Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng ở nước ta

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG Ở NƯỚC TA Mục lục 5 Lời mở đầu Kết cấu hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cơ cấu vùng kinh tế. Sự phát triển có hiệu quả và đồng bộ kết cấu hạ tầng ảnh hưởng mạnh mẽ không những đến sự tăng trưởng của từng vùng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phát triển kết cấu hạ tầng từng vùng dựa trên thế mạnh riêng và tiềm năng đặc trưng là một vấn đề trọng tâm mà Đảng và Nhà nước tập trung hướng tới để từ đó sự liên kết mạnh mẽ giữ

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các vùng được đẩy mạnh, sức mạnh tổng thể được phát huy tối đa. Phát triển toàn diện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội, môi trường, thiết chế diện rộng các vùng trọng điểm cũng như không trọng điểm giúp tận dụng triệt để nguồn lực tiềm năng tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội các vùng cũng như cả nước. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển vùng nói chung và kết cấu hạ tầng vùng nói riêng là việc làm rất có ý nghĩa thiết thực. Khái niệm, đặc điểm, vai trò Khái niệm Kết cấu hạ tầng (KCHT) là tổ hợp các công trình vật chất – kỹ thuật mà kết quả họat động của nó là những dịch vụ có chức năng phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuát và đời sống dân cư được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Kết cấu hạ tầng là một yếu tố quan trọng cấu thành cơ cấu vùng kinh tế. Nó cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho họat động sản xuất đời sống và tạo điều kiện thuận lợi khai thác các nguồn tài nguyên quy tụ trên vùng. Sự phát triển có hiệu quả và đồng bộ kết cấu hạ tầng ảnh hưởng mạnh mẽ không những đến sự tăng trưởng của từng vùng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kết cấu hạ tầng được chia làm 4 loại như sau: Kết cấu hạ tầng Đặc điểm Ví dụ 1 Kỹ thuật Công trình vật chất – kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất diễn ra trong vùng Cơ sở của các ngành giao thông, điện nước sạch, hệ thống đê điều… 2 Xã hội Công trình vật chất – kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho quá trình sống, sinh họat của cộng đồng dân cư trong vùng Công trình các ngành văn hóa, giáo dục, y tế… 3 Môi trường Công trình vật chất – kỹ thuật phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường Công trình xử lý chất thải, nước thải, xử lý ô nhiễm môi trường… 4 Thiết chế Công trình vật chất – kỹ thuật phục vụ trực tiếp và gián tiếp cộng đồng dân cư Viện, trung tâm, trường đào tạo và nghiên cứu khoa học, nghệ thuật, các tổ chức chính trị xã hội… Đặc điểm KCHT có một số đặc điểm sau đây: Tạo tiền đề thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế, nâng cao mức sống người dân và giảm đói nghèo; Công trình thường rải theo tuyến , hình thành hệ thống có nhiều cấp và có quan hệ liên ngành với KCHT khác; Có tuổi thọ lâu dài nhưng mục tiêu và giá trị sử dụng lại biến động theo thời gian (KCHT có tuổi thọ thiết kế, tuổi thọ thực tế, tuổi thọ kỹ thuật, tuổi thọ kinh tế); Đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng lại khó trực tiếp thu hồi vốn; Có tác động lớn đến môi trường. Vai trò Kết cấu hạ tầng là yếu tố cấu thành cơ cấu vùng kinh tế. Thiếu kết cấu hạ tầng hoặc phát triển kết cấu hạ tầng không đồng bộ đều ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển của vùng kinh tế. 3.1. Cung cấp dịch vụ trực tiếp cho đời sống: bao gồm Kết cấu hạ tầng xã hội: phục vụ trực tiếp cho quá trình sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư trong vùng. Đó là các công trình của các ngành văn hoá, giáo dục- đào tạo, y tế. Kết cấu hạ tầng môi trường: phục vụ trực tiếp cho công tác bảo vệ môi trường. Đó là các công trình xử lý chất thải rắn, nước thải, xử lý ô nhiễm không khí, hệ thống quan trắc môi trường. Kết cấu hạ tầng thiết chế: bao gồm các viện, trung tâm, trường đào tạo và nghiên cứu khoa học, nghê thuật, các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội… 3.2. Cung cấp dịch vụ trực tiếp cho sản xuất: Đó là kết cấu hạ tầng kỹ thuật- phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất diễn ra trong vùng. Đó là các cơ sở của các ngành như giao thông, điện nước sạch, thoát nước, thông tin liên lạc, hệ thống đê điều, hệ thống thuỷ lợi… 3.3. Ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế vùng: Cơ sở hạ tầng là yếu tố tiền đề và quan trọng tạo động lực cho phát triển kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng của vùng cũng như việc giao thương buôn bán và liên kết giữa các vùng kinh tế với nhau. Sự phát triển các ngành của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và việc nâng cao hiệu quả của nó.Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, vai trò của kết cấu hạ tầng không ngừng tăng lên.Các hình thức mới về giao thông vận tải và thông tin liên lạc xuất hiện và phát triển không những trong khuôn khổ từng nước, mà còn trên phạm vi quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá.Do đó đã hình thành kết cấu hạ tầng vật chất của sự hợp tác quốc tế mới, đó là toàn bộ các bộ phận của các hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong nước và nước ngoài, nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cũng như các công trình và đối tượng phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc bảo vệ môi trường xung quanh, sử dụng hợp ló các nguồn nước và các nguồn tài nguyên khác, đảm bảo thông tin liên lạc của cơ quan khí tượng thủy văn, quản lí nhà nước, các cơ quan phục vụ xã hội và an ninh quốc phòng… nhằm mục đích phát triển dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Phát triển kinh tế vùng bao giờ cũng đi đôi với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nếu việc đầu tư đồng bộ được lên kế hoạch thì nó sẽ giúp cho phát triển kinh tế của vùng một cách bền vững và hiệu quả.Việc ưu tiên tập trung đầu tư các công trình hạ tầng có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội sẽ nhanh tạo ra sức bật cho toàn xã hội, thúc đẩy quá trình đô thị hoá; đồng thời phát triển hạ tầng có tính chiến lược lâu dài giúp nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Phát triển kết cấu hạ tầng gắn liền với phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ quốc phòng an ninh trên địa bàn theo từng giai đoạn, phù hợp với qui mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và từng ngành, lĩnh vực sẽ giúp kinh tế vùng phát triển ổn định và an ninh xã hội được đảm bảo. 3.4. Ý nghĩa kết cấu hạ tầng: Việc quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng một cách khoa học và hợp lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.Vì kết cấu hạ tầng là cơ sở nền tảng đảm bảo sự phát triển bền vững của cả một quốc gia.Một quốc gia giàu mạnh, hiện đại và văn minh phải có một kết cấu hạ tầng vững mạnh, tiện lợi, hiện đại và đầy đủ. Thực trạng Kết cấu hạ tầng kỹ thuật: Sau hơn 20 năm đổi mới, từ một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém cả về số lượng và chất lượng, đến nay kết cấu hạ tầng đã đạt được kết quả đáng kể trong các lĩnh vực như sau: - Đường bộ có khoảng                 Trong đó: Quốc lộ có khoảng : 310.000 Km :   21.000 Km - Đường sắt :     3.200 Km - Năng lực thông qua cảng thuỷ nội địa :   96 Triệu tấn - Năng lực thông qua các cảng biển khoảng : 187 Triệu tấn - Năng lực thông qua các cảng hàng không khoảng :   63 Triệu tấn - Công suất thiết kế hệ thống cấp nước đô thị khoảng : 5,5 Triệu m3/ngày - Công suất thực tế hệ thống cấp nước đô thị khoảng : 4,5 Triệu m3/ngày - Tỷ lệ xử lý chất thải rắn đô thị khoảng : 80% - Tỷ lệ đáp ứng nhu cầu đi lại hai đô thị đặc biệt của vận tải hành khách công cộng khoảng : 20% Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại các thành phố là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Năm 1999, cả nước chỉ có khoảng 18 triệu người sống ở thành phố, chiếm 23,6% thì đến năm 2002 đã là trên 20 triệu (tương đương 25,1% dân số). Dự kiến đến năm 2010 là 33% và 2020 là 45%. Dân số sống tại đô thị sẽ ngày càng tăng cao trong khi hạ tầng kỹ thuật của tất cả các thành phố vẫn chưa đáp ứng được trong điều kiện hiện nay. 1.1. Giao thông Đường bộ: Nhiều con đường mới được xây dựng, chất lượng đường đô thị dần tốt hơn, các đô thị loại III trở lên đã có hầu hết các tuyến đường chính được rải nhựa. Các đô thị lớn như Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng, Hải phòng, Cần Thơ có nhiều dự án về giao thông đô thị được triển khai đó là việc cải tạo, nâng cấp và xây mới các trục giao thông đối ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng tâm, các nút giao cắt, đường vành đai đã bước đầu nâng cao năng lực thông qua tại các đô thị này. Giao thông công cộng đã, đang hình thành và phát triển tại các đô thị. Các thành phố, thị xã như Cần Thơ, Cao Lãnh, Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột, Nha trang, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế, Vinh, Sơn La… đã tổ chức các tuyến giao thông công cộng phục vụ vận chuyển khách và đặc biệt tại hai thành phố lớn như Hà Nội và Tp.HCM, giao thông công cộng đang là phương tiện không thể thiếu được. Hiện nay, hai thành phố này đang triển khai xây dựng giao thông vận tải khối lượng lớn như tàu điện ngầm, xe buýt nhanh (BRT). Tuy nhiên, ngoài các điểm tích cực trên thì hạ tầng kỹ thuật về hệ thống giao thông tại các đô thị Việt Nam vẫn rất yếu và thiếu. Mật độ mạng lưới đường thấp, ước tính tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng chỉ đạt 4-5 km/km2. Tại các đô thị loại 2, 3, con số này chỉ bằng một nửa. Bên cạnh đó, mạng lưới đường này lại phân bố không đều, thiếu sự liên thông. Đường phố ngắn, lộ giới hẹp, chất lượng xấu nhưng lại nhiều giao cắt. Các nút giao thông phần lớn là đồng mức, nhỏ hẹp lại không hợp lý nên khiến tình trạng quá tải tại các nút càng trầm trọng. Diện tích đất dành cho giao thông tĩnh quá thấp dẫn đến việc thiếu bãi đỗ xe, điểm trông giữ xe cũng như các bến xe liên tỉnh. Ước tính, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa đến 10% đất xây dựng đô thị trong khi tỷ lệ cần thiết phải là 20-25%. Chính vì thế mà tình trạng tắc nghẽn giao thông ở các đô thị đang thường xuyên xảy ra và ngày càng nghiêm trọng. Đường sắt: Việt Nam có tổng chiều dài đường sắt khoảng 2600 km, trong đó tuyến đường chính nối Hà Nội – TP.HCM dài 1726 km, toàn ngành có 302 đầu máy, 1063 toa tàu chở khách và 4986 toa tàu chở hàng. Đường sắt Việt Nam hiện gồm có hai loại đội tàu hỏa là: Các loại tàu khách, gồm: tàu liên vận quốc tế, tàu khách tốc hành và tàu nhanh, tàu khách thường và tàu hỗn hợp. Các loại tàu chở hàng, gồm: tàu chuyên chở nhanh, tàu chuyên chở thường. Hiện nay phần lớn đường sắt Việt Nam (khoảng 2249km) dùng khổ rộng 1,0 m, và toàn tuyến đường sắt Bắc Nam dùng khổ 1,0 m. Có 180 km dùng khổ 1,435 m là tuyến đường Hà Nội - cảng Cái Lân dùng cho tàu chở hàng. Đường biển: Hệ thống cảng phân bố đều ở cả ba miền với bờ biển dài 3200km. Mặc dù đã có những hải cảng quốc tế như Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng đón nhận tàu các nước ra vào nhưng đó chỉ là số ít. Phần lớn các cảng biển nước ta không đảm nhận được những tàu trọng tải lớn nên chi phí cho việc bôc dỡ hàng hóa cao do phải chuyển tải. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ ở các cảng này cũng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Đường hàng không: Hiện có gần 20 sân đã được đưa vào khai thác và sử dụng, trong đó có ba sân bay cấp IV là: Nội Bài, Tân Sơn Nhất và Đà Nẵng. Ba sân bay này có chất lương tương đương với tiêu chuẩn quốc tế 1.2. Hệ thống cấp thoát nước đô thị Có thể khẳng định rằng: Tại các đô thị của Việt Nam, hệ thống cấp thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống cấp nước đô thị hiện nay vẫn còn trì trệ. Trong tổng số 689 đô thị trên toàn quốc hiện vẫn còn gần 400 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung. Tổng công suất thiết kế của các nhà máy nước sinh hoạt đạt 3,2-3,6 triệu m3/ ngày đêm, công suất khai thác chỉ đạt 2,2 triệu m3/ngày đêm. Tính đến cuối năm 2009, tổng công suất thiết kế cấp nước đạt khoảng 5,9 triệu m3/ngày đêm. Tỷ lệ cấp nước của dân đô thị đạt trung bình 73% (tỷ lệ này đạt 75-90% tại các đô thị lớn như Hà Nội đạt 88,5% và Tp.HCM đạt 87%). Mức sử dụng nước sạch bình quân đạt 90 lít/người/ngày đêm. Đặc biệt tại các khu đô thị cũ với mạng lưới đường ống cũ và đường kính nhỏ, khó đảm bảo phục vụ cấp nước liên tục đặc biệt trong mùa khô hạn. Đến nay hầu hết các đô thị tỉnh lỵ (63 tỉnh thành) đều đã và đang có các dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp mở rộng hệ thống cấp nước. Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ mới quan tâm đến trạm, nhà máy - hệ thống phân phối gồm cải tạo hệ thống cũ, mở rộng mạng mới chưa được quan tâm đầy đủ nên công suất khai thác tại nhiều nhà máy nước mới chỉ đạt khoảng 77% so với công suất thiết kế. - Hệ thống thoát nước: chưa có hệ thống thoát nước thải riêng. Phần lớn hệ thống là chung cho thoát nước mưa và cả nước thải, được xây dựng trên địa hình tự nhiên, nước tự chảy và độ dốc thủy lực thấp. Bên cạnh đó, các hệ thống thoát nước được đầu tư xây dựng qua nhiều thời kỳ khác nhau, không hoàn chỉnh, đồng bộ, nhiều tuyến cống xuống cấp nên khả năng tiêu thoát nước thấp. Theo đánh giá của các công ty thoát nước, môi trường đô thị tại các địa phương hiện nay, 50% tuyến cống đã bị hư hỏng, 30% tuyến cống cũ bị xuống cấp, chỉ khoảng 20% tuyến cống mới xây dựng là còn tốt. Hệ quả tất yếu là tình trạng úng ngập xảy ra thường xuyên đặc biệt trong những năm gần đây khi tốc độ xây dựng tăng mạnh. Số điểm ngập úng ngày càng nhiều và thời gian úng ngập cũng kéo dài 2-3 tiếng đồng hồ. Vấn đề ngập úng đô thị cho đến nay vẫn chưa có giải pháp có tính khả thi để giải quyết. Ngoài ra, cho đến nay, chưa đô thị nào có được trạm xử lý nước thải sinh hoạt. Nước thải hầu như chưa được xử lý và xả thẳng vào nguồn tiếp nhận. Đặc biệt nước thải từ các KCN gây nên ô nhiễm nặng nề các dòng sông lớn như sông Đồng Nai, Sài Gòn, Thị Vải, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Cầu… 1.3. Chiếu sáng đô thị Hiện nay tất cả các đô thị của nước ta đều có điện chiếu sáng với mức độ khác nhau. Tại các đô thị loại đặc biệt và loại I như Hà Nội, Tp.HCM, Hải phòng, Đà Nẵng… có 95-100% các tuyến đường chính được chiếu sáng, các đô thị loại II, III (Việt trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hoá, Vinh, Quy Nhơn, Nha trang, Buôn Ma Thuột…), tỷ lệ này chiếm gần 90%. Các đô thị loại IV và loại V tập trung chiếu sáng đường phố chính chủ yếu là những đoạn quốc lộ, tỉnh lộ đi qua đô thị. Tuy nhiên chất lượng chiếu sáng chưa cao, hiệu suất sáng, cường độ sáng, độ rọi không đảm bảo tiêu chuẩn. Tỷ lệ ngõ xóm được chiếu sáng còn rất thấp  ngay tại đô thị đặc biệt tỷ lệ này cũng chỉ chiếm khoảng 35 - 40%; các đô thị loại IV, V hầu như tất cả ngõ xóm đều không được chiếu sáng. Chiếu sáng các công trình kiến trúc, chiếu sáng quảng cáo, không gian cây xanh mặt nước… vẫn còn tự phát, manh mún, tuỳ tiện. Nguồn sáng (bóng đèn), thiết bị chiếu sáng hiệu suất thấp, tiêu tốn nhiều điện năng vẫn còn sử dụng ở nhiều đô thị. 1.4. Cây xanh đô thị Trong thời gian qua, mặc dù công tác phát triển cây xanh đô thị đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Diện tích cây xanh đô thị từng bước tăng dần cả về số lượng và chất lượng, cây trồng đặc biệt ở các đô thị lớn ngày càng phong phú. Tuy nhiên, qua khảo sát và thống kê thì: có thể đánh giá chung như sau: Tỷ lệ bình quân diện tích đất cây xanh trên đầu người còn thấp, phần lớn dưới 10m2/người (Hà Nội đạt 5,54m2/người). Tỷ lệ diện tích đất cây xanh trên diện tích đất tự nhiên đô thị cũng thấp so với các đô thị trong khu vực và trên thế giới. Quản lý về cây xanh vẫn còn lỏng lẻo, tình trạng chặt phá cây đặc biệt các cây quý hiếm nằm trong nhóm phải được bảo tồn vẫn diễn ra. Nhiều đô thị tiến hành công tác cải tạo, nâng cấp và mở rộng đường phố dẫn đến việc chặt hạ hàng loạt cây xanh. Nhiều công viên, việc cho phép xây dựng công trình không tuân thủ quy hoạch hoặc không nghiên cứu, xem xét thận trọng gây bức xúc trong dư luận. Kết cấu hạ tầng xã hội: 2.1. Cơ sở hạ tầng về nhà ở Tình hình nhà ở Việt nam hiện nay là một vấn đề lớn đối với xã hội. Trong các thành phố lớn vấn đề nhà ở càng trở lên bức thiết với sinh viên, những người chưa có thu nhập và nhưng người nghèo hoặc có thu nhập thấp. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt Danh mục các dự án phát triển nhà ở sinh viên tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bằng nguồn trái phiếu Chính phủ năm 2009 đã được phân bổ cho 2 thành phố này trước đó. Cụ thể, TP. Hà Nội được phân bổ 625 tỷ đồng để triển khai 10 dự án nhà ở sinh viên (DANOSV), đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho 52.419 sinh viên. Tại TP. Hồ Chí Minh, 800 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu Chính phủ được phân bổ để thực hiện 5 dự án, đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho 75.200 sinh viên. Theo ước tính, Hà Nội (cũ) hiện đang thiếu nhà ở nghiêm trọng và cần ít nhất tới 7 triệu m2 nhà ở, tương đương 120.000 căn hộ cho các đối tượng có nhu cầu bức xúc về nhà ở trên địa bàn. Các hộ gia đình có thu nhập thấp đang chiếm đa số trong dân cư thành phố, ít nhất 70% số hộ gia đình ở Hà Nội (trong đó có khoảng 50% số hộ công nhân viên chức) không có khả năng tích lũy từ tiền lương của mình để mua nhà, xây nhà mới cho mình nếu không có sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Theo ước tính của Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội, có tới 10.000 hộ gia đình ở Hà Nội đang thực sự bức xúc về nhà ở và thành phố cũng chỉ mới có giải pháp cho khoảng 30% trong số này. Theo điều tra của tổ chức JICA nhu cầu nhà ở cho thuê, thuê mua của các đối tượng là cán bộ, công chức, công nhân...  là vào khoảng 18.000 căn hộ, trong đó nhà ở cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn, bức xúc cần cải thiện điều kiện chỗ ở chiếm 30%. Trong thời gian tới, cùng với sự gia tăng dân số và tách hộ do kết hôn cũng như do nhu cầu nhà cho giải phóng mặt bằng triển khai các dự án đô thị hóa và phát triển kinh tế và do sự xuống cấp của quỹ nhà hiện có... thì nhu cầu về nhà ở sẽ càng trở nên gay gắt Với giá nhà đất hiện nay, việc sở hữu một căn hộ vẫn là điều không tưởng của phần lớn người dân ở các đô thị lớn tại Việt Nam. 2.2. Cơ sở hạ tầng về y tế Hệ thống tổ chức y tế việt Nam được hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã và thôn bản, trong văn bản của Đảng và Nhà nước luôn xác định tổ chức y tế cơ sở có vị trí chiến lược rất quan trọng trong hệ thống tổ chức y tế quốc gia. Y tế cơ sở là đơn vị y tế gần dân nhất, phát hiện những vấn đề của y tế sớm nhất, giải quyết 80% dân số, phần lớn trong 15 triệu dân nghèo cũng như diện chính sách sống tập trung vùng nông thôn, những đối tượng này chủ yếu chỉ có khả năng tiếp cận tại tuyến y tế cơ sở; y tế cơ sở còn là nơi thể hiện sự kiểm nghiệm rõ các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế, là bộ phận quan trọng nhất của ngành y tế, tham gia phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Mạng lưới y tế cơ sở đã được duy trì phát triển đáp ứng yêu cầu công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong nhiều thập kỷ qua đã góp phần to lớn trong sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, trong việc khống chế và đẩy lùi nhiều bệnh dịch và bệnh xã hội. Sau một thời gian triển khai thực hiện Quyết định số 58 TTG, trạm y tế xã đã được hồi sinh, đang từng bước củng cố và phát triển. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, một số trạm y tế xã được xây dựng mới hoặc nâng cấp đưa tổng số trạm y tế xã trong cả nước đạt 95,1%. Hiện vẫn còn 4,9% số xã chưa có trạm, cán bộ y tế làm việc tại trụ sở uỷ ban xã hoặc nhờ bên trường học, phấn đấu trong năm 2000 phủ kín 100% số xã có trạm y tế, về trang thiết bị y tế hiện nay mới có một nửa số trạm y tế xã có tương đối đủ những dụng cụ thiết yếu để làm việc, về cán bộ y tế xã hiện có 42,522, bình quân 4 người/ 1 trạm y tế xã. Số xã có bác sĩ công tác đạt 29%, có 15 tỉnh, thành đạt 40% trong đó có Hà Nội và Cần Thơ đạt 100%. Y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh công tác tại xã chiếm 82% số xã, có 13 tỉnh đạt 100%. công tác tại xã chiếm 82% số xã, có 13 tỉnh đạt 100%. 