Chương I
Tổng quan về chính sách tiền tệ quốc gia
. Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiện tệ quốc gia
1.1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó Ngân hàng Trung Ương (NHTƯ) sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , đảm bảo công ăn việc làm .
Cũng theo điều 2, Luật NHNN Việt Nam quy định : Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phậ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ & chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền , kiềm chế lạm phát , góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội , đảm bảo quốc phòng , an ninh và nâng cao đời sống nhân dân . Nó là trọng tâm hoạt động của NHTƯ . Ngày nay , vai trò đó của chính sách tiền tệ ngày càng trở nên quan trọng , không ít quốc gia đã xác định mục tiêu hoạt động của NHTƯ cũng là mục tiêu của chính sách tiền tệ .
Chính sách tiền tệ có thể được quyết định bởi chính phủ nếu NHTƯ trực thuộc chính phủ hoặc có thể được thực hiện bởi NHTƯ nếu nó độc lập với chính phủ.
1.1.2. Đặc trưng : từ phần khái niệm trên có thể rút ra những đặc trưng cơ bản sau :
- Nó là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia . Chính sách tài chính quốc gia bao gồm : chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá , mỗi chính sách đều có một vị trí và vai trò riêng , song chính sách tiền tệ luôn được coi là trung tâm .
- Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô . Trong việc cố gắng thực hiện các mục tiêu vĩ mô , Chính phủ cần phải sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô , trong đó chính sách tiền tệ cũng là một trong số đó bởi nó làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế ,từ đó tác động đến lãi suất và do đó , ảnh hưởng đến đầu tư .
- Nó được NHTƯ lập ra và thực hiện thi hành . Bởi , nó hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng , cho nên cơ quan nào thực hiện chức năng phát hành tiền và quản lý lưu thông tiền tệ thì cơ quan ddó phải lập ra và thực thi chính sách tiền tệ , đó không phải ai khác ngoài NHTƯ .
- Mục tiêu tổng quát của nó là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác .
. Cơ sở của chính sách tiền tệ
Đó là việc chủ động tạo ra sự biến động về tiền tệ thông qua cơ chế lan truyền ảnh hưởng từ cung ứng tiền – lãi suất – sản lượng – thu nhập – cầu tiền .Nó đã được Hilton Fiedman tìm ra và chứng minh được từ cuộc khảo sát thực tế phát triển kinh tế Mỹ trong khoảng thời gian gần một thế kỷ.
Giả sử nền kinh tế đang trong trạng thái cân bằng ở cả hai thị trường : thị trường hành hoá và thị trường tiền tệ . NHTƯ quyết định can thiệp trên thị trường mở hoặc mua ngoại tệ để phá giá đồng nội tệ nhằm mở rộng xuât khẩu .
Khi NHTƯ mua ngoại tệ thì trên thị trường tiền tệ , cung tiền tăng và dịch phải trong khi cầu tiền không đổi làm cho lãi suất ngay lập tức giảm xuống từ i1 i2 (hình a), làm đầu tư tăng lên từ I1 đến I2 (hình b) . Do đó , tổng cầu AD tăng và dịch chuyển sang phải (từ AD1 AD2 ) , làm sản lượng tăng lên (từ Y1 Y2) với sự gia tăng của mức giá chung từ P1 P2 (hình c ). Các mức giá và sản lượng tăng lên làm cho nhu cầu tiền tệ tăng lên tương ứng với sự biến động ban đâù của mức cung tiền tệ .
i MS1 MS2 i
i1 i1
i2 i2
MD I
Lượng tiền I1 I2 I cung ứng
P
AS
P2
P1
AD2
AD1
Y1 Y2 Y
Như vậy , sự tăng lên của lượng tiền cung ứng đã chuyền tác động tới giá cả , sản lượng , và do đó tới công ăn việc làm . Những biến đổi này là ngyuên nhân mở rộng nhu cầu tiền tệ , lãi suất vì thế tăng trở lại .
Với việc làm giảm lượng tiền cung ứng cũng vậy . Nó tác động lan truyền tác động tới giá cả , sản lượng , lãi suất và nhu cầu tiền tệ .
Tóm lại , với việc chủ động tạo ra sự biến động của tiền tệ với một mục đích xác định là bản chất của chính sách tiền tệ ( các biến động về tiền bao gồm cả về khối lượng tiền , giá cả và lãi suất ).
. Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ
Vị trí
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước , bên cạnh các chính sách khác như : chính sách tài khoá , chính sách phân phối thu nhập , chính sách kinh tế đối ngoại. . .
NHTƯ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thu hẹp lượng tiền cung ứng để ổn định giá trị đồng nội tệ , đưa sản lượng và việc làm của một quốc gia đến mức mong muốn .
Chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng lượng tiền cung ứng , khuyến khích đầu tư , mở rông sản xuất kinh doanh và tạo việc làm . Trong trường hợp này , chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế , chống thất nghiệp .
Chính sách tiền tệ thu hẹp nhằm giảm lượng tiền cung ứng , hạn chế đầu tư , kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế . Trong trường hợp này thì chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát .
1.3.2. Nhiệm vụ
Chính sách tiền tệ , một mặt cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế ( lượng tiền cung ứng ) , mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng nội tệ . Để thực hiện điều đó , thông thường các quốc gia giao việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ cho NHTƯ . Song , một số quốc gia , việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể giao cho cơ quan khác nhưng việc thực hiện nó vẫn phải do NHTƯ đảm nhiệm .
1.4. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
Về thực chất , nó điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ , giữa tiền và hàng trên bốn lĩnh vực quan trong nhất : kiểm soát lượng tiền cung ứng , kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế , kiểm soát ngoại hối , kiểm soát việc tạm ứng cho NHNN .
1.4.1.Kiểm soát cung ứng tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ
Khối lượng tiền cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kỳ đó . Tuy nhiên , điều quan trọng là NHTƯ phải theo dõi các diễn biến của hoạt động kinh tế , giá cả và tỷ giá ,… để kịp thời điều chỉnh cung ứng tiền sao cho hợp lý .
1.4.2. Kiểm soát hoạt động tín dụng
NHTƯ đóng vai trò là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM nhằm kiểm soát số lượng và chất lượng tín dụng , kiểm soát các nguồn tiền gửi của các NHTM và các tổ chức tín dụng .Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng . Để điều tiết nó , NHTƯ phải sử dụng các công cụ như lãi suất , thị trường mở …
1.4.3. Kiểm soát ngoại hối
Ngoại hối bao gồm ngoại tệ , các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ , vàng tiêu chuẩn quốc tế và các công cụ tiền tệ khác . Nó là phương tiện thanh toán mậu dịch quốc tế giữa các quốc gia , đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế đang diễn ra xu thế hội nhập quốc tế Trên thị trường ngoại hối đầy rẫy những biến động có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế ; chính vì thế , cần phải kiểm soát nó một cách tích cực để tạo điều kiện có lợi nhất cho nền kinh tế .NHNN tham gia trên thị trường không phải để tìm kiếm lợi nhuận mà là để kiểm soát thị trường , cung cấp vốn ngắn hạn cho các NHTM để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ .
1.4.4. Chính sách đối với Ngân sách Nhà nước
Để có được các tác dụng như mong muốn thì phải xử lý mối tương quan với chính sách tài khoá , trước hết là chính sách thu – chi Ngân sách .
Khi xảy ra thặng dư Ngân sách , tác động có lợi đến tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ . Tuy nhiên , trường hợp này chỉ xảy ra trong một thời gian tạm thời .
Khi Ngân sách cân bằng : Với chính sách tiền tệ mở rộng , có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tieu thụ . Với chính sách tiền tệ thu hẹp nhằm chống lạm phát , vậy chống nó bằng việc làm tăng vật giá .
