Chính sách tiền tệ & các công cụ của nó - Thực trạng & Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ

Lời nói đầu Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ & các công cụ của nó - Thực trạng & Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hàh chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có những bất cập là điều khó tránh khỏi. Bài viết này tập trung phân tích nội dung các công cụ, thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, kinh nghiệm thực hiện chính sách tiền tệ trên thế giới và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ. Chương 1 Lý luận chung về chính sách tiền tệ và các công cụ của nó 1. Tổng quan về chính sách tiền tệ 1.1. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với chính sách tiền tệ Lịch sử ra đời NHTƯ ở các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước. Song lý do tương đối phổ biến là xuất phát từ yêu cầu can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực tiền tệ, tìn dụng và ngân hàng. Dù với tên gọi khác nhau (NHTƯ, NHNN, Hệ thống dự trữ lên bang...), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất nước. Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh hồn” của NHTƯ trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ trong nền kinh tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTƯ thường không can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết định tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, mặt bằng lãi suất, khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá... để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ. Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTƯ phải hình thành và sử dụng hệ thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTƯ khả năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTƯ nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng. 1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) thông qua các hoat động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt. Xét về mặt tổng thể chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới hướng vào các mục tiêu chủ yếu là: ã Đảm bảo tăng trưởng kinh tế thực tế. Đây là mục tiêu quan trọng nhất, mục tiêu bao trùm để giải quyết các mục tiêu khác. ã Hướng tới việc ổn định giá cả và ổn định tiền tệ. ã Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. ã Cân bằng cán cân thanh toán. Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại mâu thuẫn nhau. cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt giảm nhất định đối với mục tiêu khac. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ phải chấp nhận nạn thất nghiệp tăng lên... Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục tiêu nào là chính mà người ta có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định giá cả, chính sách tạo việc làm, chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay chính sách tăng trưởng kinh tế. Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTƯ phải xác định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTƯ sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền. Xét cho cùng NHTƯ có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế ã Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm. ã Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. 2. Các công cụ chính sách tiền tệ và ưu nhược điểm của nó Để việc nghiên cứu và phân tích thuận lợi chúng ta chia các công cụ chính sách tiền tệ thành các công cụ trực tiếp và các công cụ gián tiếp. 2.1. Các công cụ trực tiếp 2.1.1. Lãi suất tiền gửi và cho vay NHTƯ có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay., ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTƯ sẽ ấn định mức lãi suất cao. Tuy nhiên biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư. Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu để cho vay, nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. 2.1.2. Hạn mức tín dụng Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm đường để đưa nó vào trong nền kinh tế. Khi NHTƯ xác định hạn mức tín dụng thì căn cứ vào các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng kinh tế; biến động của chỉ số giá cả; biến động của tỷ giá; tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế; bội chi ngân sách. Hạn mức tín dụng sẽ đặc biệt phát huy tác dụng trong nền kinh tế có lạm phát. Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến đổi không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. Biện pháp này bộc lộ khá nhiều nhược điểm. nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, có tính chất đánh đồng các hoạt động tốt và hoạt động yếu. Trong thực tế, doanh số cho vay hoặc tồn tại dư nợ của các NHTM thông thường thấp hơn hạn mức tín dụng vì có NHTM huy động vốn tốt thì sử dụng hết hạn mức tín dụng còn những ngân hàng hoạt động yếu kém thì không sử dụng hết hạn mức này, đặc biệt khi hệ thống ngân hàng hoạt động chưa tốt thì con số thực tế cho vay của NHTM khác nhiêù so với con số dự kiến, từ đó không phát huy được vai trò quản lý của NHTƯ. Biện pháp này có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế bởi với hạn mức tín dụng được NHTƯ qui định thì các NHTM sẽ tìm đến dự án đầu tư lớn, những lĩnh vực đàu tư dễ sinh lợi nhuận gây ra khó khăn vốn trong các doanh nghiệp nhỏ. 2.2. Các công cụ gián tiếp 2.2.1. Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là khoản tiền gửi của các NHTM ở NHTƯ, mức tiền gửi này do pháp luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân hàng. Thông qua việc thay đổi mức dự trữ bắt buộc NHTƯ tác động tới việc cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân. Nếu NHTƯ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thì khả năng tín dụng của NHTM sẽ giảm xuống. Mặt khác, để bù lại phần lãi suất đó (do quỹ tiền gửi NHTƯ không được tính lãi) các ngân hàng phải tăng lãi suất tín dụng do vậy mức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm xuống. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc tăng lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Vì vậy đó là một công cụ tiềm tàng của chính sách tiền tệ. Ngoài ra dự trữ bắt buộc còn đảm bảo việc thanh toán thường xuyên của các NHTM. Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng. 2.2.2. Lãi suất chiết khấu Chính sách lãi suất chiết khấu là chính sách NHTƯ cho các NHTM vay dưới nhiều hình thức tái chiét khấu tức là hình thức NHTƯ tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTƯ nâng lãi suất chiết khấu tức là hạn chế cho vay đối với các NHTM, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng nghĩa với việc lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTƯ, bởi vậy NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản lượng. Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường. nó cũng giúp NHTƯ thực hiện người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác dụng thông báo ý định của NHTƯ về chính sách tiền tệ trong tương lai. Việc sử dụng chính sách tiền tệ ít được khuyến cáo, vì nó có hai nhược điểm chính sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTƯ ở vào thế bị động, NHTƯ có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay; thứ hai khi MHTƯ ấn địng mức lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đấy sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó trong cung ứng tiền tệ, NHTƯ khó có thể đảo ngược những thay đổi trong lãi suất chiết khấu. 2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở Thực chất của hoạt động này là việc NHTƯ mua và bán các giấy tờ có giá (như cổ phiếu, trái khoán, công trái...) trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực hạn chế nhất định cả trên thị trường vốn. Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn, NHTƯ thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả năng cho vay của các NHTM cũng giảm và giá trị tín dụng tăng lên. Ngược lại, bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTƯ cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM. Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm hơn hẳn so với các công cụ khác: ã Phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTƯ trong đó NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch. ã Là công cụ linh hoạt giúp NHTƯ luôn luôn thay đổi được tình thế của mình khi mắc phải sai lầm. ã Nghiệp vụ này có thể sử dụng được ở bất kì một mức độ nào khi có yêu cầu căn cứ vào khối lượng cacs loại giấy tờ có giá bán ra. ã Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí. Tuy nhiên, khi NHTƯ mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ thuộc vào người mua bán (các NHTM). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải có sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính phải tương đối phát triển. 3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ; chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn chứ không công khai. ã Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài. Đó là việc ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của một quốc gia khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị của đồng nội tệ theo giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương pháp này rất đơn giản rõ ràng và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm soát thông qua đồng ngoại tệ được chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng thành công chính sách này như Anh, Pháp (sau khi gắn đồng tiền của nó vào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cung có những mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ; do có sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu tư không lường hết được mọi sự rủi ro và làm dòng vốn đổ vào tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã quá bành trướng nhung đến khi NHTƯ nhận ra thì đã muộn. ã Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHTƯ có thể chọn một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động của sản lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lạp tức cho cả công chúng và thị trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm chính sách trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không thành công tong việc kiểm soát vì việc theo đuổi chính sách này không được chặt chẽ và mối liên hệ không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát. Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như là một chính sách tiền tệ chính của NHTƯ Châu Âu. ã Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao. NHTƯ có trách nhiệm công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như các nhà chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính không chắc chắn của chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát. Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng tính trách nhiệm của NHTƯ. ã Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền tệ sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm phát xuất hiện, NHTƯ cần phải hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là sự thành công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm quan trọng của chiến lược náy là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất là nó phụ thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những người có trách nhiệm trong NHTƯ. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt đông không tốt trong tương lai. Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm là điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia. Chương 2 Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 1. Bối cảnh chung Sau đại hội Đảng lần thứ 6 nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa định hướng chính sách tiền tệ. Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành (pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng – Công ty tài chính), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường. Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam. Đến tháng 10 – 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng. 2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam qua các giai đoạn Chính sách tiền tệ của NHTƯ là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đòng tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6. Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn 2.1. Giai đoạn 1986 - 1988 Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy Nhà nước liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn trong trạng thái bát ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất phát từ thực trạng đó, nhiệm vụ chống lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: ã Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường ã Thi hành chế độ lãi suất thực dương. Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi trên đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ, các quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những cơ sở vững chắc để biến tư tưởng đổi mới trở thành xu hướng thực tiễn. 2.2. Giai đoạn 1989 - 1991 Các chính sách tiền tệ mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao. Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 –1991 là không thể tránh khỏi vì nguồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh tế thị trường. Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm bội chi, việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng. Đặc biệt cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong mở rộng và tập trung kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. 