2.3. Cơ sở hạ tầng về giáo dục. Khoảng 80% giáo viên hiện nay đáp ứng được với đổi mới phương pháp giảng dạy. Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay, vấn đề lo nhất không phải là đội ngũ mà là… cơ sở vật chất, trang thiết bị. Mặc dù là địa phương có sự đầu tư lớn nhất cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, tuy nhiên, do quỹ đất đô thị quá hạn hẹp, ở TPHCM hiện nay vẫn còn không ít ngôi trường có quy mô cực nhỏ được xây dựng trước giải phóng và không hề lớn lên sau 30 năm. Nếu như TPHCM khát sân chơi thì ở các tỉnh khác của khu vực phía Nam như Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long, Cà Mau… lại trong tình trạng “khát” phòng chức năng, thiết bị, thí nghiệm. Ở Tiền Giang, tình hình cũng chẳng mấy khả quan, cho dù địa phương này đã có những đầu tư tương đối cho cơ sở vật chất. Ông Trần Văn Trí, phó giám đốc Sở GD&ĐT phản ánh: “Ở các lớp thay sách yêu cầu có phòng bộ môn, chức năng nhưng hiện tình hình các phòng chức năng, trong hệ thống trường học của tỉnh chưa tốt lắm. ở bậc THCS chỉ có 58% các trường có phòng thí nghiệm bộ môn. Bậc tiểu học nhiều nơi phòng thiết bị và thư viện vẫn trong tình trạng 2 trong 1!”. Bàn ghế lạc hậu, không đúng quy cách cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc đổi mới phương pháp. Ông Trần Trung Dưỡng, trưởng Phòng GD tiểu học, Sở GD&ĐT Long An phản ánh: “Ở Long An hiện chỉ có 22,7% bàn ghế đúng quy cách, vì thế khi triển khai đổi mới phương pháp gặp không ít khó khăn trong thực hiện, đặc biệt trong việc tổ chức các buổi học theo dạng thảo luận”. Không chỉ thiếu sân chơi, phòng chức năng, nhiều trường phổ thông hiện còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học. Một giáo viên trường chuyên của một tỉnh miền Trung cho biết: “Ngay những phương tiện dạy học thô sơ nhất như Atlas (trong môn Địa lý) cũng không cập nhật. Trong kỳ thi HS giỏi quốc gia vừa qua vẫn dùng Atlas cũ rích từ năm 1992 khiến HS rất khó khăn trong làm bài”. Kết cấu hạ tầng môi trường: 3.1. Hệ thống thoát nước thải : Trong  số 63 đô thị tỉnh lỵ đã có 32 đô thị có các dự án về thoát nước và vệ sinh môi trường từ nguồn vốn ODA. Nhiều dự án lớn được triển khai tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng… bước đầu phát huy có hiệu quả, góp phần làm giảm mức độ ngập úng tại các đô thị. Tuy nhiên, tất cả các đô thị ở Việt Nam chưa có hệ thống thoát nước thải riêng mà chung cho cả thoát nước mưa và nước thải. Các hệ thống thoát nước được đầu tư xây dựng qua nhiều thời kỳ khác nhau, không hoàn chỉnh, đồng bộ, nhiều tuyến cống xuống cấp nên khả năng tiêu thoát nước thấp. Nước thải hầu như chưa được xử lý và xả thẳng vào nguồn tiếp nhận. Đặc biệt nước thải từ các KCN gây nên ô nhiễm nặng nề các dòng sông lớn như sông Đồng Nai, Sài Gòn,  Thị Vải, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Cầu. Tình trạng ngập úng đô thị đang là mối quan tâm hàng ngày của các đô thị lớn (hễ mưa xuống là ngập) ví dụ, ngập úng (do triều cường và mưa lớn) xảy ra thường xuyên tại TP.HCM hoặc ngập nặng đã xảy ra tại Hà Nội vào đúng thời gian này năm 2008. Vấn đề ngập úng đô thị cho đến nay vẫn chưa có giải pháp có tính khả thi để giải quyết. 3.2. Chất thải rắn ngày càng diễn biến phức tạp Chất thải rắn ở đô thị ngày càng có những diễn biến phức tạp. Chất thải từ các nguồn như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, GTVT, xây dựng, y tế, làng nghề và sinh hoạt đô thị đang ngày càng tăng nhanh về chủng loại, số lượng và tính độc hại. Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trung bình đạt 21.000 tấn/ngày. Chôn lấp vẫn là hình thức phổ biến với số lượng trung bình 1 bãi chôn lấp đô thị. 85% số đô thị từ thị xã trở lên sử dụng biện pháp chôn lấp không hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường, tốn nhiều diện tích đất. Vấn đề quản lý chất thải rắn, đặc biệt là xử lý rác, nước rác, tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị, vùng ven đô thị và môi trường xung quanh các cơ sở xử lý rác đang là mối quan tâm của nhiều địa phương, mặt khác lựa chọn địa điểm để xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn cũng đang là vấn đề nan giải. 3.3. Chất thải nông thôn  Chất thải chăn nuôi, bao bì thuốc bảo vệ thực vật, chất thải làng nghề... là những vấn đề nóng bỏng của môi trường nông thôn hiện nay.   Ông Vũ Bình Nguyên, Giám đốc Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường Hà Nội cho biết, vấn đề chất thải nông thôn từ khi còn "Hà Nội cũ", đã là vấn đề nổi cộm. Đến nay, khi Hà Nội đã mở rộng, mỗi ngày Thủ đô thải ra 5.000 tấn chất thải rắn, trong đó 1.500 tấn từ khu vực nông thôn.   Hiện nay, mới có khoảng 80% số xã là có tổ thu gom rác. Trong số 361/400 xã có tổ thu gom rác thì 148 xã chuyển được đến khu xử lý, còn những nơi khác, rác vẫn tràn ngập khắp nơi công cộng, ao, hồ...   Ở làng nghề, hầu như chưa xử lý được vấn đề rác và nước thải. Tình trạng của Hà Nội cũng là tình trạng chung của nhiều địa phương.   Một trong những nguồn thải lớn ở nông thôn là rác thải chăn nuôi. Theo thống kê của Cục Chăn nuôi, lượng chất thải rắn do vật nuôi thải ra (phân và các chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia cầm chết, chất thải lò mổ...) trong năm 2008 là 80,49 triệu tấn. Miền Bắc chiếm hơn 51 triệu tấn. Tuy nhiên, ước tính hiện nay, chỉ có khoảng 40-70% chất thải rắn được xử lý. Số còn lại thải thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch... Chất thải rắn có nguy cơ ô nhiễm do ít được xử lý triệt để như chất thải của trâu, dê, cừu. Hiện nay, phương pháp xử lý chất thải rắn còn đơn giản. Chủ yếu tận dụng làm thức ăn cho cá, ủ phân hoai mục để bón cho lúa, hoa màu hoặc để nuôi giun... Chất thải rắn có nguy cơ ô nhiễm cao do thành phần và liều lượng chất gây ô nhiễm cao hơn rơi vào khu vực chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm. Chất thải lỏng trong chăn nuôi cũng đang trong tình trạng bị bỏ ngỏ.   Thông qua các dự án về khí sinh học, một phần chất thải rắn và lỏng được xử lý bằng công nghệ biogas. Tuy vậy, số gia đình có hầm biogas chưa nhiều. Chất thải làng nghề đang là vấn đề bất cập, đa số các gia đình tự xử lý.   Tiến sĩ Vũ Thị Thanh Hương, Viện Nước tưới tiêu và môi trường, Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam, dự báo đến năm 2010, khối lượng chất thải nông thôn khoảng hơn 145.000.000 tấn, sẽ tăng 173,8% so với năm 2007. Đó là chất thải chăn nuôi, chất thải sinh hoạt, chất thải làng nghề, chất thải y tế... Bên cạnh đó, bao bì thuốc bảo vệ thực vật là nguồn chất thải nguy hại đang là mối lo của nông thôn.  Theo ông Trịnh Công Toản, đại diện Cục Bảo vệ thực vật, trong 10 năm qua loại chất thải độc hại này đã tăng gấp hơn 10 lần. Tính toán cho thấy, cứ mỗi bao bì thuốc lại có 1,8% lượng thuốc dính vào. Nông dân theo thói quen sử dụng xong là vứt ngay ra môi trường. Trong khi đó, bao bì làm bằng giấy kẽm, chai nhựa, chai thủy tinh bị vứt bừa bãi ra đồng ruộng, là loại chất thải nguy hại, khó phân hủy.  Công tác quản lý chất thải nông thôn hiện nay tại các địa phương đang trong tình trạng nơi thì do Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý, nơi lại do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm. Có nơi trách nhiệm chồng chéo nhau khiến công tác này lại bị... bỏ ngỏ. Chính sách của Nhà nước 1. Giải pháp của nhà nước về vấn đề kết cấu hạ tầng kỹ thuật: 1.1. Giải pháp về giao thông Thứ nhất, đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông đô thị để giải quyết ngay tình trạng ùn tắc đang ngày càng trở nên nhức nhối. Muốn vậy, cần sử dụng hiệu quả hệ thống giao thông công cộng hiện có và tổ chức quản lý giao thông một cách hữu hiệu hơn. Để đảm bảo nhu cầu đi lại, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường đô thị, các thành phố, đô thị cần thực hiện một số vấn đề sau: Tăng cường vai trò và chức năng của vận tải công cộng như xe buýt và các loại phương tiện công cộng khác Kiểm soát ô tô cá nhân và xe