Khi thiếu hụt ngân sách thì cần phải có khoản thu để bù đắp thiếu hụt , có thể bằng việc tăng thuế , nâng câo năng lực thuế hay áp dụng thuế mới có hiệu quả ( việc tăng thuế chỉ có giới hạn ) . Ngoài ra , Chính phủ còn sử dụng giải pháp phát hành trái phiéu ( có nghĩa là tăng đi vay để bù đắp chi tiêu, để trả nợ cho bù đắp chi tiêu thì Nhà nước tiếp tục phát hành đợt mới . Việc phát hành trái phiếu chính phủ đưa vào lưu thông làm quan hệ dân cư - Nhà nước gần gũi hơn , tận dụng được nguồn lực nhàn rỗi với chi phí cơ hội thấp nhất . Đây là con đường tối ưu để bù đắp cho Ngân sách Nhà nước ) và phát hành tiền ( là con đường giản tiện nhất nhưng dễ dẫn đến lạm phát , như vậy nó có chi phí cơ hội cao nhất . Khi xã hội đã phát triển thì không nên dùng biện pháp này để tránh lạm phát ) .
1.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế , thực hiện nó có tác dụng to lớn trong việc kìm chế , đẩy lùi lạm phát , ổn định tiền tệ , góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề công ăn việc làm .
Hiệu quả của chính sách tiền tệ được đo lường bằng mức độ ảnh hưởng của sự biến động của lưởng tiền cung ứng đến giá cả và tổng sản lượng . Như vậy , khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ chính là nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa sự thay đổi lượng tiền cung ứng và tổng sản lượng , giá cả . Đó là các nhân tố sau :
1.5.1. Mức độ nhạy cảm của tổng cầu AD đối với lãi suất
Nó bao gồm mức độ nhạy cảm của mức cầu tiền tệ đối với lãi suất và mức độ nhạy cảm của mức cầu đầu tư với lãi suất . Một mức cầu tiền tệ ít nhạy cảm với lãi suất và mức cầu đầu tư có nhạy cảm cao đối với lãi suất sẽ làm cho chính sách tiền tệ có hiệu quả . Trong trường hợp này , chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong tổng lượng tiền cung ứng có thể dẫn đến một sự biến động lớn của tổng cầu .
Mặt khác , lượng tiền cung ứng lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như : tỷ lệ dự trữ bắt buộc , tỷ lệ sử dụng tiền mặt của công chúng , tỷ lệ dự trữ vượt quá của hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM ) . Khi các tỷ lệ đó thay đổi sẽ dẫn đến sự biến động của lượng tiền cung ứng .
1.5.2. Tốc độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến tổng cầu
Chính sách tiền tệ không ảnh hưởng tức thì đến tổng cầu của nền kinh tế mà thường chậm một thời gian . Khoảng thời gian cần thiết để chính sách phát huy hiệu quả bao gồm :
1.5.2.1.Thời gian lập chính sách : là khoảng thời gian cần thiết cho các nhà lập chính sách phát hiện ra vấn đề vĩ mô , thời gian thảo luận và lựa chọn các giải pháp cần thiết và sau đó là thời gian để thực hiện các giải pháp đó . Thông thường , nó được chia làm hai giai đoạn : nhận dạng vấn đề và hành động .
1.5.2.2.Thời gian ảnh hưởng đến các khoản chi tiêu độc lập :
Chính sách tiền tề tác động tới tổng chi tiêu của xã hội thông qua những kênh gián tiếp , ảnh hưởng trực tiếp là đối với mức lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , sau đó mới ảnh hưởng đến chi tiêu .
1.5.2.3.Thời gian ảnh hưởng đến các chi phí phụ thộc :
Sự thay đổi của các chi phí độc lập gián tiếp dẫn đến sự thay đổi của chi phí tiêu dùng và tổng chi tiêu . Những ảnh hưởng này cần phải có một thời gian nhất định.
1.5.2.4. Thời gian cho sư điều chỉnh giá : là khoảng thời gian để sự thay đổi của điểm cân bằng của GDP ảnh hưởng đến mức giá cả.