2.3. Giai đoạn 1992 - 1995 Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã đi vào chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách kinh tế đưa ra phú hợp vứi nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm cân bằng tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế không tránh khỏi những dao động về lạm phát. Lạm phát giai đoạn 1991 - 1995 Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã qui định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngan hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kĩ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. cán cân thanh toán đã có chiều hướng thuận lợi. Bên cạnh những thành tựu đạt được như kiềm chế lạm phát, quản lí ngoại hối, chính sách lãi xuất... việc điều hành chính sách tiền tệ cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Cụ thể: ã Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị trường: lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với yêu cầu đặt ra của nền kinh tế; công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hết tác dụng; cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn; việc chi tiêu ngân sách còn gặp nhiều bất cập, đôi khi gây ra những ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. ã Trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra hiện tượng lạm phát ngoài dự kiến. ã Công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ là hoạt động thị trường mở trong khi thị trường tín phiếu kho bạc hình thành chậm làm cho NHNN khó khăn trong việc điều hành công cụ này. ã Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính nhiều khi chưa ăn khớp nhịp nhàng. 2.3. Giai đọan 1996 - 2000 Trong giai đoạn này mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn này, mục tiêu kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu kiểm soát, ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng đồng đều trong các năm, tỷ lệ lạm phát dao động không quá mạnh. Cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân bằng vá tiến tới thặng dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi nhất là các khoản chi điều hành để tập trung cho đầu tư công cộng. Một số nội dung chính trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì này: ã Hạn mức tín dụng: việc đưa ra hạn mức tín dụng sẽ tạo ra những nhân tố khó khăn cho các NHTM. Mặc dù công cụ này đã được áp dụng từ năm 1994 và đã có những tác đọng hiệu quả nhưng từ quý II năm 1998 NHNN đã không áp dụng công cụ này như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. ã Dự trữ bắt buộc: theo quy chế dự trữ bắt buộc được ban hành theo Quyết định số 396/1997/QD-NHNN1 ngày 1/12/1997, NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng. Đồng thời cũng qui định trả lãi cho dự trữ vượt quá, mức phạt nếu tổ chức tín dụng thiếu khoản dự trữ bắt buộc. Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động trong điều hành nguồn vốn kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt buộc đúng như quy định phù hợp mục tiêu hành chính sách tiền tệ. ã Tái cấp vốn: thông qua hình thức cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM, NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các NHTM. Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1% tháng lên 1,1% tháng. Năm 1999, cùng với việc giảm trần lãi suất cho vay lãi suất tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85% tháng. ã Lãi suất: thời kì này đánh dấu sự thay đổi căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt nam. NHNN điều hành chính sách lãi suất thông qua mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chée theo tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35% tháng. Trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố, các ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầuvề vốn và đặc điểm kinh doanh riêng. ã Nghiệp vụ thị trường mở: ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên. Công cụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có ưu điểm hơn hẳn các công cụ khác, cho phép NHNN chủ động linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy việc áp dụng công cụ thị trường mở đánh dấu bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN từ việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang công cụ linh hoạt và hiệu quả hơn. Tỉ lệ tăng tổng phương tiện thanh toán (%) Tỉ lệ tăng lượng tiền cung ứng (%) Tỉ lệ tăng dư nợ tín dụng (%) Tỉ lệ tăng vốn huy động (%) 1996 22,7 22,7 1997 26,1 26,1 22 25,7 1998 23,9 25,6 16,4 34 1999 39,25 39,3 19,2 34 2000 20 25 21 25 3. Những hạn chế trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam Chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ đang bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính – tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung và dài hạn. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Có thể nêu một số điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất, các công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn ở dạng sơ khai, chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế đọ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lí tốt. Thứ hai, kinh doanh của hầu hết các NHTM còn gò bó, thiếu chủ động, tự chủ. Phần lớn các NHTM cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn phân tán, hiệu quả thấp. Rủi ro tín dụng ngân hàng là đáng lo ngại và luôn luôn thường trực. Thứ ba, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có những điều kiện căn bản để từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. Thị trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung cấp vốn đầu tư trung dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu kém. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn. Đó là những trở ngại lớn cho NHNN tiến hành tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường nhằm đạt được mục tiêu kinh tế của đất nước. Thứ tư, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng từ nợ nước ngoài cũng như gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên chính khiến đồng tiền Việt Nam bị quá cao, kích thích tâm lí tích trữ dưới dạng ngoại tệ. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay... Đó là những trở ngại không đễ gỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ hiện nay. Chương 3 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ Như đã trình bày ở trên việc điều hành chính sách tiền tệ trong 10 năm vừa qua ở Việt Nam đã thu ddược một số thành công nhất định như kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển với thị trường tài chính cũng như các hoạt động tín dụng mở rộng, xu hướng hội nhập toàn cầu hoá, đòi hỏi viẹc điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ hiệu quả là một diều tất yếu. Để có thể thực hiện dược mục tiêu này, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: 1. Chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp ở những nước có nền tài chính sơ khai, không có tính cạnh tranh như Việt Nam, các công cụ trực tiếp được lựa chọn tạm thời khi khung thể chế cho các công cụ gián tiếp chưa đưọc phát triển. Các cộng cụ trực tiếp được thừa nhận là đáng tin cạy trong việc kiểm soát tổng khối lượng tín dụng, chúng tương đối dễ áp dụng và lý giải, đồng thời chi phí thực hiện._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0676.doc
Tài liệu liên quan