đó sẽ để lại hậu quả tiêu cực cho việc ổn định mức giá. Nếu Nhà nước phát hành công trái thì mức lãi suất sẽ tăng, mà điều này sẽ làm giảm mọi hoạt động đầu tư của tư nhân .
Như vậy, việc tìm cách khuyến khích đầu tư thông qua việc quy định mức lãi suất thấp hơn mức cân bằng coi như bị thất bại. Một chính sách như vậy không gia tăng được hoạt động đầu tư mà chỉ dẫn đến tình trạng lạm phát và mất giá .
b . Cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất :
Trong khi các chính sách kinh tế tập trung vào việc giảm lãi suất để theo đuổi các mục tiêu của chính sách thị trường lao động và chính sách phát triển thì những đề xuất để Nhà nước điều tiết cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất lại nhằm vào các mục tiêu của chính sách cơ cấu, chính sách khu vực và chính sách công nghiệp. ở đây, cơ cấu lãi suất thực chất là mối quan hệ giưã tỷ lệ lãi suất ngắn hạn và dài hạn, trong khi đó chênh lệch lãi suất thể hiện mối tương quan giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Vấn đề về việc tác động của chính sách kinh tế vào cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất liên quan đến hai điều kiện cơ bản trong khả năng hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp như sau :
- Đó là các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh theo lợi nhuận, nên họ cần phải có chênh lệch lãi suất dương giữa tỷ lệ lãi suất cho vay và tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn. Nếu do những qui định pháp lý mà khoản chênh lệch lãi suất này bị âm thì các NHTM kinh doanh lỗ vốn .
- Do đó , để tránh sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng vì tác động của chêng lệch lãi suất âm làm mất lòng tin vào đồng nội tệ và việc sẵn sàng gửi tiền dài hạn, cần phải có biện pháp bù đắp những thiệt hại phát sinh từ chênh lệch lãi suất âm. Việc chi phí cho những thiệt hại thông qua quá trình tiền tệ hoá hay gia tăng khoản nợ của Nhà nước, như đã nói ở phần trên, trong mọi trường hợp đều dẫn đến hậu quả tiêu cực. Việc đó sẽ làm tăng mức giá hoặc lãi suất. Nếu một khi những thiệt hại xảy ra, thì cách dùng ngân sách Nhà nước để bù đắp vẫn là một hình thức ít có hại nhất .
Những điều đã nói ở trên không có nghĩa là Nhà nước để mặc cho NHTM tự qui định về chênh lệch lãi suất trong mọi trường hợp. Trong điều kiện hệ thống NHTM không có điều kiện cạnh tranh thì việc quyết định giá tối đa mang tính pháp lý về mức chênh lệch lãi suất lại rất có ý nghĩa .
Để đảm bảo hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thì phải đảm bảo cho các NHTM được hưởng các điều kiện tái cấp vốn như nhau. Việc Nhà nước trích thu lợi nhuận của NHTM chỉ nên thực hiện bằng luật thuế, chứ không nên điều tiết bằng cách phân biệt những điều kiện thí cấp vốn. Việc phân biệt tỷ lệ tái suất cho vay và huy động theo ngành , khu vực và lãnh thổ cũng như việc phân biệt tỷ lệ chiết khấu theo từng ngân hàng là không thích hợp với một hệ thống ngân hàng có hiệu lực. Tỷ lệ lãi suất tiền gửi chỉ nên phân biệt theo thời hạn của khoản tiền gửi. Bất kỳ một sự phân biệt lãi suất huy động nào khác cũng sẽ làm vô hiệu hoá mọi cố gắng thu hút tiền gửi để kinh doanh kiếm lợi của các NHTM, do đó các NHTM cần chú ý tới các điểm sau :
Thứ nhất là khi phân tích những khả năng tái cấp vốn, các ngân hàng cần phải so sánh giữa chi phí huy động tiền gửi với chi phí vay nợ NHTƯ để tìm ra hình thức tái cấp vốn có lợi nhất cho việc cấp tín dụng của họ. Khi tính chi phí huy động tiền gửi thì phải tính cả tỷ lệ lãi suất phải trả lần chi phí phát sinh của tỷ lệ dự trữ bắt buộc .
Thứ hai là khi đối cấp chiếu các phương thức thì cấp vốn với nhau, các ngân hàng cần chú ý tới khả năng chuyển đổi thời hạn khác nhauvì điều này có ý nghĩa quyết định với việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp.
Cạnh tranh trong khu vực ngân hàng có nghĩa : Các NHTM cạnh tranh với nhau trong việc thu hút tiền gửi, vì nhận tiền gửi sẽ quyết định khả năng mở rộng thị trường của họ. Nhưng tổng lượng tiền gửi và cơ cấu thời hạn của nó lại do NHTƯ quyết định thông qua việc đảm baỏ sự ổn định của đồng nội tệ: trong khi đó , việc cạnh tranh giữa các NHTM với nhau sẽ quyết định việc phân chi tổng lượng tiền gửi trên trong nội bộ khu vực ngân hàng. Ví dụ một ngân hàng do vị trí lãnh thổ thuận lợi có thể huy động được nhiều tiền gửi nhưng theo quyết định thì phải trả lãi cao hơn lãi suất trung bình của các ngân hành cạnh tranh khác, điều đó sẽ gây bất lợi cho ngân hàng này trong cạnh tranh .