1.5.3. Sự thiếu chính xác của mô hình kinh tế vĩ mô được lựa chọn
Các chính sách kinh tế vĩ mô được hình thành trên cơ sở các mô hình kinh tế vĩ mô . Vì vậy , việc xây dựng chính sách tiền tệ trên cơ sở một mô hình thiếu chính xác có thể dẫn tới những phản ứng ngược chiều với các mục tiêu đề ra .
1.5.4. Sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu của chính sách
Các mục tiêu là mâu thuẫn khi chọn một mục tiêu ưu tiên trong ngắn hạn để thực hiện thì việc thực hiện mục tiêu dài hạn của chính sách tiền tệ trở nên khó khăn .
1.5.5. Mâu thuẫn giữa các nhà làm chính sách
Các nhà làm chính sách có thể mâu thuẫn với nhau trong việc thực hiện lựa chọn mục tiêu , đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá (thông thường phải phối hợp giữa hai chính sách đó thì khả năng tác động đến tổng cầu của nền kinh tế mới có hiệu quả ) .Chính sách tiền tệ thường theo đuổi mục tiêu ổn định trong khi chính sách tài khoá theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế .
Chương II
Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia
Đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia . Trong điều kiện hiện nay của nước ta là một nước còn nghèo nàn và lạc hậu , nền kinh tế đang chuyển đổi , thị trường tài chính ngân hàng còn sơ khai kém phát triển , hệ thống NHTM còn hoạt động khá bao cấp , yếu kém và dễ đổ vỡ (do vốn tự có thấp , tính sinh lời thấp , rủi ro cao , nợ quá nhiều, trình độ quản lý yếu kém ...) và trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay , chính sách tiền tệ cần đảm bảo các mục tiêu đề ra như kiểm soát lạm phát , ổn định giá trị đồng tiền , tạo công ăn việc làm và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ; bên cạnh đó còn có các mục tiêu trung gian khác .
Kiểm soát lạm phát , ổn định giá trị đồng bản tệ
Các nhà kinh tế học cho rằng : lạm phát luôn là căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hoá , đặc biệt là nền sản xuất hàng hoá phát triển cao ( nền kinh tế thị trường ) .
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng thì lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng, thậm chí khó tránh khỏi ở các nước . NHTƯ với các chức năng của mình luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu khi thực hiện các chính sách tiền tệ .
Bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra như : khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt của nền kinh tế , làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế , phân phối lại thu nhập , kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá , bất động sản … gây nên tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo , giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng … Với một tỷ lệ lạm phát vừa phải thì nó lại có tác dụng kích thích sự tăng trưởng kinh tế . Cùng với việc các nhà kinh tế học đã khẳng định ở trên thì chúng ta cần phải chấp nhận sự tồn tại của nó (có nghĩa là phải xác định sống chung với nó ) trong nền kinh tế để có biện pháp kiềm chế nó chứ không phải là triệt tiêu nó . Vấn đề đặt ra là phải có biện pháp để kiểm soát nó , ổn định tiền tệ , tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả . Đó là điều mà bất kỳ ai cũng mong muốn , bởi khi giá cả biến động sẽ gây nên tình trạng bất ổn trong nền kinh tế , gây khó khăn cho một bộ phận người lao động .
Thông qua chính sách tiền tệ , NHTƯ có thể kiểm soát được tình trạng lạm phát . Như chúng ta đã biết rằng , với chính sách tiền tệ mở rộng thì chống suy thoái kinh tế còn chính sách tiền tệ thu hẹp thì chống lạm phát . Như vậy, cũng có nghĩa rằng chính sách tiền tệ mở rộng gây ra lạm phát còn chính sách tiền tệ thu hẹp làm tỷ lệ lạm phát giảm xuống , kiểm soát lạm phát biểu hiện trước hết ở việc ổn định được giá trị nội tệ của đồng tiền , nghĩa là ổn định sức mua của nó trên thị trường trong nước . Trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế thì ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền cũng là một vấn đề hết sức quan trọng vì muốn ổn định giá trị của đồng tiền thì cần ổn định ở cả hai mặt đối nội và đối ngoại , mà hai mặt này có mối liên hệ mật thiết với nhau.
ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền phải trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái . Sự biến động của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt động của nền kinh tế , đặc biệt là hoạt động xuất – nhập khẩu . Một tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu ,hạn chế xuất khẩu ; như vậy có nghĩa là dự trữ ngoại hối giảm , không kích thích sản xuất trong nước . Ngược lại , tỷ giá quá cao sẽ hạn chế nhập khẩu , khuyến khích xuất khẩu ; có nghĩa là dự trữ ngoại hối có xu hướng tăng lên , và gây khó khăn cho những doanh nghiệp mà việc sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu máy móc thiết bị và những doanh nghiệp có ý định nhập khẩu máy móc thiết bị … Tuy nhiên ở đây muốn nói tới tỷ giá hối đoái thả nổi , là mức tỷ giá được hình thành theo quy luật cung – cầu trên thị trường ngoại hối , NHTƯ không thể ấn định được mà chỉ thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát nó. Như vậy , NHTƯ sẽ tham gia mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối . Tóm lại , muốn ổn định đồng tiền và phát triển kinh tế – xã hội cần phải ổn định giá cả trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái ( chứ không phải cố định tỷ giá hối đoái).
Kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền phải đi đôi với nhau . Thông thường , lạm phát được kiểm soát ở mức vừa đủ ( một con số mỗi năm ) và chống lạm phát phi mã ( hai con số mỗi năm ) và siêu lạm phát ( trên hai con số mỗi năm ).
Hiện nay , lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam dường như đã được đẩy lùi vào quá khứ . Trong gần 2 năm 1999 và 2000 , chỉ số CPI giảm liên tục
Để đạt được mục tiêu ổn định lạm phát ở mức thấp , trong những năm qua , Ngân hàng Nhà nước ( NHNN ) đã thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát . Đây cũng là cách điều hành phù hợp nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam góp phần tăng trưởng kinh tế ( Điều 2 , luật Ngân hàng Nhà nước ).
2.2. Tạo việc làm
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới , vấn đề việc làm cũng là một vấn đề hết sức quan trọng , đặc biệt đối với Việt Nam thì đó lại là một vấn đề hết sức cấp thiết và cần phải giải quyết , đó cũng là một bức xúc lớn đối với Việt Nam hiện nay . Bởi vì :
Thứ nhất , khi không có công ăn việc làm thì sẽ sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập , rượu chè , cờ bạc , mại dâm , … gây mất ổn định xã hội ; đời sống của nhiều gia đình trở nên khó khăn hơn , túng quấn dễ dẫn con người ta dấn thân vào tội ác ; suy đồi đạo đức , gia phong , …
Thứ hai , khi thất nghiệp tăng không những làm tăng số lao động ngồi không mà còn làm lãng phí các tài nguyên như máy móc , thiết bị … làm nền kinh tế bị giảm sút .
Tuy nhiên , không phải cứ thất nghiệp là không tốt , vấn đề là phải duy trì tỷ lệ đó ở mức nào đó ( mức thất nghiệp tự nhiên ) bởi trong thực tế , một số thất nghiệp lại có lợi cho nền kinh tế , đó là khi người ta đang đi tìm một công việc khác tốt hơn , phù hợp hơn thì họ chỉ thất nghiệp trong thời gian tìm việc mà thôi ; hoặc một số tự nguyên thất nghiệp …
NHTƯ thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế , cũng có nghĩa là sẽ tác động đến vấn đề tạo công ăn việc làm . Với chính sách tiền tệ mở rộng nhằm khuyến kích đầu tư , mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động ; chính sách tiền tệ thu hẹp thì hạn chế đầu tư , kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế , và như vậy làm số lao động thất nghiệp lại tăng lên . Bên cạnh đó , cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu của chính sách tiền tệ . Việc chính phủ cung cấp thông tin tốt hơn về những công việc chưa có người làm hoặc là về chương trình đào tạo nghề nghiệp có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên .
Tăng trưởng kinh tế .
Như ta đã nói , tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn đạt được . Nó luôn gắn liền với mục tiêu việc làm cao . Việc Chính phủ thực thi các chính sách kinh tế , trong đó chính sách tiền tệ , cũng nhằm đạt dược mục tiêu đó . Với chính sách tiền tệ cũng phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế , nghĩa là đảm bảo sự tăng trưởng của GDP thực tế .
Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến mục tiêu này đồng thời với mục tiêu đảm bảo công ăn việc làm cao .Với chính sách tiền tệ mở rộng làm cung ứng tiền tệ tăng lên trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư mở rộng sản suất kinh doanh , làm tăng trưởng kinh tế ( làm tăng sản lượng thực tế) . Ngược lại , với chính sách tiền tệ thu hẹp làm cung tiền tệ giảm , lãi suất tín dụng trong ngắn hạn tăng sẽ hạn chế đầu tư và thu hẹp hoạt động sản suất kinh doanh làm sản lượng giảm , tăng trưởng kinh tế chậm lại .
Khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách trực tiếp khuyến khích các hãng đầu tư hoặc nhân dân tiết kiệm để các nhà đầu tư có thêm vốn đưa vào đầu tư .
Mối quan hệ giữa các mục tiêu trên .
Các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau .Từ đó , khi thực hiện chính sách tền tệ không thể tách rời các mục tiêu ra để giải quyết một cách độc lập ,không tuyệt đối hoá một mục tiêu nào . Tuy nhiên , có nơi có lúc rong thời gian ngắn có thể diễn ra sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu , thậm chí triệt tiêu lẫn nhau . Biểu hiện rõ nhất là giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp (tức là sự mâu thuẫn giữa hai mục tiêu : kiểm soát lạm phát và tạo việc làm cao) .Việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá .Bên cạnh đó ,mục tiêu công ăn việc làm cũng mâu thuẫn với mục tiêu ổn định gía .Thất nghiệp và tăng trưởng không có mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn . công ăn việc làm sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại . Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả tương đối phức tạp : mâu thuẫn trong ngắn hạn nhưng hỗ trợ trong dài hạn.
Như vậy , thực thi chính sách tiền tệ không thể đạt được tất cảc mục tiêu trên trong ngắn hạn : phần lớn các NHTƯ coi ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu trong dài hạn của chính sách tiền tệ.
Hiện thực các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy,vận hành chính sách tiền tệ , để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá . Mục tiêu của chính sách tài khoá là điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ , hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng . Điều đó còn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước . Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng làm giá trị đồng bản tệ ổn định,ngược lại,sự thiếu hụt ngân sách sẽ gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp làm giá trị đồng tiền mất ổn định.
Trong thực tế , chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ có thể làm gia tăng nhu cầu , giảm thất nghiệp nhưng sẽ gia tăng lạm phát . Giải quyết mâu thuẫn này cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách phân phối thu nhập Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ , chính sách phân phối thu nhập phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về lương và giá cả. Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển,thường bội chi ngân sách lớn và kéo dài , tăng trưởng kinh tế chưa cao…đòi hỏi kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế đối ngoại trong thực thi chính sách tiền tệ.
2.5. Các mục tiêu trung gian:
Bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đạt được các mục tiêu cuối cùng ( bao gồm 3 mục tiêu trên) mà phải sau một thời gian nhất định . Để phục vụ cho việc điều chỉnh kịp thời các công cụ trong khoảng thời gian đó , NHTƯ thường đưa ra các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt mục tiêu cuối cùng ,đó là các mục tiêu trung gian . Đó phải là các chỉ tiêu có thể đo lường được , NHTƯ có thể kiểm soát được và có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng . Có 2 chỉ tiêu thoả mãn được điều kiện trên đó là chỉ tiêu tổng luợng tiền cung ứng và mức lãi suất thị trường.