máy Có một hệ thống giá phù hợp để khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng Cung cấp thông tin đầy đủ về việc sử dụng phương tiện vận tải công cộng Cần tách rời giao thông liên tỉnh và giao thông nội đô bằng cách tăng cường xây dựng và hoàn thiện các con đường vành đai. Tăng cường hiểu biết của người dân đối với các vấn đề đô thị cũng là hết sức cần thiết Thứ hai, tiếp tục đầu tư xây dựng mạng lưới giao thông ở vùng nông thôn cũng như vùng sâu vùng xa miền núi căn cứ trên quy hoạc chi tiết của từng địa phương 1.2. Giải pháp về cấp thoát nước Xây dựng đồng bộ hệ thống cấp, thoát nước đô thị và KCN Thủ tướng Chính phủ vừa có các Quyết định 1929/QĐ-TTg và 1930/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 phê duyệt định hướng phát triển cấp, thoát nước đô thị và khu công nghiệp (KCN) Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Đáp ứng đầy đủ nhu cầu cấp nước sạch Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tỷ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước sạch tại các đô thị đạt 100%, với tiêu chuẩn cấp nước bình quân đạt 120 lít/người/ngày đêm, chất lượng nước đạt quy chuẩn quy định; tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch tại các đô thị dưới 15%; dịch vụ cấp nước ổn định, liên tục 24h/ngày, áp lực nước trên toàn mạng đạt quy chuẩn quy định. Tầm nhìn đến năm 2050, tất cả các đô thị, KCN được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cấp nước trên cơ sở cấp nước ổn định, chất lượng bảo đảm, dịch vụ tốt và kinh tế. Để đạt được các mục tiêu trên, trong giải pháp về nguồn nước, định hướng phát triển xác định yêu cầu ưu tiên khai thác nguồn nước mặt, khai thác sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý và từng bước giảm lưu lượng khai thác nước ngầm tại các đô thị lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó là cần tăng cường triển khai thực hiện quy hoạch cấp nước vùng liên tỉnh, vùng tỉnh và liên đô thị; ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình cấp nước vùng. Kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động, cải tạo và đầu tư mở rộng mạng lưới đường ống cấp nước nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước, phát huy hết công suất thiết kế và giảm tỷ lệ thất thoát nước. Về cơ chế, chính sách cho lĩnh vực cấp nước, sẽ huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước. Dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Thành lập Quỹ quay vòng cấp nước tạo nguồn tài chính hỗ trợ, đầu tư các dự án phát triển cấp nước tại các đô thị nhỏ và khu dân cư tập trung. Xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước Theo định hướng, hệ thống thoát nước phải được xây dựng đồng bộ bảo đảm thoát nước mưa và nước thải từ thu gom, chuyển tải đến xử lý cho từng lưu vực. Từ nay đến năm 2015, mục tiêu đặt ra là ưu tiên giải quyết thoát nước mưa, xóa bỏ tình trạng ngập úng thường xuyên trong mùa mưa ở các đô thị loại II trở lên; mở rộng phạm vi phục vụ của các hệ thống thoát nước từ 56-60% hiện nay lên 70-80%. Đến năm 2025, xóa bỏ hoàn toàn tình trạng ngập úng thường xuyên tại các đô thị. Về hệ thống thoát nước thải, mục tiêu đến năm 2025, các đô thị loại IV trở lên sẽ có hệ thống thu gom và trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung; tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt 70-80%, nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn quy định. Các làng nghề có trạm xử lý tập trung hoặc phân tán, hoạt động thường xuyên, chất lượng nước thải xả ra môi trường đạt quy chuẩn quy định. Các giải pháp được đưa ra là hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thoát nước. Các thành phố trực thuộc Trung ương phải tổ chức lập và phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước, xác định sơ đồ hệ thống, lưu vực thoát nước, nguồn tiếp nhận nước mưa, nước thải, xác định các dự án đầu tư và giai đoạn đầu tư. Ưu tiên nguồn vốn ODA cho đầu tư, phát triển hệ thống thoát nước đô thị, đặc biệt các đô thị lớ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25831.doc