Việc phân biệt tỷ lệ lãi suất tín dụng, chừng nào sự phân biệt này không bị ràng buộc vào hạn mức tín dụng, sẽ dần tới việc từ chối cấp tín dụng ở các khu vực dược hưởng lãi suất theo qui định. Việc từ chối cấp tín dụng này sẽ chỉ có thể xảy ra, nếu trong khu vực được ưu đãi lãi suất thấp này chứng minh được hệ số an toàn của việc trả nợ gốc và lãi cao hơn so với những người vay tín dụng tiềm năng khác. Nhưng điều này luôn khó đạt được vì hệ số an toàn cao luôn đòi hỏi lợi nhuận và đạt được của những người vay tín dụng cũng khồn phải cao, những khu vực như vậy lại không cần đến sự can thiệp bằng chính sách kinh tế để cấp tín dụng cho các dự án đầu tư. Mà hoàn toàn ngược lại, Nhà nước phải can thiệp vào khu vực kinh tế mà ở đó theo sự đánh giá của Nhà nước, việc cấp tín dụng theo điều kiện kiện của thị trường đã được một một khố lượng tín dụng quá nhỏ.
Về cơ bản, nhược điểm của việc phân biệt lãi suất là nó làm mất đi chức năng phân bổ của một tỷ lệ lãi suất. Việc tìm cách xoá bỏ cơ chế chọn lọc của tỷ lệ lãi suất do các NHTM xác định trong hoạt động giao lưu với ngân hàng và điều này bắt buộc Nhà nước phải tiếp tục can thiệp dưới hình thức quy định hạn mức tín dụng.
2.2 . Công cụ khối lượng :
Việc quy định hạn mức tín dụng theo ngành địa phương và khu vực kinh tế sẽ xoá bỏ khả năng của các NHTM trong việc tự quyết định cấp tín dụng theo hệ số an toàn dự tính của việc hoàn trả tín dụng. Khi các NHTM không còn có thể tự quyết định cấp tín dụng theo hệ số an toàn của việc hoàn trả tín dụng thì có nhiều khả năng là tỷ trọng của những khoản nợ khó đòi trong tổng khối lượng cho vay sẽ tăng. Trong khi đó các doanh nghiệp có khả năng thanh toán được lãi suất thì lãi không được nhận tín dụng để triển khai các dự án đầu tư của họ. Thông thường những điều kiện như vậy sẽ xuất hiện thị trường không chính thức ( thường gọi là thị trường chợ đen hoặc thị trường bất hợp pháp ). Trên thị trường này, tất cả các doanh nghiệp có khả năng trả lãi suất cao hơn lãi suất chính thức để có thể vay được. Do không có khả năng tái cấp vốn cho NHTƯ cho nên cả lãi suất cho vay lẫn lãi suất huy động trên thị trưòng chợ đen thường cao hơn lãi suất trong hệ thống ngân hàng chính thức. Điều này sẽ khuyến khích người gửi tiền rút tiền gửi họ ra khỏi hệ thống ngân hàng chính thức.
Việc giảm khối lượng tiền gửi và việc tăng thoát thoát tín dụng trong hệ thống ngân hàng chính thức sẽ dẫn đến những tổn thất cho ngân hàng buộc Nhà nước hoặc NHTƯ phải bù đắp hoặc ngăn chặn sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Hậu quả của nó sẽ tương tự trường hợp Nhà nước hoặc NHTƯ dảm nhiệm cho vay dài hạn đó là lạm phát và mất giá đồng nội tệ.
Việc mất ổn định trong hệ thống ngân hàng cũng như việc giảm chất lượng đồng nội tệ sẽ đi liền với việc phân bổ sai nguồn tài nguyên. Sức lao động và tư liệu lao động lại được phân bổ cho các ngành linh tế không có khả năng thanh toán cả gốc lẫn lãi. Các ngành được hỗ trợ lại tiêu tốn nguồn tài nguyên lớn hơn nhiều so với khoản họ có thể nhận được từ hệ thống ngân hàng không bị chính sách áp đặt.
Những ngành kinh tế được sự hỗ trợ của chính sách tín dụng ưu đãi đó phần phần lớn chỉ có thể tồn tại khi họ tiếp tục nhận được khoản viện trợ của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là nếu quy định lãi suất và hạn mức tín dụng thì sẽ phát sinh ngay khủng hoảng cơ cấu. Có thể khắc phục được vấn đề trên nếu Nhà nước thay việc tạo cấp lãi suất cũng như nguồn cấp nhận không có khả năng thanh toán gốc và lãi tín dụng bằng các hình thức trợ cấp khác. Nếu không muốn làm cách này gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của đồng nội tệ, thì các khoản trợ cấp này phải được thực hiện bằng nguồn ngân sách không bị thâm hụt. Tuy nhiên dù khi trợ cấp mà vẫn dự được cân bằng ngân sách thì biện pháp đó cũng không làm thay đổi được việc phân bổ nguồn lực , tài nguyên.
Khi quy định hạn mức tín dụng có kết hợp với việc ấn định lãi suất hoặc chính sách phân biệt lãi suất theo qui định pháp lý thì có nhiều khả năng làm cho tỷ lệ lãi suất trung bình sẽ thấp hơn tỷ lệ lãi suất cân bằng. Nếu không phải như vậy thì đã không dẫn đến sự can thiệp của Nhà nước. Điều này sẽ dẫn đến một loạt hậu quả giống như đã trình bày trong trường hợp quy định hạn mức tín dụng. Những can thiệp này sẽ mâu thuẫn sâu sắc với yêu cầu phải tách biệt những nhiệm vụ của Nhà nước và của NHTƯ không chỉ là một nguyên tắc hành chính hay một sự quy ước theo tiến trình lịch sử, mà là sự cần thiết có tính hệ thống cho mọi nền kinh tế thị trường . Ngay trong quá trình chuyển đổi Nhà nướ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29628.doc