2.5.1 .Chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng.
Nó là tổng các phương tiện tiền tệ trong lưu thông , bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM . Có các khối tiền trong lưu thông như sau:
M1: gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng.
M2: gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm , tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng và kỳ phiếu , trái phiếu do NH phát hành.
M3: gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các giấy tờ có giá trong thanh toán.Trong quá trình cung ứng tiền tệ có bốn tác nhân tham gia , đó là NHTƯ, các NHTM,những người gửi tiền và những người vay tiền từ các ngân hàng trong đó , NHTƯ là cơ quan chính phủ có chức năng bao quát hệ thống hoạt động ngân hàng.Vì vậy, NHTƯ có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng.
Lượng tiền cung ứng có mối quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng.Khi nó tăng sẽ dẫn đến lạm phát , tạo việc làm , kích thích tăng trưởng kinh tế .Và ngược lại , khi nó giảm , sẽ kéo theo chính sách tiền tệ thu hẹp được thực thi,tỷ lệ lạm phát giảm , thất nghiệp gia tăng , kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Tổng lượng tiền cung ứng chịu tác động của ba nhân tố sau:
2.5.1.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên(hay giảm xuống) làm các ngân hàng đó phải thu hồi các khoản vay hoặc bán chứng khoán (hoặc có khả năng mở rộng cho vay) để đáp ứng yêu cầu dự trữ mới . Như vậy làm giảm (hay tăng) lượng tiền trong lưu thông , do đó làm giảm (hoặc tăng) tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
2.5.1.2. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt của công chúng.
Khi tỷ lệ này tăng nghĩa là công chúng có nhu cầu rút tiền mặt trên tài khoản tiền gửi không hạn nhiều hơn , làm giảm khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng. Khi tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm thì khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng nhiều hơn , tổng lượng tiền cung ứng sẽ tăng.
2.5.1.3. Tỷ lệ dự trữ vượt quá của hệ thống NHTM.
Khi tỷ lệ này tăng thì số dự trữ để tạo tiền gửi giảm , như vậy buộc các ngân hàng phải thu hồi các khoản vay hoặc bán bớt chứng khoán, dẫn đến làm giảm tiền gửi và do đó lượng tiền cung ứng giảm .Và ngược lại thì làm lượng tiền cung ứng tăng lên.
2.5.2. Mức lãi suất thị trường: Là giá cả của tín dụng.
Lãi suất được đo lường theo các phương thức tín dụng khác nhau , đó là:
-Với những khoản tín dụng thực hiện theo phương thức vay đơn: người đi vay sẽ hoàn trả cả phần vốn gốc và lãi vào ngày dến hạn trả nợ cho người cho vay.Nó được tính bằng việc lấy số tiền lãi chia cho tổng số vốn vay.Đây là cách tính đơn giản chỉ dung cho các khoản tin dụng ngắn hạn.
Với các khoản tín dụng dài hạn thì dùng lãi suất kép.Đó là lãi suất áp dụng trong trường hợp hết mỗi kỳ hạn của lãi suất,lãi đơn trong kỳ được gộp vào vốn để tính lãi cho kỳ tiếp theo.
- Với những khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ,người ta áp dụng lãi suất hoàn vốn.Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản
tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng dó .
Theo các hình thức tín dụng thì lãi suất dược chia thành bốn loại
Đó là:
- Lãi suất tín dụng thương mại : áp dụng khi các doanh nghiệp cho vaydưới hình thức mua bán chịu .
- Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay ,trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng TW cho các NHTM và trong quan hệ giữa các ngân hàng với ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất tín dụng Ngân hàng Nhà nước : áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước đi vay bằng hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu .
- Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu cá nhân .
NHTƯcó thể kiểm soát được lãi suất qua thực thi chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở của tác động lan truyền ảnh hưởng từ cung ứng tiền –lãi suất –sản lượng –thu nhập –cầu tiền . Nó tác động đến đầu tư , tổng cầu và do đó làm biến động giá cả và GDP , có nghĩa là ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế , vấn đề lạm phát và do đó là vấn đề việc làm .
Lãi suất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường . Nó là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế , là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế ,là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả ,… đặc biệt , nó còn là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế , nó là công cụ để thực hiên mục tiêu của chính sách tiền tệ . Chính vì vai trò của nó hết sức quan trọng nên khi nghiên cứu về lãi suất , cần phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới nó để sử dụng một cách có hiệu quả nhất . Các nhân tố bao gồm :
2.5.2.1 Cung - cầu quỹ cho vay.
Theo phần khái niệm , lãi suất chính là giá cả cho vay nên nó phụ thuộc vào cung ,cầu quỹ cho vay . Bất kỳ một sự thay đổi nào của cung ,cầu đều tác động đến lãi suất thị trường . Dựa vào nguyên lý này có thể chủ động tác động vào cung , cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất thị trường cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ . Và muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thị trường thì phảt ổn định thị trường vốn .
2.5.2.2 Lạm phát kỳ vọng .
Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên trong khi lãi suất thực là không đổi làm cho lãi suất tăng lên (điều này có được xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa ) . Đồng thời ,khi lạm phát dự tính gia tăng (có nghĩa là giá cả hàng hoá dự tính tăng lên ) như vậy công chúng sẽ dành phần tiết kiệm của mình vào dự trữ hàng hoá . Vì vậy , làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất . Từ đó cho thấy , khi tỷ lệ lạm phát gia tăng (lạm phát dự kiến tăng lên trong một thời kỳ nào đó ) sẽ làm lãi suất có xu hướng tăng lên .
2.5.2.3. Bội chi ngân sách .
Bội chi ngân sách sẽ làm cầu của quỹ cho vay tăng , do đó làm tăng lãi suất . Mặt khác , bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất .
Khi bội chi ngân sách , chính phủ thường cho phát hành trái phiếu làm cung trái phiếu trên thị trường tăng , dẫn đến giá trái phiếu trên thị trường giảm , do đó lãi suất thị trường tăng lên .
Khi bội chi ngân sách xảy ra ,chính phủ cũng thường tăng thuế để bù đắp sự thiếu hụt . Khi thuế tăng sẽ dẫn đến phần tiết kiệm của các cá thể và tổ chức ,các doanh nghiệp sẽ giảm ,do đó lãi suất thị trường tăng lên .
2.5.2.4 Mức độ rủi ro của các công cụ tài chính .
Thường thì mức độ rủi ro của các công cụ tài chính càng lớn thì lãi suất càng tăng .Trong lãi suất có phần bù đắp cho rủi ro của những người cho vay .
Thời hạn của món vay.
Thông thường thời hạn của món vay càng dài thì lãi suất càng cao . Lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn , là giá cả của tín dụng (trong trường hợp này giá cả là giá trị sử dụng ) cho nên thời hạn của món vay càng dài thì giá trị sử dụng càng nhiều , chi phí sử dụng vốn càng cao và thời gian càng dài thì xác suất rủi ro càng cao , do vậy lãi suất càng cao .
ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế .
Tình hình tài chính quốc tế có thể tạo ra luồng di chuyển vốn làm tác động đến cung – cầu về vốn ,vì vậy có tác động đến lãi suất . Vì thế , lãi suất trong nước phải có sự điều tiết để phù hợp với tài chính quốc tế để không tạo ra luồng di chuyển vốn ngoài ý muốn (tức là lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế phải có sự phù hợp để tránh những ảnh hưởng ngoại lai )
Mặt khác , tâm lý của công chúng về lạm phát , rủi ro và thu nhập cũng ảnh hưởng đến lãi suất .
2.5.2.7 . Những vấn đề kinh tế xã hội khác .
Đó là những việc Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế mới , thiê._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0917.doc